• Không có kết quả nào được tìm thấy

II A. VĂN BẢN

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "II A. VĂN BẢN"

Copied!
9
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

NỘI DUNG ÔN TẬP LẦN 3 TUẦN 9 -TUẦN 11 KHỐI 8 HỌC KÌ

II A. VĂN BẢN

TỔNG KẾT PHẦN VĂN

VĂN

BẢN TÁC GIẢ THỂ

LOẠI GIÁ TRỊ NỘI DUNG

Vào nhà ngục Quảng

Đông cảm tác

Phan Bội Châu (1867-

1940)

Thất ngôn bát cú Đường luật

Bằng giọng điệu hào hung, có sức lôi cuốn mạnh mẽ “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác" đã thể hiện phong thái ung dung , đường hoàng và khí phách kiên cường, bất khuất vượt lên trên tù ngục khốc liệt của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bôi Châu.

Đập đá ở Côn Lôn

Phan Châu Trinh (1872-

1926)

Thất ngôn bát cú Đường luật

Bằng bút pháp lãng mạn và giọng điệu hào hùng, bài thơ giúp cho ta cảm nhận một hình tượng đẹp lẫm liệt, ngang tàng của người anh hùng cứu nước dù gặp bước nguy nan nhưng vẫn không sờn lòng đổi chí.

Muốn làm thằng

Cuội

Tản Đà (1889- 1939)

Thất ngôn bát cú Đường luật

Bài thơ là tâm sự của một con người bất hoà sâu sắc với thực tại tầm thường xấu xa, muốn thoát ly mộng tưởng lên cung trăng để bầu bạn với chị Hằng.

Hai chữ nước

nhà

Trần Tuấn Khải (1895-

1983)

Song thất lục bát

Mượn một câu chuyện lịch sử tác giả bộc lộ cảm xúc của mình và khích lệ lòng yêu nước, ý chí cứu nước của đồng bào.

Nhớ rừng

Thế Lữ (1907-

1989)

Thơ 8 chữ (thơ mới)

Mượn lời con hổ bị nhốt trong vườn

bách thú, Thế Lữ diễn tả sâu sắc nỗi chán

ghét thực tại tầm thường, tù túng và niềm

khao khát tự do mãnh liệt bằng những vần

thơ tràn đầy cảm xúc, lãng mạn. Bài thơ đã

khởi gợi lòng yêu nước thầm kín của

(2)

VĂN

BẢN TÁC GIẢ THỂ

LOẠI GIÁ TRỊ NỘI DUNG

người dân mất nước thuở ấy.

Ông đồ Vũ Đình Liên (1913-

1996)

Thơ 5 chữ (thơ mới)

Bài thơ thể hiện sâu sắc tình cảnh đáng thương của “ông đồ”. Qua đó toát lên niềm cảm thương chân thành trước một lớp người đang tàn tạ và nỗi tiếc nhớ người xưa của nhà thơ.

Quê hương

Tế Hanh (1921)

Thơ 8 chữ (thơ mới)

“Quê hương” đã vẽ ra một bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển, trong đó nổi bật lên hình ảnh khoẻ khoắn đầy sức sống của người dân chìa và sinh hoạt lao động làng chài. Bài thơ cho thấy tình cảm quê hương trong sáng tha thiết của nhà thơ.

Khi con tu hú

Tố Hữu (1920-

2002)

Lục bát Bài thơ thể hiện sâu sắc lòng yêu cuộc sống và niềm khát khao tự do cháy bỏng của người chiến sĩ Cách Mạng trong cảnh tù đày.

Tức cảnh Pác

Hồ Chí Minh (1890-

1969)

Thất ngôn tứ tuyệt

Tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của Bác Hồ trong cuộc sống cách mạng đầy gian khổ ở Pác Bó. Với Người, làm cách mạng và sống hoà hợp với thiên nhiên là niềm vui lớn.

Ngắm trăng

Hồ Chí Minh

Thất ngôn tứ tuyệt

Tình yêu thiên nhiên đến say mê và phong thái ung dung của Bác Hồ ngay cả trong cảnh tù ngục cực khổ tối tăm.

THƠ CỔ

- Số câu, số chữ được hạn định.

- Luật bằng trắc, phép đối, quy tắc gieo vần rất chặt chẽ.

