• Không có kết quả nào được tìm thấy

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "THỰC HIỆN PHÁP LUẬT"

Copied!
1
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

Tiết 4, 5

Ngày dạy:

Lớp dạy:

Bài 2(2 tiết) THỰC HIỆN PHÁP LUẬT I.MỤC TIÊU BÀI HỌC:

1.Về kiến thức:

- Nêu được khái niệm thực hiện pháp luật , các hình thức và các giai đoạn thực hiện pháp luật

- Hiểu được thế nào là vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí ; các loại vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí.

- Người có hành vi tham nhũng là người vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể và cá nhân.

- Người có hành vi tham nhũng phải chịu trách nhiệm hành chính, trách nhiệm kỷ luật hoặc hình sự, trách nhiệm theo quy định của pháp luật.

2. Về ki năng:

- Biết cách thực hiện pháp luật phù hợp với lứa tuổi.

- Phân biệt hành vi vi phạm pháp luật do tham nhũng với các hành vi vi phạm pháp luật khác.

- Phân biệt trách nhiệm pháp lý đối với vi phạm pháp luật do tham nhũng với các loại trách nhiệm pháp lý khác.

3. Về thái độ:

- Có thái độ tôn trọng pháp luật ,

- Ủng hộ những hành vi thực hiện đúng pháp luật và phê phán những hành vi làm trái quy định pháp luật .

II. NỘI DUNG 1. Trọng tâm:

- Thực hiện pháp luật:

+ Khái niệm thực hiện pháp luật

+ Các hình thức thực hiện pháp luật mà chủ thể pháp luật tiến hành để đưa phápluật vào đời sống.

- Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí:

+ Các dấu hiệu của hành vi vi phạm pháp luật; khái niệm vi phạm pháp luật.

+ Khái niệm trách nhiệm pháp lí.

+ Các loại vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí tương ứng.

+ Lồng ghép nội dung phòng chống tham nhũng vào bài học III. PHƯƠNG PHÁP :

Thuyết trình, đàm thoại, thảo luận nhóm IV. PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC:

-Giáo án, SKG, SGV, tài liệu phòng chống tham nhũng

V. KỸ NĂNG SỐNG CƠ BẢN ĐƯỢC GIÁO DỤC TRONG BÀI:

Kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác, kỹ năng xác định giá tri.

VI. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC:

1. Ổn định tổ chức lớp : 2. Kiểm tra 15p:

Câu 1: Bản chất xã hội của pháp luật là gì? Cho ví dụ.

Câu 2: Trình bày nội dung pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý xã hội 3. Giảng bài mới:

Pháp luật là phương tiện để công dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên do điều kiện khách quan và chủ quan mà việc thực hiện pháp luật của công dân có thể

(2)

đúng hoặc có thể sai (vi phạm pháp luật). Vậy, Nhà nước với tư cách là chủ thể làm ra pháp luật và dùng pháp luật làm phương tiện quản lí xã hội sẽ làm gì để bảo đảm quá trình đưa pháp luật vào đời sống xã hội đạt hiệu quả và xử lí các vi phạm pháp luật nảy sinh như thế nào?

Đó là nộidung bài 2: THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

T/g Hoạt động của GV và HS Nội dung bài học Hoạt động 1: Tìm hiểu khái niệm và các hình thức

thực hiện pháp luật bằng phương pháp đàm thoại, thuyết trình, thảo luận nhóm.

GV yêu cầu HS đọc 2 tình huống ở đoạn Cùng quan sát trong SGK(trang 16)

Trong tình huống 1: Chi tiết nào trong tình huống thể hiện hành động thực hiện LGT đường bộ một cách có ý thức (tự giác), có mục đích? Sự tự giác đã đem lại tác dụng ntn? (lưu thông trên đường đúng luật: đội mũ bảo hiểm và biết chấp hành đúng tín hiệu đèn giao thông giúp giao thông đường bộ lưu thông thông thoáng) Trong tình huống 2: Để xử lí 3 thanh niên vi phạm, cảnh sát giao thông đã làm gì? (áp dụng PL: xử phạt hành chính)

Mục đích của việc xử phạt đó là gì? (Răn đe hành vi vi phạm pháp luật và giáo dục hành vi thực hiện đúng pháp luật cho 3 thanh niên).

Từ những câu trả lời của HS, GV tổng kết và đi đến khái niệm trong SGK. Vậy thế nào là thực hiện PL?

GV giảng mở rộng: Thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.

- Vậy thế nào là hành vi hợp pháp? (--> Hành vi hợp pháp là hành vi không trái, không vượt quá phạm vi các quy định của pháp luật mà phù hợp với các quy định của pháp luật, có lợi cho Nhà nước, xã hội và công dân)

- Chẳng hạn:

+ Làm những việc mà pháp luật cho phép làm.

+ Làm những việc mà pháp luật quy định phải làm.

+ Không làm những việc mà pháp luật cấm.

GV phân công 4 tổ tìm hiểu các hình thức thực hiện pháp luật, cho ví dụ.

GV nhận xét và kết luận gợi ý một số ví dụ minh hoạ:

+ Sử dụng pháp luật

Ví dụ : Công dân A gửi đơn khiếu nại Giám đốc Công ty khi bị kỷ luật cảnh cáo nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm. Trong trường hợp này, công dân A đã sử dụng quyền khiếu nại của mình theo quy định của pháp luật, tức là công dân A sử dụng pháp luật.

Ví dụ: Tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh; quyền đăng ký kết hôn khi đến tuổi quy định; quyền chạy xe

1. Khái niệm , các hình thức và các giai đoạn thực hiện pháp luật

a.- Khái niệm thực hiện pháp luật

Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích, làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi hợp pháp của các cá nhân, tổ chức.

b.Các hình thức thực hiện pháp luật

Sử dụng pháp luật : Các cá nhân, tổ chức sử dụng đúng đắn các quyền của mình , làm những gì mà pháp luật cho phép làm.

Thi hành pháp luật (chấp hành pháp luật) : Các cá nhân , tổ chức thực hiện đầy đủ những nghĩa vụ, chủ động làm những

(3)

gắn máy hoặc xe ô tô khi có đủ điều kiện; xây dựng nhà khi có giấy phép xây dựng.

Đặc điểm của hình thức sử dụng pháp luật : Chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình mà không bị ép buộc phải thực hiện.

+ Thi hành pháp luật (xử sự tích cực)

Ví dụ : Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng thu gom và xử lý chất thải theo tiêu chuẩn môi trường. Đây là việc làm của cơ sở sản xuất, kinh doanh chủ động thực hiện công việc mà mình phải làm theo quy định tại khoản 1 Điều 37 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005. Thông qua việc làm này, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đã thi hành pháp luật về bảo vệ môi trường.

