• Không có kết quả nào được tìm thấy

đạo đức nghề nghiệp kế toán - kiểm toán

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2023

Chia sẻ "đạo đức nghề nghiệp kế toán - kiểm toán"

Copied!
11
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

đạo đức nghề nghiệp kế toán - kiểm toán

Lê Thị Thu Hà

Học viện Ngân hàng Ngày nhận: 17/03/2021 Ngày nhận bản sửa: 28/03/2021 Ngày duyệt đăng: 22/04/2021

Tóm tắt: Đạo đức nghề nghiệp là một trong những yêu cầu quan trọng nhất đối với người hành nghề kế toán - kiểm toán. Bài viết này được thực hiện nhằm hệ thống một số lý luận chung về đạo đức nghề nghiệp, và tổng quan các nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp, cụ thể là việc ra quyết định liên quan đến đạo đức trong lĩnh vực kế toán- kiểm toán. Để thực hiện bài viết, tác giả đã đọc và thực hiện tổng quan một số nghiên cứu trên thế giới về các nhân tố ảnh hưởng tới đạo đức nghề nghiệp kế toán- kiểm toán. Trong đó các nhân tố ảnh hưởng đến việc ra quyết định liên quan đến đạo đức, bao gồm các nhân tố mang tính chất cá nhân như độ tuổi, giới tính, kinh nghiệm làm việc; và các nhân tố thuộc về môi trường như chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, giá trị đạo đức doanh nghiệp, văn hoá quốc gia. Bài viết cung cấp thông tin tham khảo cho các cơ quan quản lý, tổ chức, doanh nghiệp trong việc thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao đạo đức nghề nghiệp trong các tổ chức, và định hướng các nghiên cứu thực nghiệm có thể được thực hiện về chủ đề đạo đức nghề nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới.

Literature review on determinants of professional ethics for accountants and auditors

Abstract: Acting ethically is one of the most important requirements for accountants and auditors.

This article is designed to systematize theories of professional ethics, and review research on determinants of professional ethics for accountants and auditors, particularly determinants of ethical decision-making. To achieve the objective, the author has read and conducted a review of the literature on determinants of professional ethics. In which determinants of the ethical decision-making include individual factors such as age, gender, work experience; and environmental factors such as professional ethical standards, corporate ethical values and national culture. The article provides references for regulatory agencies, organizations and businesses in the implementing measures to improve professional ethics in organizations, and guidance for future empirical studies on the topic of professional ethics in Vietnam.

Keywords: ethics, professional ethics, accounting- auditing.

Ha Thi Thu Le

Email: lethithuha@gmail.com Banking Academy of Vietnam

(2)

Từ khoá: đạo đức, đạo đức nghề nghiệp, kế toán - kiểm toán.

1. Giới thiệu

Đạo đức nghề nghiệp là các tiêu chuẩn, nguyên tắc điều chỉnh hành vi của những người hành nghề trong một lĩnh vực nghề nghiệp cụ thể, nhằm đảm bảo người hành nghề thực hiện nhiệm vụ của mình với chất lượng tốt, tuân thủ các qui định của pháp luật, tạo niềm tin cho cộng đồng về chất lượng dịch vụ cung cấp. Đạo đức nghề nghiệp là một trong những yêu cầu quan trọng nhất đối với người hành nghề trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán, xuất phát từ tầm quan trọng của thông tin kế toán tài chính của các doanh nghiệp.

Việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp trong lĩnh vực kinh doanh nói chung và đối với nghề kế toán- kiểm toán là cần thiết để từ đó các cơ quan quản lý và doanh nghiệp có định hướng phù hợp trong việc đề ra các biện pháp tăng cường đạo đức nghề nghiệp trong các tổ chức.

2. Khái niệm đạo đức nghề nghiệp kế toán- kiểm toán

2.1. Khái niệm đạo đức

Theo từ điển Cambridge, đạo đức là “hệ thống các tiêu chuẩn cá nhân hay xã hội về các hành vi và tính cách tốt hay xấu”.

Theo Wikipedia, đạo đức là “hệ thống quy tắc, tiêu chuẩn, chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con người tự nguyện điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng, xã hội”. Đạo đức còn được hiểu là các hành vi đúng đắn của các cá nhân; các nguyên tắc về các hành vi tốt và xấu; là sự phân biệt giữa cái tốt và cái xấu, cái đúng

và cái sai, và điều gì nên làm và không nên làm (Beekun và cộng sự, 2003; Beu và Buckley, 2001; Christie và cộng sự, 2003).

Như vậy có thể hiểu đạo đức là hệ thống các tiêu chuẩn, nguyên tắc về các mối quan hệ và các hành vi được xã hội thừa nhận, dựa trên đó các thành viên của xã hội điều chỉnh cách thức ứng xử của mình để phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng.

Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống những nguyên tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi của con người trong quan hệ giữa con người với con người, được hình thành thông qua niềm tin cá nhân, các giá trị truyền thống và tác động của cộng đồng.

Đạo đức qui định thái độ, nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người đối với bản thân cũng như đối với các cá nhân khác và cộng đồng.

Vì thế đạo đức là khuôn mẫu, tiêu chuẩn để xây dựng lối sống, lí tưởng mỗi người, đạo đức có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội.

2.2. Khái niệm đạo đức nghề nghiệp Đạo đức nghề nghiệp là “những phẩm chất cần có của mỗi người theo đúng những quy tắc chuẩn mực của một nghề nhất định được cộng đồng xã hội thừa nhận, nhằm điều chỉnh hành vi, thái độ của con người trong quan hệ với con người, tự nhiên và xã hội khi hành nghề. Đạo đức nghề nghiệp là những nguyên tắc chi phối hành vi của một người hoặc một nhóm trong môi trường công việc. Giống như các giá trị, đạo đức nghề nghiệp cung cấp các quy tắc về cách một người nên hành động đối với người khác và các tổ chức trong một môi trường như vậy” (Nghiêm Vũ Khải và Lê Thanh Tùng, 2019).

(3)

Như vậy đạo đức nghề nghiệp là các tiêu chuẩn, nguyên tắc điều chỉnh hành vi của những người hành nghề trong một lĩnh vực nghề nghiệp cụ thể, nhằm đảm bảo người hành nghề thực hiện nhiệm vụ của mình với chất lượng tốt, tuân thủ các qui định của pháp luật, tạo niềm tin cho cộng đồng về chất lượng dịch vụ cung cấp. Mỗi nghề nghiệp đều có thể có các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp riêng, ví dụ đạo đức nghề nghiệp đối với ngành y, ngành luật, ngành kế toán… Đạo đức nghề nghiệp là sự phát triển của những nguyên tắc đạo đức chung trong một nghề nghiệp cụ thể, được các tổ chức, cá nhân hành nghề trong lĩnh vực nghề nghiệp đó công nhận, là cơ sở để đánh giá, điều chỉnh hành vi trong lĩnh vực nghề nghiệp.

2.3. Khái niệm đạo đức nghề nghiệp kế toán- kiểm toán

Đạo đức nghề nghiệp kế toán - kiểm toán là hệ thống những nguyên tắc đạo đức áp dụng cho các cá nhân và tổ chức hành nghề trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán. Đạo đức nghề nghiệp là một trong những yêu cầu quan trọng nhất đối với người hành nghề trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán, xuất phát từ tầm quan trọng của thông tin kế toán tài chính của các doanh nghiệp.

Kế toán thực hiện việc ghi chép, tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, lập báo cáo tài chính (BCTC) cung cấp cho người sử dụng thông tin. Còn kiểm toán viên thu thập các bằng chứng về BCTC của doanh nghiệp, từ đó đưa ra ý kiến về tính trung thực hợp lý của các BCTC. Việc ra quyết định của các cổ đông, nhà đầu tư tiềm năng và những người sử dụng BCTC khác phụ thuộc rất nhiều vào BCTC hằng năm của một công ty. Vì vậy, nếu người làm kế toán, kiểm toán không tuân thủ các nguyên tắc đạo đức thì có thể gây ra các hậu quả

nghiêm trọng cho xã hội, làm suy giảm niềm tin của công chúng vào các BCTC và tác động tiêu cực đến sự hiệu quả của thị trường tài chính.

Trong quá trình thực thi công việc, các kế toán viên, kiểm toán viên có thể gặp phải các tình huống khó xử về đạo đức, có thể ảnh hưởng đến tính trung thực, khách quan của họ và ảnh hưởng đến chất lượng thông tin BCTC, cũng như lợi ích của công chúng. Vì vậy việc hiểu và vận đúng các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp là một trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu với người làm nghề kế toán, kiểm toán.

2.4. Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán - kiểm toán

Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán- kiểm toán là những qui định, nguyên tắc cơ bản về đạo đức nghề nghiệp, do cơ quan quản lý hoặc hiệp hội nghề nghiệp ban hành, nhằm hướng dẫn hành vi cho các kế toán viên, kiểm toán viên và tổ chức hành nghề kế toán, kiểm toán trong việc xử lý các vấn đề đạo đức phát sinh trong quá trình hành nghề. Việc ban hành và áp dụng các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp nhằm đảm bảo chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán, đảm bảo tính trung thực và hợp lý của các thông tin kế toán, từ đó củng cố niềm tin của công chúng đối với các thông tin tài chính của doanh nghiệp cũng như đối với nghề nghiệp kế toán, kiểm toán.