THƠ MỚI

- Số câu, số chữ trong câu không hạn định, không bằng nhau.

- Lời thơ tự nhiên, không có tính chất ước lệ, khuôn sáo, cảm xúc chân thật.

B:TẬP LÀM VĂN

(3)

Viết bàI tập làm văn số 7 – văn nghị luận (làm tại lớp)

I. Đề bàI tham khảo

Đề 1: Tuổi trẻ là tương lai của đất nước.

Đề 2: Văn học và tình thương.

Đề 3: Hãy nó không với các tệ nạn.

II. Gợi ý dàn bài Đề 1:

a) Mở bài.

Dẫn dắt vào đề bằng lời dạy của Bác Hồ. Nêu vai trò của tuổi trẻ với tương lai đất nước.

b) Thân bài.

- Tại sao nói “Tuổi trẻ là tương lai đất nước”?

+ Tuổi trẻ bao giờ cũng dồi dào sức khoẻ, có đủ nhiệt tình để cống hiến cho quê hương, đất nước.

+ Tuổi trẻ không bao giờ thiếu ước mơ và sự sáng tạo.

+ Có nhiệt huyết, sự táo bạo và sẵn sàng dấn thân để đến những nơi khó khăn và làm những việc khó.

- Tuổi trẻ nước ta trong quá khứ đã cống hiến cho đất nước như thế nào? (kể về một số tấm gương mà em biết, như: Trạng Hiền, Lê Văn Tám, Nguyễn Văn Trỗi, Lê Bá Khánh Trình,…).

- Tuổi trẻ hôm nay cần làm gì để cống hiến cho đất nước?

+ Ra sức học tập.

+ Tham gia tích cực các hoạt động xã hội.

+ Thi đua lập thành tích trong mọi lĩnh vực của đời sống.

+ Chủ động tiếp nhận và gánh vác dần những công việc của thế hệ trước.

- Tuổi trẻ cũng cần khắc phục nhược điểm không có lợi cho bản thân và tương lai của đất nước (sự bồng bột, thói ỷ lại, thó ăn chơi sa đoạ,…).

c) Kết bài.

Tuổi trẻ phải ước mơ, phải khát khao cống hiến. Có như vậy, cuộc sống mới

dồi dào ý nghĩa.

(4)

Đề 2:

a) Mở bài.

Mối quan hệ giữa văn học và tình thương trong lịch sử văn học.

b) Thân bài.

- Tại sao văn học luôn gắn bó với tình thương?

+ Vì văn học là tâm hồn dân tộc.

+ Một trong những vẻ đẹp nhất của tâm hồn dân tộc ấy là tình thương yêu nhân loại.

- Văn học gắn bó với tình thương như thế nào?

+ Văn học nói lên nỗi đau khổ của mọi kiếp người.

+ Văn học nói lên sự cảm thông đối với nỗi đau của họ và gợi tình thương yêu trong mỗi tâm hồn người đọc.

+ Văn học bồi dưỡng, làm đẹp tâm hồn con người.

c) Kết bài.

Tình yêu thương đã trở thành một phẩm chất và là thước đo cao quý của văn học. Nó cứu vớt, dìu dắt, nâng niu con người trong hiện tại và trên đường đến tương lai.

Tham khảo một số bài viết:

1. Luận về nguyên lý văn chương

Phàm việc gì cũng có nguyên lý. Nguyên lý tức là cái lẽ căn nguyên của việc ấy.

Văn chương cũng vậy. Đặt nên câu thơ câu hát, viết ra bài luận, bài văn, thì gọi là văn chương. Song thử xem căn nguyên của văn chương ấy, bởi lẽ gì mà có, vì ở đâu mà sinh ra thì gọi là nguyên lý văn chương.

Cha mẹ dạy con, giảng giải đều hơn lẽ thiệt, rạch ròi kẽ tóc chân tơ. Hai người tự tình biệt ly với nhau, ấm lạnh ngọt bùi, kể hết nỗi này kể sang nỗi khác. Người đàn bà lỡ bước, thở dài than vắn, phàn nàn những số phận hẩm hưu. Đứa mục đồng đi chăn trâu, nhân khi thích chí nghêu ngao vài tiếng giữa đồng, đó toàn là cái mầm của văn chương cả. Nói cho cùng thì một tiếng cười một tiếng khóc của đứa trẻ thơ, cũng là cái gốc văn chương.