Ví dụ: thanh niên 18-25 tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự, công dân từ 18 tuổi trở lên tham gia bầu cử; người kinh doanh phải nộp thuế.

+ Tuân thủ pháp luật (xử sự thụ động)

Ví dụ : Không tự tiện chặt cây phá rừng ; không săn bắt động vật quý hiếm ; không khai thác, đánh bắt cá ở sông, ở biển bằng phương tiện, công cụ có tính huỷ diệt (ví dụ : mìn, chất nổ,...), không mua bán tàng trữ các chất ma túy.

- Áp dụng pháp luật

Ví dụ : Chủ tịch UBND tỉnh ra quyết định về điều chuyển cán bộ từ SGD và Đào tạo sang Sở VH - Thông tin. Trong trường hợp này, Chủ tịch UBND tỉnh đã áp dụng PL về cán bộ, công chức.

Ví dụ : Toà án ra quyết định tuyên phạt cải tạo không giam giữ và yêu cầu bồi thường thiệt hại người đốt rừng, phá rừng trái phép ; Cảnh sát giao thông xử phạt người không đội mũ bảo hiểm là 150.000 đồng.

- GV hỏi: Trong 4 hình thức trn, hình thức nào xử sự tích cực, hình thức nào xử sự thụ động ? ( Thi hành PL và tuân thủ PL)

- GV yêu cầu các em phân tích điểm giống nhau và khác nhau giữa 4 hình thức thực hiện pháp luật:

+ Giống nhau: Đều là những hoạt động có mục đích nhằm đưa PL vào cuộc sống, trở thành những hành vi hợp pháp của người thực hiện.

+ Khác nhau: Trong hình thức sử dụng pháp luật thì chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình chứ không bị ép buộc phải thực hiện.

Ví dụ: Luật giao thông đường bộ quy định, công dân từ 18 tuổi trở lên có quyền điều khiển xe mô tô có dung tích xi lanh từ 50 cm3 trở lên. Khi ấy, những người đạt độ tuổi này có thể đi xe gắn máy và có thể đi xe đạp (không bắt buộc phải đi xe gắn máy).

KL: HS phải thấy rõ được rằng PL có được thực hiện hay không, PL có đi vào cuộc sống hay không trước

gì mà pháp luật quy định phải làm (xử sự tích cực).

Tuân thủ pháp luật : Các cá nhân , tổ chức không làm những điều mà pháp luật cấm.

(xử sự thụ động)

Áp dụng pháp luật : Các cơ quan, công chức nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào pháp luật để ra các quyết định làm phát sinh, chấm dứt hoặc thay đổi việc thực hiện các quyền , nghĩa vụ cụ thể của cá nhân, tổ chức.

+Cơ quan, công chức nhà nước có thẩm quyền ban hành các quyết định trong quản lý, điều hành.

VD:

+Cơ quan nhà nước ra quyết định xử lý người vi phạm pháp luật hoặc giải quyết tranh chấp giữa các cá nhân, tổ chức.

(4)

tiên và chủ yếu là do mỗi cá nhân, tổ chức có chủ động, tự giác thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của PL hay không.

T/g Hoạt động của GV và HS Nội dung bài học

Hoạt động 2: Tìm hiểu vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý bằng phương pháp thuyết trình, thảo luận nhóm

- GV sử dụng ví dụ sách giáo khoa để HS củng cố lại 4 dấu hiệu của vi phạm pháp luật VD: Cảnh sát giao thông phạt hai bố con bạn A vì cả hai đều lái xe máy đi ngược đường một chiều. Bố bạn A không chịu nộp tiền phạt vì lý do ông không nhận ra biển báo đường một chiều, bạn A mới 16 tuổi, còn nhỏ, chỉ biết đi theo ông nên không đáng bị phạt.( SGK trang 19)

° Thứ nhất: Là hành vi trái pháp luật.

+ Hành động cụ thể: Bạn A chưa đến tuổi được phép tự điều khiển xe mô tô mà đã lái xe đi trên đường và hai bố con bạn A đều đi xe ngược chiều quy định; Cơ sở sản xuất, kinh doanh thải chất thải chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường vào đất, nguồn nước ; nhập cảnh, quá cảnh động vật, thực vật chưa qua kiểm dịch;…

Thứ hai: Do người có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện.

- GV: Năng lực trách nhiệm pháp lý của con người phụ thuộc vào độ tuổi, tình trạng sức khoẻ - tâm lý.

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự và trách nhiệm hành chính đối với hành vi đặc biệt nghiêm trọng là 14 tuổi.

° Thứ ba: Người vi phạm pháp luật phải có lỗi.

GV nêu câu hỏi: Theo em, bố con bạn A có biết đi xe vào đường ngược chiều là vi phạm pháp luật không? Hành động của bố con bạn A có thể dẫn đến hậu quả như thế nào? Hành động đó cố ý hay vô ý? ( lỗi vô ý do cẩu thả) GV giảng:

Một người bình thường, khoẻ mạnh về mặt tâm lý, có lý chí và tự do ý chí, hoàn toàn có thể lựa chọn cho mình hành vi xử sự phù hợp với lợi ích của XH, của cộng đồng và cần phải thấy trước hậu quả hành vi của mình. Nếu coi thường lợi ích XH và lợi ích của cá nhân khác, có thể nhận thấy được hậu quả thiệt hại cho XH hoặc cho người khác do hành vi của mình gây ra nhưng lại mong muốn, hoặc để mặc,

2. Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí :

a.Vi phạm pháp luật :

*Vi phạm pháp luật có các dấu hiệu cơ bản sau:

Thứ nhất, là hành vi trái pháp luật + Hành vi đó có thể là hành động: cá nhân, tổ chức làm những việc không được làm theo quy định của pháp luật

+Hành vi đó có thể là không hành động:

cá nhân, tổ chức không làm những việc phải làm theo quy định của pháp luật + Hành vi đó xâm phạm, gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.

- Thứ hai, do người có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện.

Người có năng lực trách nhiệm pháp lí là người đã đạt một độ tuổi nhất định theo quy định pháp luật, có thể nhận thức và điều khiển được hành vi của mình, tự quyết định cách xử sự của mình và chịu trách nhiệm về hành vi đã thực hiện.

(Không bị bệnh về tâm lý làm mất hoặc hạn chế khả năng nhận thức về hành vi của minh).

- Thứ ba, người có hành vi trái pháp luật phải có lỗi.

Lỗi thể hiện thái độ của người biết hành vi của mình là sai, trái pháp luật , có thể gây hậu quả không tốt nhưng vẫn cố ý làm hoặc vô tình để mặc cho sự việc xảy ra.

Có hai hình thức: lỗi vô ý, lỗi cố ý.

(5)

hoặc do sơ xuất để nó xảy ra thì đó là hành vi có lỗi.

Trong khoa học pháp lý, lỗi được hiểu là trạng thái tâm lý phản ánh trạng thái tiêu cực của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật của mình và đối với hậu quả của hành vi đó. Lỗi được thể hiện dưới hai hình thức : lỗi cố ý và lỗi vô ý.

- Lỗi cố ý :

+ Lỗi cố ý trực tiếp : Chủ thể vi phạm nhận thấy trước hậu quả thiệt hại cho XH và cho người khác do hành vi của mình gây ra, nhưng vẫn mong muốn điều đó xảy ra. Ví dụ : Hành vi đánh người gây thương tích.

+ Lỗi cố ý gián tiếp : Chủ thể vi phạm nhận thấy trước hậu quả thiệt hại cho xã hội và cho người khác do hành vi của mình gây ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn để mặc cho nó xảy ra. VD : Không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.

- Lỗi vô ý:

+ Lỗi vô ý do quá tự tin : Chủ thể vi phạm nhận thấy trước hậu quả thiệt hại cho xã hội và cho người khác do hành vi của mình gây ra, nhưng hy vọng, tin tưởng điều đó không xảy ra.

Ví dụ : Phanh xe (thắng) không an toàn ; bán thực phẩm bị quá hạn sử dụng làm nhiều người bị ngộ độc.

+ Lỗi vô ý do cẩu thả : Chủ thể vi phạm do khinh suất, cẩu thả mà không nhận thấy trước hậu quả của thiệt hại cho xã hội và cho người khác do mình gây ra, mặc dù có thể nhận thấy và cần phải nhận thấy trước.Ví dụ : Hút thuốc lá làm cháy rừng ; tạt ngang xe máy làm ngã người khác

Như vậy, những hành vi trái pháp luật mang tính khách quan, không có lỗi của chủ thể thực hiện hành vi đó (chủ thể không cố ý và cũng không vô ý thực hiện hành vi đó) không bị coi là hành vi vi phạm pháp luật.

VD: người gy thiệt hại về tài sản, sức khỏe cho người khc do phải phịng vệ chính đáng hoặc trong tình trạng cấp thiết như thiên tai, hỏa hoạn.

- Vậy vi phạm pháp luật là gì?

* Lồng ghép giáo dục phòng chống tham nhũng:

- Theo Luật phòng chống tham nhũng năm 2005: “tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ,

* Kết luận:

Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật , có lỗi do người có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.

(6)

quyền hạn đó vì vụ lợi”

Bộ Luật hình sự, Luật phòng chống tham nhũng năm 2005 đã phân loại tham nhũng theo hành vi. Theo đó những hành vi sau đây thuộc nhóm hành vi tham nhũng.

1. Tham ô tài sản 2. Nhận hối lộ

3. Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.

4. Lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.

5. Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.

6. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi 7. Giả mạo trong công tác vì vụ lợi.

8. Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi.

9. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trí phép tài sản của nhà nước vì vu lợi.

10. Nhũng nhiễu vì vu lợi.

11. Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.

12. Lợi dụng chức vụ quyền hạn để bao che cho

Trong đó các biểu hiện 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 đươc quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 (sđ, bs năm 2009)

=> Từ đó cho thấy người có hành vi tham nhũng là người vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể và cá nhân.

GV giới thiệu một số biểu hiện tham nhũng trong xã hội (theo tư liệu tham khảo đính kèm) + Hành vi vi phạm pháp luật do tham nhũng khác với các hành vi vi phạm pháp luật khác vì hành vi tham nhũng do chủ thể thực hiện là người có chức vụ quyền hạn thực hiện để vụ lợi. Còn hành vi vi phạm phạm luật có thể thực hiện do bất kì ai.

Ví dụ: Hành vi trốn thuế trong kinh doanh khác về bản chất so với hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong công vụ vì vụ lợi.

Gv giảng thêm

- GV: Nguyên nhân nào dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật?

(7)

+ Nguyên nhân khách quan (thiếu PL, PL không còn phù hợp với thực tế, điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn)

+ Nguyên nhân chủ quan (coi thường PL, cố ý vi phạm vì mục đích cá nhân, không hiểu biết pháp luật) Trong đó, nguyên nhân chủ quan là nguyên nhân chính, nguyên nhân phổ biến dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật. Vì vậy, ý thức con người là yếu tố quan trong nhất, quyết định việc tuân thủ pháp luật hay vi phạm pháp luật của cá nhân, tổ chức. Do đó, chúng ta cần nâng cao hiểu biết về pháp luật.

- Trong lĩnh vực PL, thuật ngữ “Trách nhiệm”

được hiểu theo hai nghĩa.

+ Theo nghĩa thứ nhất, trách nhiệm có nghĩa là chức trách, công việc được giao, là nghĩa vụ mà PL quy định cho các chủ thể pháp luật. Ví dụ : Khoản 2 Điều 61 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 quy định : “UBND cấp tỉnh trên thượng nguồn dòng sông có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trên hạ nguồn dòng sông trong việc điều tra phát hiện, xác định nguồn gây ô nhiễm nước sông và áp dụng các biện pháp xử lý”.

+ Theo nghĩa thứ hai, trách nhiệm được hiểu là nghĩa vụ mà các chủ thể phải gánh chịu hậu quả bất lợi khi không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình mà PL quy định. Đây là sự phản ứng của NN đối với những chủ thể có hành vi vi phạm PL gây hậu quả xấu cho xã hội.

- Trách nhiệm pháp lý trong bài chúng ta đang học được hiểu theo nghĩa thứ hai - Vậy trách nhiệm pháp lý là gì?

* Lồng ghép phòng chống tham nhũng:

+ Do người thực hiện hành vi tham nhũng là người có chức vụ quyền hạn nên người có hành vi tham nhũng phải chịu trách nhiệm kỷ luật bên cạnh trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự hoặc hình sự theo quy định của pháp luật.

Khác với trách nhiệm pháp lý của người vi phạm pháp luật thông thường, như: Tội cướp giật tài sản phải chịu trách nhiệm hình sự

b. Trách nhiệm pháp lí

- Trách nhiệm pháp lí là nghĩa vụ mà các cá nhân hoặc tổ chức phải gánh chịu hậu quả bất lợi từ hành vi vi phạm pháp luật của mình.