Người ta có tính tình, có tư tưởng, có ngôn ngữ văn tự, thì tự nhiên phải có văn chương. Tính tình người ta cảm xúc với ngoại vật, sinh ra khi mừng, khi giận, khi vui, khi buồn, khi xót xa, khi ham muốn. Các mối tình ấy chứa ở trong bụng, tất phải phát tiết ra nhời nói: đó tức là nguyên lý văn chương.

Tư tưởng cái suy nghĩ tự trong óc biết phân biệt lẽ phải lẽ trái, biết phán đoán

(5)

điều dở điều hay, biết suy xét đến những lý cao xa, mắt không trông thấy tai không nghe tiếng. Những điều nghĩ ra được lại muốn tỏ cho người khác biết, đó cũng là nguyên lý văn chương.

Có tính tình, có tư tưởng, mà nếu không có ngôn ngữ văn tự thì cũng không thành văn chương được. Xem như giống súc vật có cảm giác, có tri thức, mà không có văn chương là bởi vì không có ngôn ngữ văn tự. Vậy ta phải nhờ có ngôn ngữ văn tự mới đạt được tính tình tư tưởng của ta, thì ngôn ngữ văn tự cũng là cái nguyên lý của văn chương.

Nói rút lại thì sở dĩ có văn chương, một là bởi ở tính tình, hai là bởi ở tư tưởng, ba là bởi ở ngôn ngữ văn tự, đó là ba cái căn nguyên trước nhất. Có ba cái căn nguyên ấy, rồi những sự quan cảm ở bề ngoài đưa đến mới thành ra văn chương vậy.

Quan cảm bề ngoài, thì lại do ở cảnh tượng của tạo hoá, do ở công việc của cuộc đời và ở cảnh ngộ của một mình.

Cảnh tượng của tạo hoá hiển hiện ra trước mắt ta, nghìn hình muôn trạng, làm cho ta phải nhìn phải ngắm, phải nghĩ ngợi ngẩn ngơ. Ta cứ theo cái cảnh tượng ấy mà tả ra thì gọi là văn chương tả cảnh.

Công việc của cuộc đời, xảy qua đến mắt ta, chạm đến tai ta, việc gần việc xa, việc nhớn việc nhỏ, có việc ta ghét, có việc ta ưa, làm cho ta phải khen phải chê, phải cười phải khóc. Ta cứ theo công việc đó mà ghi chép lại thì gọi là văn chương tự sự hay là nghị luận.

Cảnh ngộ của một mình, khi gặp được cảnh sung sướng, khi gặp phải cảnh chua cay. Ta nhân cái cảnh ngộ đó, ta muốn giãi tỏ cái tình của ta thì gọi văn chương tự tình hay là thuật hoài.

Văn chương tuy nhiều, nhưng đại ý thì bất ngoại ba điều ấy.

Cứ như vậy thì văn chương cũng là một cái lẽ tự nhiên, phải có của trời phú bẩm cho người ta. Song người ta tuy có sẵn cái phú bẩm ấy, nhưng phi có tài cũng không tả được, mà có tài phi có học thì văn chương cũng không sao hay được.

Văn chương khác nhau với nhời nói thường. Nhời nói thường thì gặp đâu nói đấy, miễn là nói cho xuôi nhời, cho người ta hiểu được ý mình thôi. Chớ văn chương thì phải nói cho có ý nhị, có văn hoa, phải xếp đặt cho ra nhời óng chuốt, ý tứ đầu đuôi phải quán xuyến với nhau, mới thành được văn chương.

Người làm văn chương, cũng như một tay hoạ công. Hoạ công có khéo tay thì mới vẽ đúng được hình tượng, văn chương có tài tình mới tả đúng được tinh thần.

Người có văn chương, lại như cây có hoa. Cây có bồi dưỡng được nhiều khí lực thì nở ra hoa mới được phổng pháp. Người có hàm súc được nhiều kiến thức tư tưởng thì tả ra văn mới được dồi dào.

Bởi các lẽ ấy mà tài văn chương là tài hiếm có, mà khoa văn chương là khoa tối

(6)

cao vậy.