GV tổ chức cho HS thảo luận 4 loại vi phạm pháp luật trong thời gian 3 phút

+ NHÓM 1 : Vi phạm hình sự là gì? Cho ví dụ.

c.Các loại vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí:

(8)

+ NHÓM 2 : Vi phạm hành chính là gì? Cho ví dụ. + + NHÓM 3 : Vi phạm dân sự là gì?

Cho ví dụ.

+ NHÓM 4 : Vi phạm kỷ luật là gì? Cho ví dụ.

GV mời đại diện các nhóm báo cáo kết quả thảo luận, nhận xét bổ sung. Sau đó, GV nhận xét và chốt lại từng vấn đề và hướng dẫn cho HS ghi bài.

GV giảng

+ Vi phạm hình sự : Vi phạm hình sự (tội phạm) là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ

………

Ví dụ : Người tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý là vi phạm hình sự, bị coi là tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự. .

=> Trách nhiệm hình sự Là loại trách nhiệm pháp lý với các chế tài nghiêm khắc nhất do Toà án áp dụng đối với những người có hành vi phạm tội (vi phạm hình sự). Trách nhiệm hình sự chỉ được áp dụng đối với các tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự.

Ví dụ : Khoản 1 Điều 197 về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý quy định : “Người nào tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý dưới bất kỳ hình thức nào thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.

Trong ví dụ trên, người tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý là người vi phạm pháp luật hình sự, là hành vi nguy hiểm cho xã hội, phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 197 Bộ luật Hình sự. Trách nhiệm hình sự chỉ có thể do Toà án áp dụng, không một cơ quan, tổ chức nào khác có quyền áp dụng.

Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Người từ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm .

+ Vi phạm hành chính : Ví dụ : đi xe mô tô, xe gắn máy vào đường ngược chiều hoặc vào đường cấm ; cửa hàng dịch vụ Internet mở cửa cho sử dụng dịch vụ sau 11 giờ đêm, quá giờ quy định ; người kinh doanh lấn chiếm vỉa hè ; gây rối trạt tự công cộng nhưng chưa gây hậu quả xấu.

- Vi phạm hình sự là những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm được quy định tại Bộ luật Hình sự.

- Vi phạm hành chính là hành vi vi phạm pháp luật có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn tội phạm, xâm phạm các quy tắc quản lí nhà nước .

(9)

Chủ thể vi phạm dân sự có thể là cá nhân hoặc tổ chức.

=> Trách nhiệm hành chính

Ví dụ, Điều 19 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính quy định : “Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải đình chỉ ngay các hành vi vi phạm gây ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh và phải thực hiện các biện pháp để khắc phục ; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm không tự nguyện thực hiện thì bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu mọi chi phí cho việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế”.

Người từ 14 đến 16 tuổi bị xử phạt hành chính về vi phạm hành chính do cố ý ; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt hành chính về mọi vi phạm hành

chính do mình gây ra.

+ Vi phạm dân sự : Vi phạm dân sự là hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm tới các quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân (bao gồm quan hệ nhân thân phi tài sản và quan hệ nhân thân có liên quan tới tài sản). Vi phạm này thường thể hiện ở việc chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các hợp đồng dân sự. Ví dụ : Người thuê cửa hàng đã tự ý sửa chữa cửa hàng không đúng với thoả thuận trong hợp đồng ; người thuê xe ô tô không trả cho chủ xe đúng thời hạn thoả thuân hoặc làm hư hỏng xe.

Chủ thể vi phạm dân sự có thể là cá nhân hoặc tổ chức.

 Trách nhiệm dân sự Là loại trách nhiệm pháp lý do TA áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm dân sự. Chế tài trách nhiệm dân sự chủ yếu là bồi thường thiệt hại hoặc thực hiện các nghĩa vụ dân sự mà các bên đã thoả thuận. Ví dụ : Bên B nhận gia công cho bên A một số sản phẩm là quần áo.

Khi nhận hàng, bên A kiểm tra thấy hàng gia công không bảo đảm chất lượng như thoả thuận đã ghi trong hợp đồng, bên A có quyền yêu cầu bên B sửa chữa nhưng bên B không thể sửa chữa trong thời hạn đã thoả thuận. Khi đó, bên A có quyền huỷ bỏ hợp đồng và yêu cầu bên B bồi thường thiệt hại.

Nêu bên B không bồi thường thì bên A có quyền khởi kiện tại Toà án. Trong trường hợp này, quyết định của Toà án

- Vi phạm dân sự là hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm tới các quan hệ tài sản (quan hệ sở hữu, quan hệ hợp đồng…) và quan hệ nhân thân (liên quan đến các quyền nhân thân, không thể chuyển giao cho người khác, ví dụ : quyền đối với họ, tên, quyền được khai sinh, bí mật đời tư, quyền xác định lại giới tính…)

-Vi phạm kỉ luật là vi phạm pháp luật xâm phạm các quan hệ lao động, công vụ nhà nước …

(10)

là có giá trị bắt bụoc đối với bên B, nghĩa là bên B phải chịu trách nhiệm dân sự về bồi thường thiệt hại.

Người từ đủ 16 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi tham gia các giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật (ví dụ : bố mẹ đối với con) đồng ý, có các quyền , nghĩa vụ , trách nhiệm dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do người đại diện xác lập và thực hiện.

+ Vi phạm kỷ luật Vi phạm kỷ luật là hành vi vi phạm PL xâm phạm các quy tắc kỷ luật lao động trong các cơ quan, trường học, doanh nghiệp, các quy định đối với các bộ, công chức nhà nước. Các quy định của pháp luật bị vi phạm là các quy định thuộc Luật Lao động và Luật Hành chính. Ví dụ : Người lao động tự ý bỏ việc nhiều ngày mà không có lý do chính đáng ; cán bộ, công chức thường xuyên đi làm muộn.

=> Trách nhiệm kỷ luật Là loại trách nhiệm pháp lý do thủ trưởng cơ quan, giám đốc doanh nghiệp,... áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên thuộc quyền quản lý của mình khi họ vi phạm kỷ luật LĐ, vi phạm chế độ công vụ nhà nước.

Mức độ trách nhiệm kỷ luật thường là : khiển trách, cảnh cáo, điều chuyển công tác khác, hạ bậc lương, cách chức, buộc thôi việc (sa thải) hoặc chấm dứt hợp đồng LĐ trước thời hạn.