2. Suy nghĩ về việc học

Học để làm gì? Câu hỏi ấy nghe ra thật là tầm thường cũ rích, tưởng như không ai để ý đến; nhưng cứ như những câu trả lời của các nhà học giả xưa nay thì có một câu vắn tắt mà có thể bao quát được toàn thể và công dụng sự học là:

Học để làm người

Theo câu nói ấy, có kẻ lại cãi rằng: Vậy thì không học không làm người được sao? Kìa như ông Hán Cao Tổ không học mà làm một ông vua anh hùng; ông Hoắc Quang không học mà làm được công nghiệp lớn. Bên Âu Tây, nhiều nhà đại chính trị đại sáng tạo, hoặc trọn đời ở trong các mỏ, các công xưởng mà làm được công việc to đó thì sao? Còn ở trên đời biết bao nhiêu người vào trường nọ, đậu bằng kia, đào mãi trong trăm ngàn bộ sách, miệng nói ra rành là chuyện văn hào đông tây, mà xét đến phẩm cách tính chất, có điều mất cả tư cách làm người nữa. Thế thì câu nói "học để làm người" không phải là không đúng sao?

Phải, chỉ nói trông không là "học", thì có hơi không rõ ràng mà lẫn lộn như trên, nên trước phải hiểu cái "học làm người" này không phải như người mình thường gọi là "đi học". Theo lối thông thường người mình thì có ôm sách tới trường, có thầy dạy, có thi có đỗ, mới gọi là học. Nhưng cái học làm người này thì khác hẳn thế.

Sao vậy? Cái học làm người này, nói về học khoá cần thiết thì người thông thường ai cũng có thể theo sức lực cùng bản năng của mình mà làm hết phận sự; mà nói đến chỗ cao diệu thì dầu thánh hiền hào kiệt cũng không ai dám tự phụ, rằng đã làm được hoàn toàn cực điểm. Bởi vì, đã là "người" thì ai cũng là người, mà nói đến sự làm người thì rất là mênh mông mà không có hạn lượng. Trăm năm ngắn ngủi, trẻ, lớn, già, chết không cái gì mới lạ. Song kẻ thì thánh hiền hào kiệt, kẻ thì ngu tiện dung phàm; người thì có công với nhân loại, muôn đời ai cũng hinh hương, người lại hại giống hại nòi, trăm miệng cũng đều thoá mạ. Không những thế mà thôi, làm một người về thời đại cổ, và làm một người ở thời đại nay khác nhau;

làm người ở nước giàu mạnh với làm người ở nước hèn yếu khác nhau, suy ra đối với nước nhà mình và đối với thế giới nhân loại chung, nên làm người thế nào.

Cảnh địa của người trăm chiều không đồng nhau thì cái cách làm người cho xứng đáng thích hợp cũng không phải cùng một cách. Những chuyện mấy bậc vĩ nhân đông tây xưa nay, biết bao nhiêu điều đủ làm gương cho người sau học theo mà người nào có chân tướng người nấy, mỗi người dạy cho người sau một việc; bắt chước được một việc thì dầu ai đọc thuộc trăm nghìn quyển sách cũng chẳng hơn chi.

Cái trường học để "làm người" đó tức là cái cõi đời ta ở vậy. Bao nhiêu sự khốn

khó ở đời, bao nhiêu sự kinh nghiệm người trước để lại đều là những bài dạy cho

ta. "Làm người" ở đời đã khó như trên đã nói thì "học làm người" chắc không phải

chuyện dễ.

(7)

Trong cái trường học mông mênh kia, trắng vàng chen lộn, sự lành sự ác, điều dở điều hay không thiếu thứ gì; nên ai đã đem thân tòng học ở cái trường ấy thì cần phải có cặp mắt biết quan sát và cái não biết phán đoán để lựa những chuyện đáng làm theo, cùng những chuyện đáng chữa cãi.

Cái mục đích chân chính của sự học là thế đó. Học như thế mới mong bổ ích cho đời, làm được một phần việc trong xã hội. Trái lại, nếu mới cặp sách đến trường mà trong não đã mơ tưởng đến chức kia hàm nọ, thấy người ta xuống ngựa lên xe, mà cũng ao ước cho được cửa cao nhà rộng, thì cái bả hư vinh, cái mồi phú quý ấy chắc không sao nhắc ta lên cái địa vị làm một người chân chính ở đời được. Vậy ai muốn khỏi cái tiếng hư sinh thì cần phải "học để làm người"; mà học để làm người không phải nhất định có cắp sách đến trường và thi đỗ bằng này bằng nọ, nhưng chính là noi gương kim cổ mà học theo, làm cho hết nghĩa vụ một người đối với nhân quần xã hội vậy .