Ví dụ : Theo Điều 85 Bộ luật lao động năm 1994 (sửa đổi, bổ sung năm 2006)

GV kết luận: Trong 4 loại trên thì vi phạm hình sự vi phạm pháp luật nghiêm trọng nhất và trách nhiệm hình sự là trách nhiệm pháp lí nghiêm khắc nhất mà Nhà nước buộc người vi phạm phải gánh chịu

4.Củng cố :

1/Thực hiện PL là gì? Em hãy phân tích những điểm giống và khác nhau giữa các hình thức thực hiện PL.

Gợi ý: Các điểm giống và khác nhau giữa cc hình thức thực hiện pháp luật + Giống nhau: Đều là quá trình thường xuyên trong cuộc sống, với sự tham gia của cá nhân, tổ chức và nhà nước đối với việc thực hiện pháp luật.

+ Khác nhau:

2/. Hãy nêu các hình thức thực hiện pháp luật ? Nêu ví dụ cho từng hình thức.

3/. Hãy phân tích những điểm giống và khác nhau giữa các hình thức thực hiện PL

4/Thế nào là vi phạm pháp luật ? Nêu ví dụ.

(11)

5/ Hãy phân biệt hành vi vi phạm pháp luật do tham nhũng với hành vi vi phạm pháp luật khác?

5. Dặn dò:

- Giải quyết các câu hỏi và bài tập trong SGK.

- Sưu tầm các tư liệu có liên quan đến bài (hình ảnh, bài viết,..) - Đọc phần TƯ LIỆU THAM KHẢO của bài.

- Đọc trước bài 3: “Công dân bình đẳng trước pháp luật.

6.Tài liệu tham khảo

NHẬN DIỆN THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG 30 Tháng 3 2014 lúc 21:45

1. Tính đặc thù của tham nhũng ở Việt Nam

Tham nhũng là hiện tượng phổ biến mang tính toàn cầu. Phản ứng đối với tham nhũng mang tính xã hội rộng lớn ở khắp mọi nơi, mọi quốc gia, dân tộc và nhân loại.

Chống tham nhũng đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các quốc gia, quốc tế và thế giới, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập. Nhận diện tham nhũng ở Việt Nam cho thấy những biểu hiện phức tạp đặc thù của nó là đa dạng, muôn vẻ sắc thái, loại hình, mức độ, cũng như hậu quả. Mức độ tham nhũng nặng nề ở Việt Nam, tính nan giải, khó trị của nó được lý giải từ sự yếu kém của thể chế, tính nửa vời trong chỉ đạo thực hiện và sự thoái hóa của không ít quan chức, công chức trong bộ máy, thậm chí tham nhũng có cả trong hoạt động tư pháp, trong điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Tình trạng pháp luật có, pháp chế cũng có nhưng pháp trị thì không hoặc yếu kém và hình thức, là một thực tế phổ biến hiện nay(1).

Có tham nhũng nhỏ, vặt vãnh trong việc sách nhiễu, cố ý gây phiền hà cho người dân, trì hoãn, dây dưa giải quyết các công việc hành chính - dân sự ở cơ sở, mục đích là buộc người dân muốn được việc thì phải móc tiền trong túi ra. Thủ đoạn của kiểu tham nhũng này là cố ý làm phức tạp hóa những việc đơn giản, lợi dụng những quy định rườm rà, hình thức của thủ tục hành chính để hành dân.

Có tham nhũng lớn trong những giao dịch tìm kiếm việc làm, thuyên chuyển, cất nhắc, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ. Càng ở cấp cao, vị trí có khả năng sinh lợi nhiều thì mức độ tham nhũng càng lớn. Những giao dịch, thỏa thuận này thường đi kèm tác nhân môi giới, trung gian, tạo ra luật chơi bất thành văn, hình thành những quy định ngầm, mọi việc, mọi biện pháp để đạt mục đích đều được định hình bởi đồng tiền và tiền tệ hóa. Nó tạo ra cách hành xử theo kiểu “tạm ứng trước”, “thu hồi sau”, tham nhũng đẻ ra tham nhũng.

Có tham nhũng cực lớn, đan xen, phối hợp cả tham nhũng cá nhân lẫn tham nhũng theo nhóm, gọi là lợi ích nhóm (hay nhóm lợi ích bất chính, phi pháp). Đây là dạng tham nhũng có tổ chức, có chủ mưu, thao túng vào tổ chức, thể chế và chính sách cùng những người có trọng trách, có thẩm quyền giải quyết. Loại tham nhũng này thường xảy ra ở các hoạt động dự án, đấu thầu, các hợp đồng kinh tế, đất đai, tài chính - ngân hàng, xuất nhập khẩu, xây dựng hạ tầng, mở mang khu công nghiệp, đô thị, dịch vụ giáo dục, y tế, khoa học - công nghệ, các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế. Đất đai và thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, đền bù giải tỏa, kinh doanh bất động sản chỉ là một trong những trường hợp, những tình huống nổi bật trong vô số nhiều những trường hợp, những tình huống tham nhũng hiện nay.

Thực tế cho thấy, ở nhiều nơi đã từng diễn ra tình trạng chạy danh, chạy chức, chạy quyền.

Còn có các kiểu “chạy” khác nữa, từ nhỏ đến lớn và rất lớn, đó là chạy trường, chạy lớp, cho đến chạy dự án và chạy án. Đây mới là tiêu điểm của những nhức nhối, bức xúc trong vòng xoáy của tiền bạc và quyền lực, trong những mua bán, đổi chác, tội phạm và tệ nạn.

(12)

Để “chạy” được thì phải thiết lập các mối quan hệ, các liên kết nhóm, để đạt mục đích phải kích hoạt các quan hệ ấy bằng tiền và tiền tệ hóa đi kèm với các phương tiện, thủ đoạn khác, bất minh, bất chính, bất nghĩa, thậm chí dùng cả những thủ đoạn gây tội ác, phi nhân tính.

Dù biểu hiện khác nhau, mức độ khác nhau nhưng tham nhũng đều diễn ra như một hội chứng cướp đoạt, sự lợi dụng quyền và tiền để làm giàu và mưu lợi bất chính. Ngôn ngữ cửa miệng từ người dân và cả trong công chức nhà nước đã minh chứng cho hiện trạng tham nhũng phổ biến ở nước ta, từ “phong bì và nền công nghiệp phong bì” đến “làm luật”, cho đến

“công nghệ bôi trơn”(2).