Dàn ý Bài viết số 7 lớp 8 đề 3: Hãy nói "Không" với các tệ nạn xã hội

I. Mở bài:

Nêu khái quát vấn đề để dẫn vào bài (VD: Đất nước chúng ta đang trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hóa để tiến tới một xã hội công bằng dân chủ văn minh. Để làm được điều đó, chúng ta phải vượt qua các trở ngại, khó khăn. Một trong những trở ngại đó là các tệ nạn xã hội. Và đáng sợ nhất chính là ma tuý, mối nguy hiểm không của riêng ai).

II. Thân bài

1. Giải thích thuật ngữ

- Tệ nạn xã hội: Tệ nạn xã hội là những hành vi sai trái, không đúng với chuẩn mực xã hội, vi phạm đạo đức, pháp luật, gây ảnh hưởng nghiêm trọng. Tệ nạn xã hội là mối nguy hiểm, phá vỡ hệ thống xã hội văn minh, tiến bộ, lành mạnh. Các tệ xã hội thường gặp là: Tệ nạn ma tuý, mại dâm, đua xe trái phép…và trong đó ma túy là hiện tượng đáng lo ngại nhất, không chỉ cho nước ta mà còn cho cả thế giới.

- Ma tuý: Là một chất gây nghiện có nguồn gốc tự nhiên hay tổng hợp. Khi ngấm vào cơ thể con ngưòi, nó sẽ làm thay đổi trạng thái, ý thức, trí tuệ và tâm trạng của người đó, khiến người sử dụng có cảm giác lâng lâng, không tự chủ được mọi hành vi hoạt động của mình, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ.

- Ma tuý tồn tại ở rất nhiều dạng như hồng phiến, bạch phiến, thuốc, lắc … dưới nhiều hình thức tinh vi khác nhau như uống, chích, kẹo…

2. Làm rõ tác hại của ma tuý

a. Đối với cá nhân người nghiện (có thể trình bày theo ba vấn đề: Sức khoẻ, tinh thần, thể chất)

- Gây suy giảm hệ miễn dịch, giảm khả năng đề kháng làm cho người bệnh dễ mắc các bệnh khác;

- Ma tuý chính là con đường dễ dàng đi đến những căn bệnh nguy hiểm dễ lây lan đặc biệt là HIV/AIDS;

- Người nghiện ma tuý sức khoẻ yếu dần, không có khả năng lao động, trở thành gánh nặng cho gia đình, xã hội.

- Nghiện ma tuý khiến cho con người u mê, tăm tối; từ người khoẻ mạnh trở nên bệnh tật, từ đứa con ngoan trong gia đình trở nên hư hỏng, từ công dân tốt của xã hội trở thành đối tượng cho luật pháp. Khi đói thuốc, con nghiện sẽ làm bất cứ điều gì kể cả tội ác: Cướp giật, trộm cắp, giết người…

(8)

b. Đối với gia đình

- Làm cho kinh tế gia đình suy sụp - Làm tan vỡ hạnh phúc gia đình … c. Đối với xã hội

- Là một trong những nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội khác như trộm cắp, cướp giật, mại dâm ... làm cho an ninh xã hội bất ổn.

- Làm hao tiền tốn của của quốc gia (do phải phòng chống, lập trại cai nghiện, ...) - Những con nghiện mà không được gia đình chấp nhận sẽ đi lang làm mất vẻ mỹ quan, văn minh lịch sự, vật vờ trên những con đường của xã hội.

- Làm suy giảm giống nòi …

3. Từ việc nêu và phân tích tác hại cần khẳng định: Phải nói "không" với ma tuý

4. Biện pháp (Sau khi khẳng định nói "không" cần dẫn để nêu lên biện pháp phòng chống ma tuý):

- Có kiến thức về tác hại, cách phòng trách ma tuý, từ đó tuyên truyền cho mọi người về tác hại của nó.

- Hãy tránh xa với ma tuý bằng mọi cách, mọi người nên có ý thức sống lối sống lành mạnh, trong sạch, không xa hoa, luôn tỉnh táo, đủ bản lĩnh để chống lại mọi thử thách, cám dỗ của xã hội.

- Nhà nước cần phải có những hình thức xử phạt nghiêm khắc, triệt để đối với những hành vi tàng trữ, buôn bán vận chuyển trái phép ma tuý.

- Đồng thời cũng phải đưa những người nghiện vào trường cai nghiện, tạo công ăn việc làm cho họ, tránh những cảnh "nhàn cư vi bất thiện", giúp họ nhanh chóng hoà nhập với cuộc sống cộng đồng, không xa lánh, kì thị họ.

- Tham gia các hoạt động truyền thống tệ nạn xã hội … III. Kết bài:

Rút ra kết luận: Ma túy kinh khủng là thế nên mỗi chúng ta phải biết tự bảo vệ mình, tránh xa những tệ nạn xã hội, tránh xa ma túy.

Bài tham khảo: Hãy nói không với các tệ nạn xã hội.

Ngày nay, đất nước Việt Nam của chúng ta đang là một trong những quốc gia trên đà phát triển trong khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là sau khi chính thức gia nhập vào tổ chức kinh tế thế giới WTO và tháng 11 năm 2008. Đời sống của mọi người dân đã và đang ngày càng được cải thiện; mức thu nhập bình quân đầu người cũng đang được tăng dần lên trong những năm gần đây và đặc biệt là tỉ lệ số người thất nghiệp cũng đã được giảm đến mức thấp nhất… Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu về kinh tế sau khi mở cửa thị trường với các nước phương Tây thì ta cũng phải đương đầu với những cơn lốc tệ nạn xã hội vốn là hệ quả của quá trình phát triển kinh tế. Một trong số những tệ nạn xã hội đó là tệ nạn tiêm chích và buôn bán ma túy. Đây là một trong những tệ nạn nguy hiểm nhất trong các loại tệ nạn.

Ma túy là một danh từ dùng để chỉ chung cho tất cả các chất gây nghiện, tác động lên thần kinh trung ương tạo ra ảo giác. Ma túy vốn là một loại dược phẩm được sử dụng hợp pháp trong các bệnh viện để phục vụ cho việc chữa bệnh và đặc biệt là làm thuốc giảm đau sau những ca mổ lớn. Ma tuý có nguồn gốc tự nhiên như thuốc phiện, cần sa tinh chế lại thành He – ro – in, Co – ca – in hay tổng hợp từ những loại dược chất có độc tố gây ảo giác như estasy, seduxen. Đặc điểm nổi bật nhất của ma túy là làm người sử dụng nó bị tê liệt hệ thần kinh đến mất đi tri giác, không còn biết đau đớn, cho dù bị lửa đốt hay kim châm đến chảy máu.

Ngoài ra, người sử dụng ma túy dù chỉ một lần cũng sẽ trở nên bị nghiện ngập. Nếu chúng ta cứ vô tư sử dụng chất ma túy một cách tuỳ tiện thì chúng ta sẽ tự biến mình thành nô lệ của nó. Nếu hằng ngày mà không tiêm chích ma túy thì người nghiện sẽ trở nên đau đớn vô cùng, đau vật vã, dữ dội đến mức mất lí trí tự cấu xé thể xác mình mà không hề cảm thấy đau đớn, thậm chí có thể giết người, cướp của, trộm cắp, tham gia tàng trữ buôn bán ma tuý… miễn sao có tiền để thỏa mãn được cơn nghiện.

(9)

Vì vậy khi sử dụng ma túy, con người rất dễ vi phạm pháp luật và trở thành một mối nguy hiểm lớn cho xã hội cộng đồng. Việc tiêm chích ma túy còn là nguyên nhân chính phát sinh những căn bệnh nguy hiểm của thời đại như: HIV/AIDS.