2. Nguyên nhân và hậu quả

Có những nguyên nhân sâu xa và trực tiếp, có những nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn tới tham nhũng ở Việt Nam. Bước chuyển sang kinh tế thị trường cùng với mở cửa ra thế giới bên ngoài và hội nhập quốc tế (trên dưới một thập kỷ nay) đã tạo ra xung lực mạnh cho sự phát triển năng động của nền kinh tế nước ta. Cùng với kinh tế tăng trưởng và phồn vinh, xã hội ta cũng đang biến đổi mạnh về cơ cấu với sự đa dạng các giai tầng, các nhóm xã hội - nghề nghiệp. Đó là một xu hướng tích cực. Song, nước ta chưa có một nền kinh tế thị trường hiện đại, thành thục và văn minh theo đúng nghĩa của nó. Văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp và văn hóa doanh nhân cũng chưa định hình các chuẩn mực và giá trị.

Tính sơ khai, hoang dã của kinh tế thị trường phôi thai vẫn còn mạnh, nó chứa đầy những tiêu cực, tệ nạn với sức mạnh của đồng tiền, của sự trỗi dậy chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, vị kỷ cực đoan, kích thích tâm lý hưởng thụ và làm giàu bằng mọi giá. Nhà nước pháp quyền còn đang trong quá trình xây dựng. Xã hội chưa trưởng thành về dân chủ và văn hóa dân chủ. Trên con đường hiện đại hóa để trở thành xã hội hiện đại “dân chủ, công bằng, văn minh” chúng ta vấp phải vô số nhiều những lực cản, cả hữu hình lẫn vô hình kìm hãm phát triển. Những tàn dư lạc hậu, lỗi thời, cùng với những tì vết của thực dân - phong kiến còn kết đọng rất nặng nề, chưa giải tỏa hết. Trình độ phát triển của nước ta chưa đạt tới trình độ một nước công nghiệp nên chưa có đầy đủ những tất yếu cho việc giải thể cấu trúc xã hội cổ truyền để xác lập cấu trúc xã hội hiện đại dân chủ - pháp quyền. Những hạn chế, yếu kém, bất cập trong quản lý, chất lượng thấp của giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ cũng như dịch vụ xã hội, môi trường xã hội dân chủ, công khai, minh bạch thông tin, sự thấp kém và không đồng đều về trình độ học vấn, văn hóa giữa các vùng miền, giữa các đối tượng xã hội, từ người dân đến công chức, quan chức… đều bắt nguồn từ những hạn chế lịch sử đó.

Tham nhũng từ thấp đến cao, từ đơn lẻ vụ việc, cá thể đến những can dự của số đông của tập thể, phe phái, tập đoàn, vì thế mà xuất hiện, lây lan trở thành phổ biến.

Nhưng trực tiếp dẫn đến tham nhũng, dung dưỡng tham nhũng, làm cho tham nhũng trở thành vấn nạn đến mức nguy hiểm lại thuộc về chủ quan trong hệ thống tổ chức bộ máy, trong các cơ quan lãnh đạo, quản lý với luật pháp - cơ chế - chính sách chứa đựng rất nhiều bất ổn đang phải ra sức sửa chữa, tháo gỡ. Đó là:

Thứ nhất, hệ thống tổ chức bộ máy cồng kềnh, tầng nấc, quan liêu nặng nề. Quan liêu cũng là một vấn nạn không kém gì so với tham nhũng. Cải cách hành chính và cải cách tư pháp không triệt để, mục tiêu xây dựng một nền hành chính công minh bạch, phục vụ người dân và doanh nghiệp không đạt được như mong muốn, nhất là cải cách thủ tục hành chính.

Thứ hai, hệ thống thể chế luật pháp và tổ chức thực hiện, thi hành luật pháp không đồng bộ, chất lượng thấp, hiệu lực yếu, hiệu quả kém. Vừa bị “rừng luật” cản trở vừa bị “luật rừng”

thao túng. Chức năng phục vụ dân sinh xã hội của Nhà nước không được phát huy lành mạnh.

Các quan hệ Dân chủ -Pháp luật, kỷ cương; Công dân - Nhà nước; công chức, viên chức với công dân không rành mạch, sáng tỏ do thiếu công khai, minh bạch, thiếu vắng trách nhiệm và chế độ trách nhiệm.

(13)

Thứ ba, chính sách lạc hậu, đặc biệt là chính sách tiền lương lại thêm tác động của lợi ích nhóm dẫn tới tiêu cực trong hoạch định và thực thi chính sách. Tình huống đã xuất hiện:

chính sách phục vụ dân hay phục vụ lợi ích nhóm? Bất bình, phản ứng của dân xoay quanh vấn đề này. Tham nhũng trong chính trị, trong chính sách làm quyền lực chân chính bị tha hóa, suy thoái, hư hỏng ngày càng trầm trọng trong một bộ phận quan chức, công chức, viên chức gây tổn hại tới lợi ích và cuộc sống của dân.

Thứ tư, kiểm soát quyền lực chậm trễ, không rõ ràng cả trong nhận thức và hành động.

Dân chủ biến thành “quan chủ” đúng như điều mà Hồ Chí Minh đã cảnh báo. Phản biện, tư vấn, kiểm tra, giám sát yếu kém vừa làm cho dân chủ chậm phát triển, vừa không ngăn chặn được tham nhũng, tiêu cực ngay trong bộ máy.

Thứ năm, đội ngũ công chức thiếu tính chuyên nghiệp. Hoạt động điều hành quản lý thiếu tính hiện đại. Văn hóa từ chức, văn hóa xin lỗi chậm hình thành, không được thực hiện nghiêm túc, lại có nguy cơ bị hình thức hóa.

Thứ sáu, cơ chế dùng người, đặt người vào công việc bộc lộ nhiều bất ổn. Thiếu động lực cho tài năng phát lộ, phát triển. Nhân tài, hiền tài, tinh hoa khó, thậm chí không vào được bộ máy. Cơ chế “xin - cho”, “lợi ích nhóm”, “tư duy nhiệm kỳ” là nơi dung dưỡng cho tham nhũng phát triển. Chính sách và cơ chế hiện hành vô hình chung chỉ khuyến khích con người ta chạy theo quan chức, địa vị, bổng lộc, không khuyến khích mọi người theo con đường chuyên gia. Đó là đầu mối của những lệch lạc chuẩn mực giá trị và làm hỏng nhân cách, nhất là tạo ra một thứ chủ nghĩa cơ hội, thực dụng, làm hỏng lớp trẻ mới vào đời, lập thân lập nghiệp.

Thứ bảy, trình độ học vấn, văn hóa, nhất là văn hóa pháp luật thấp, không chỉ ở dân thường mà còn ở tầng lớp có học thức, ở cả công chức, viên chức và quan chức.

Coi thường pháp luật còn diễn ra phổ biến.

Thứ tám, bất công xã hội còn nhiều. Phân hóa thu nhập, phân hóa giàu nghèo có xu hướng gia tăng. Không kiểm soát được biến động tài sản và thu nhập, nhất là xử lý tình trạng giàu lên nhanh chóng một cách phi pháp, ngoài lao động.

Thứ chín, tình trạng hư danh, hám danh, tham chức, tham quyền, trục lợi kèm theo sự suy đồi đạo đức, dư luận xã hội tích cực phát triển một cách yếu ớt, không tạo được áp lực đủ mạnh chống tham nhũng.

Thứ mười, sự thiếu gương mẫu của không ít cán bộ lãnh đạo, quản lý, kể cả ở cấp cao.

“Thượng bất chính hạ tất loạn…”. Tổng kết phòng ngừa, răn đe của người xưa để phòng tránh đã không tránh được, lại đã hiện hình trong bộ máy, trong những người nắm giữ chức, quyền ngày nay.

Từ đó có thể thấy hậu quả nặng nề, tổn thương xã hội nghiêm trọng mà tham nhũng gây ra. Đó là:

Xã hội bất an, bất ổn, tiềm ẩn những mâu thuẫn, xung đột có nguy cơ phá hỏng sự nghiệp đổi mới và các mục tiêu phát triển của nước ta.

Đạo đức xã hội, đạo đức gia đình, đạo đức cá nhân rơi vào trạng thái suy đồi. Các giá trị tinh thần nền tảng bị xem nhẹ, bệnh vô cảm tràn lan, niềm tin, lòng tin của dân giảm sút.

Kinh tế chậm phát triển, tái lạm phát tiềm tàng và khủng hoảng có nhiều dấu hiệu tăng lên. Nợ xấu, nợ công gia tăng, tới giới hạn nguy hiểm. Tham nhũng có thể làm hỏng cả vị thế và uy tín Việt Nam trên trường quốc tế, làm giảm sút nghiêm trọng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, gây thiệt hại lớn cho phát triển tiềm lực quốc gia.

Làm suy yếu Đảng và Nhà nước, đe dọa tới sinh mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ, như Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) của Đảng đã chỉ ra.

3. Những giải pháp phòng, chống

(14)

Cần thiết phải đẩy mạnh giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm trong toàn Đảng, toàn dân, trong Nhà nước và các đoàn thể, tạo ra áp lực xã hội và đề cao dũng khí của cả dân tộc trong việc giải quyết quốc nạn tham nhũng. Hai trụ cột lớn, nó như những bệ đỡ, những con đập chắn sóng đối với cơn lũ tham nhũng nguy hiểm này là Pháp luật và Đạo đức.

Cuộc vận động học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh hiện nay và lâu dài phải tạo được sức mạnh, trở thành động lực chính trị, tinh thần trong chống tham nhũng. Phải tiến hành nghiêm chỉnh việc dạy và học, giáo dục và thực hành đạo đức trong toàn xã hội, từ gia đình, nhà trường đến các công sở, các tổ chức kinh tế - xã hội, các công ty, doanh nghiệp, tập đoàn. Một bộ luật đạo đức của xã hội là cần thiết phải tính đến, đồng thời trong giáo dục, phải coi đạo đức là môn học hàng đầu, ở tất cả các bậc học. Tất cả mọi người lao động, các công chức bắt buộc phải qua khóa học đạo đức công chức, công vụ trước khi ngồi vào nhiệm sở. Giáo dục liêm sỉ trong tất cả các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể và trong xã hội bằng tất cả các phương tiện truyền thông đại chúng. Dấy lên trong xã hội luồng dư luận phê phán nghiêm khắc đối với tham nhũng, biết trọng liêm sỉ, danh dự, biết hổ thẹn, biết nhục vì tham nhũng.

Pháp luật, đặc biệt là pháp luật chống tham nhũng phải coi chống tham nhũng là chống một tội ác xã hội, trừng trị cái ác để bảo vệ cái thiện, sự lương thiện vì sự bình yên của cuộc sống, sự trong sạch của phẩm giá con người, sự lành mạnh của xã hội. Áp dụng “Quốc lệnh”

của Hồ Chí Minh vào sự trừng phạt tham nhũng, bất chính, bất liêm. Đã tham nhũng thì phải trừng trị. Quyền càng cao, chức càng cao thì phải xử càng nặng để nêu gương, không có vùng cấm, không có ngoại lệ.

Áp dụng tổng hợp pháp luật - chính sách - cơ chế và chế tài theo kinh nghiệm của Singapore, sao cho mọi người giác ngộ và thực hiện: không muốn tham nhũng, không dám tham nhũng và cũng không thể tham nhũng bởi hàng rào kiểm soát và sự cảnh báo trừng phạt.

Trong những việc ấy, phải cải cách triệt để chế độ tiền lương. Chính những bất hợp lý về lương, lương không đủ sống nên đẻ ra hội chứng cướp đoạt, làm cho công chức, viên chức không tận tâm, tận lực với công việc, với nghề, với người, thiếu vắng trách nhiệm và lẩn trốn trách nhiệm.

Kiểm soát hành vi để phát hiện sớm và nghiêm trị kịp thời bằng những biện pháp quản lý, bằng công nghệ, đồng thời giáo dục ý thức tự kiểm soát, tự điều chỉnh của mỗi người.Bảo vệ người tố cáo và đấu tranh chống tham nhũng cùng gia đình họ bằng sức mạnh luật pháp và an ninh, đồng thời cũng nghiêm trị những sự lợi dụng chống tham nhũng để tố cáo sai, vu khống, làm nhục, làm hại người khác vì những động cơ xấu.

Lựa chọn nghiêm ngặt nhân sự lãnh đạo, quản lý ở tất cả các cấp, đặc biệt là cấp cao dựa trên tiêu chuẩn thực sự Đức - Tài, không chỉ căn cứ vào đánh giá, dự kiến của tổ chức mà còn thẩm định bởi đánh giá của xã hội, của công chúng, nhất là bảo đảm sự minh bạch thông tin, kể cả thông tin về tài sản. Phương châm là khuyến khích chuyên gia, tinh lọc, sàng lọc bộ máy quyền lực theo phương châm “thà ít mà tốt”. Bảo đảm có mặt trong bộ máy những tinh hoa, thực đức, thực tài, thực lực, thực chất. Muốn vậy, phải công khai tuyển chọn, tranh cử, xác lập hàng rào pháp lý - đạo đức để không thể dùng tiền, dùng quan hệ mà chạy chức, chạy quyền.

Một khi đã đề cao thực chất và thực sự trọng dụng nhân tài, hiền tài thì những cái giả, những của giả, những “giả nhân cách” của kẻ cơ hội sẽ bị thải loại. Phải lắng nghe những thông tin phản hồi, những tiếng nói mách bảo của người dân đối với thể chế.