Ma túy đã và đang trở thành một mối nguy hiểm đối với mỗi cá nhân. Ma túy là một tệ nạn ảnh hướng xấu đến môi trường sống, xã hội cộng đồng. Báo chí đã từng đưa tin có biết bao nhiêu bi kịch gia đình đã xảy ra mà nguyên nhân bắt nguồn từ chất ma túy gây nghiện. Những người thân trong gia đình cũng trở thành nạn nhân của những con nghiện khi đói thuốc. Nó làm tan vỡ hạnh phúc của biết bao gia đình. Người nghiện ma tuý sức khoẻ sẽ trở nên yếu dần, mất khả năng lao động tư duy và từ đó họ trở thành gánh nặng cho gia đình, xã hội. Hãy tưởng tượng một thành phố về đêm với những con nghiện lang thang vật vờ như những bóng ma sẽ tạo tâm lý bất ổn thế nào cho người khác, nhất là những du khách nước ngoài.

So sánh với các loại tệ nạn xã hội khác như cờ bạc, tiếp xúc với văn hóa phẩm đồi truỵ, ma tuý chính là mối lo ngại hàng đầu trong xã hội. Nó góp phần làm mục rỗng xã hội, băng hoại cả một thế hệ trẻ, suy giảm giống nòi …

Vậy, chúng ta phải cần phải làm gì để bài trừ loại tệ nạn nguy hiểm nói trên?

Để ngăn chặn tình trạng ma túy lan rộng, trong cá nhân mỗi người phải biết tự ý thức và nhắc nhở lẫn nhau tránh xa loại tệ nạn này. Bên cạnh đó, phải tự tạo cho mình một lối sống lành mạnh, giữ cho đầu óc luôn luôn tỉnh táo để có thể vượt qua mọi cám dỗ của loại tệ nạn trên. Ngoài ra, chúng ta cần tham gia vào những cuộc nói chuyện chuyên đề với bác sĩ và các chuyên gia tâm lý để hiểu rõ hơn về cách tiếp cận giúp đỡ những con nghiện đang chữa trị và những người bị bệnh AIDS vì tiêm chích. Hơn thế nữa, để giúp những con nghiện trở lại thành người hoàn lương, chính phủ nhà nước cần biết tạo điều kiện, công ăn việc cho họ, không xa lánh họ để họ không bị mặc cảm mà dẫn tới những hành động không hay. Riêng học sinh chúng ta cũng phải biết cách bài trừ ma túy ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường, cụ thể là chúng ta có thể cùng người lớn vận động, tuyên truyền, viết những bài báo tường với chủ đề “Hãy nói không với ma túy” để mọi người cảnh giác hơn với loại tệ nạn này.

Nói tóm lại, xã hội ngày càng phát triển, cuộc sống ngày càng Tây hóa thì cường độ ảnh hưởng của những tệ nạn xã hội đối với lớp trẻ cũng ngày một gia tăng. Vì vậy, là một công dân tốt, nhiệm vụ của chúng ta là phải biết “gạn đục, khơi trong” nghĩa là phải biết tiếp thu nhận cái hay, cái tốt và đồng thời cần bài trừ những cái xấu như tệ nạn ma túy đang lan tràn khắp nơi. Để làm được việc đó, chúng ta phải không ngừng học tập và rèn luyện theo lời dạy của Bác Hồ kính yêu!

.

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Hoạt động 2 : Chức năng của từng cơ quan kể trên Dựa vào nội dung đã học hãy cho biết chức năng của các cơ quan : hô hấp , tuần hoàn , bài tiết nước tiểu và cơ

Về liên quan tới độc tính ngoài hệ tạo huyết, trong nghiên cứu này chúng tôi ghi nhận có 47,1% tăng men gan nhưng chủ yếu tăng ở độ 1, chiếm tỷ lệ 41,4%, và không

a. đáp án Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Xây dựng một nước Việt Nam dân giầu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ và

Sự tương phản về trình độ phát triển KT-XH của hai nhóm nước phát triển và đang phát triển thể hiện rõ nhất qua các yếu tố nào.. Trung Á chủ

Cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền công nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lí, trình độ xã hội hóa cao, dựa trên nền tảng của khoa học và

- Mục tiêu và nhiệm vụ Đảng đề ra trong giai đoạn 1996-2000 là đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế hàng hóa

Câu 7: Những luận điểm nào sau đây phù hợp với nội dung đề bài: Suy nghĩ của anh (chị) về việc lựa chọn nghề nghiệp của thanh niên hiện nay... Tình hình và thực

Vấn đề dân số và kế hoạch gia đình – một vấn đề rất hiện đại bắt nguồn từ bài toán kén rể của nhà thông thái đặt ra từ thời cổ