Loại bỏ những hư danh, những thói hám danh, hám chức, tham quyền, tham tiền bằng một chế độ kiểm soát và xử lý nghiêm ngặt, sao cho thật - giả đều phải bộc lộ dưới ánh sáng của đạo lý và công lý.

Xóa bỏ đẳng cấp, đặc quyền, đặc lợi của những người nắm quyền, coi nắm giữ quyền lực chỉ là nghĩa vụ bổn phận do dân ủy thác, ủy quyền và nắm giữ chức vụ có thời hạn. Cái căn

(15)

bản của cuộc sống đối với mọi người là nghề chuyên môn thành thạo, hữu ích cho xã hội, được sử dụng, được toàn dụng, được đãi ngộ và tôn vinh xứng đáng. Được như thế, có thể chấm dứt, vô hiệu hóa thứ liên minh trục lợi giữa tiền và quyền. Quyền phải chân chính, ngay thẳng, tiền phải dùng cho xã hội, ích quốc lợi dân chứ không phải để mua danh, mua chức. Xã hội dân chủ, công bằng, văn minh khuyến khích mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh vì sự phồn vinh giàu có của cá nhân và cộng đồng bằng lao động sáng tạo, hợp pháp nhưng phải nghiêm trị những hành vi kinh doanh chính trị, mua bán quyền, chức.

Đặt ra thể chế và chế tài mạnh để buộc tất cả mọi người giữ chức vụ phải chịu trách nhiệm về hành vi và bổn phận của mình. Dùng sức ép của dư luận xã hội, áp lực hối thúc của danh dự, liêm sỉ để mau chóng từ chức khi không còn xứng đáng, khi mắc lỗi, phạm tội. Có những quy định pháp lý sao cho không từ chức thì buộc phải từ chức và phải chịu xử lý kèm theo.

Thực hiện bỏ phiếu tín nhiệm, phải đồng thời với bỏ phiếu bất tín nhiệm để miễn nhiệm, bãi nhiệm đúng lúc cần thiết. Không lạm dụng “lời xin lỗi”, biến nó thành hình thức, thành một thứ trống rỗng, giả dối, mị dân mà phải thực hành bằng sự sửa lỗi có hiệu quả, được đánh giá công khai bởi công luận.

Năng động hóa các chính sách và quy định, không sơ cứng máy móc để từ đó lại tạo ra những kẽ hở cho sự lợi dụng, trong đó có quy định chế độ tuổi làm việc, tuổi giữ và thôi chức vụ, tuổi nghỉ hưu. Cái cốt yếu là thực tài, thực đức, thực tín (có tín nhiệm thực sự).

Đột phá về tổ chức chống tham nhũng đòi hỏi phải có một tổ chức độc lập do Quốc hội lập ra và cũng do Quốc hội điều phối. Tổ chức này phải được trao toàn quyền với một lực lượng tinh nhuệ, tài giỏi, công tâm, dám chịu trách nhiệm. Ban Chỉ đạo PCTN của Trung ương đặt ở cơ quan lãnh đạo tối cao của Đảng với những cơ quan tham mưu giúp việc để lãnh đạo ở tầm chiến lược là cần thiết. Song tổ chức thực hiện chống tham nhũng muốn hoạt động và hành xử đúng luật, hợp hiến, hợp pháp thì phải là một tổ chức độc lập, do cơ quan lập pháp (Quốc hội) lập ra, chịu trách nhiệm trước toàn dân. Xóa bỏ kiểu lựa chọn cơ hội, thực dụng

“hạ cánh an toàn” của các công chức, quan chức. Phải làm cho tất cả mọi người ý thức rằng, đã tham nhũng thì phải bị trừng trị, dù có “hạ cánh” cũng “không an toàn”, vẫn bảo đảm cho dù tại vị hay đã thôi chức, đã nghỉ hưu vẫn phải chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động và hành vi của mình, nếu bị phát hiện tham nhũng, vẫn chịu xử lý theo luật pháp công minh khi có kết luận của điều tra, xét xử...

Bằng những biện pháp như thế, có thể làm cho cuộc chiến chống tham nhũng để bảo vệ dân, bảo vệ chế độ có kết quả. Nó sẽ thay đổi tình hình, chuyển hóa từ “vô dược” thành “hữu dược” để trị “tham nhũng bệnh” thời nay.

GS, TS Hoàng Chí Bảo

(Chuyên gia cao cấp Hội đồng Lý luận Trung ương) _____________

(1) Tình trạng nêu trên có thể được hình dung ở chỗ, có pháp luật nhưng không dựa vào luật, không tuân thủ pháp luật. Một khái niệm bị biến tướng trong đời thường là khái niệm

“làm luật” (tức là đưa tiền) pháp chế có vẻ tích cực nhưng pháp trị thì rất tiêu cực.

(2) Tống Văn Công: “Cha đẻ của tệ nạn phong bì”, Báo Lao động, ngày 27-11-2012.

7. Rút kinh nghiệm:

--- --- ---

(16)

--- --- --- --- ---

Người soạn

30 Tháng 3 2014 lúc 21:45

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

kính sáng (kính phóng đại của ông bà hoặc bố mẹ) Thử quan sát vật

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ ở trường mầm non, vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) là vấn đề đặc biệt quan trọng đối với nhân

Cùng một phán quyết trọng tài do Tòa trọng tài ICC ban hành, cùng được một tòa xem xét và giải quyết (Tòa thượng thẩm liên bang), nhưng yêu cầu công nhận

a) Rút kinh nghiệm những năm trước, việc nhập và trình duyệt dữ liệu trên hệ thống phần mềm quản lý thi tốt nghiệp THPT của Bộ GDĐT được tiến hành đúng tiến độ, công tác

nhau, số lượng tiếng bằng nhau, các tiếng đối nhau về từ loại và nghĩa (đặc biệt giữa hai câu thực và hai câu luận của bài thất ngôn bát cú)... + Tác dụng: Làm rõ ý

Trong thử nghiệm này, canagliflozin làm giảm nguy cơ làm tăng nặng bệnh thận và tử vong (kết quả tổng của CKD giai đoạn cuối, nồng độ creatinin huyết thanh tăng gấp

Công dân được khiếu nại các quyết định, việc làm của công chức nhà nước khi thực hiện công vụ đã xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình..

Bình: Nước đã sôi, thì có đun mãi, nước cũng không nóng hơn lên đâu.. An: Mình vẫn tiếp tục đun thì nước phải vẫn tiếp tục nóng