Trên bình diện quốc tế, chuẩn mực đạo đức cho kế toán viên chuyên nghiệp (The code of ethics for professional accountants) do Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) xây dựng và ban hành năm 2009. Chuẩn mực chia thành ba phần chính: Phần A đưa ra các nguyên tắc chung cho kế toán viên chuyên nghiệp; Phần B đưa ra hướng dẫn cho kế toán viên, kiểm toán viên hành nghề trong các doanh nghiệp kế toán, kiểm toán; Phần

(4)

C áp dụng cho kế toán viên chuyên nghiệp trong các doanh nghiệp khác.

Theo chuẩn mực đạo đức cho kế toán viên chuyên nghiệp, các kế toán viên chuyên nghiệp phải đảm bảo tuân thủ năm nguyên tắc đạo đức cơ bản: (1) tính chính trực, (2) tính khách quan, (3) năng lực chuyên môn và tính thận trọng, (4) tính bảo mật, và (5) tư cách nghề nghiệp.

Tính chính trực: Yêu cầu kế toán viên thẳng thắn, trung thực trong tất cả các mối quan hệ chuyên môn và kinh doanh.

Tính khách quan: Kế toán viên không để sự thiên vị, xung đột lợi ích hoặc bất cứ ảnh hưởng không hợp lý nào chi phối các xét đoán chuyên môn và kinh doanh.

Năng lực chuyên môn và tính thận trọng:

Kế toán viên cần duy trì và thể hiện các kiến thức và kỹ năng chuyên môn cần thiết để có thể cung cấp các dịch vụ có chất lượng cho khách hàng; đồng thời hành động một cách thận trọng và phù hợp với các chuẩn mực nghề nghiệp.

Tính bảo mật: Kế toán viên phải bảo mật thông tin thu được từ các mối quan hệ chuyên môn và kinh doanh, không tiết lộ bất cứ thông tin nào cho bên thứ ba khi chưa được sự đồng ý của bên có thẩm quyền, hoặc được yêu cầu cung cấp thông tin từ cơ quan quản lý hoặc tổ chức nghề nghiệp, và cũng như không được sử dụng thông tin vì lợi ích cá nhân.

Tư cách nghề nghiệp: Phải tuân thủ pháp luật và các quy định có liên quan, tránh bất kỳ hành động nào làm giảm uy tín nghề nghiệp của mình.

3. Một số lý thuyết về sự phát triển đạo đức và hành vi đạo đức

Trong lịch sử các nghiên cứu về đạo đức đã có một số nhà nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết về sự phát triển của đạo đức cá nhân, và đã được các nghiên cứu

sau này phát triển và chứng minh qua các nghiên cứu thực nghiệm. Trong đó nổi bật là lý thuyết về sự phát triển đạo đức của Kohlberg (1969) và mô hình hành vi đạo đức của Rest (1986).

3.1. Lý thuyết về sự phát triển đạo đức của Kohlberg (Kohlberg’s cognitive moral development model)

Kohlberg là một nhà nghiên cứu trong lĩnh vực đạo đức và phát triển tâm lý. Ông đã đề xuất một lý thuyết về sự phát triển đạo đức, được gọi là quá trình phát triển nhận thức. Công trình nghiên cứu của Kohlberg (1969) về các giai đoạn phát triển nhận thức đạo đức tập trung vào các xét đoán đạo đức và quá trình nhận thức của các cá nhân khi họ đối mặt với các tình huống khó xử về đạo đức, là một đóng góp lớn cho nghiên cứu về việc ra quyết định đạo đức trong các tổ chức.

Lý thuyết của Kohlberg (1969) mô tả các giai đoạn phát triển đạo đức của cá nhân bao gồm ba cấp độ và sáu giai đoạn phát triển tiếp nối nhau, cấp độ sau hoàn thiện, đầy đủ hơn cấp độ trước (Robertson và Fadil, 1999; Trevino, 1986).

Kohlberg xác định cấp độ phát triển đạo đức đầu tiên là tiền qui ước (Preconventional Morality). Các cá nhân ở cấp độ phát triển này tập trung vào lợi ích trước mắt của chính họ, các phần thưởng và hình phạt bên ngoài.

Cấp độ phát triển đạo đức thứ hai là đạo đức qui ước (Conventional Morality). Các quyết định đạo đức của các cá nhân trong các giai đoạn phát triển này dựa trên sự phù hợp với kỳ vọng của gia đình hoặc các nhóm đồng đẳng hoặc một bộ phận xã hội lớn hơn. Các cá nhân trong giai đoạn đạo đức qui ước duy trì các quy tắc vì điều đó đó phù hợp với mong đợi của gia đình, nhóm hoặc xã hội.

(5)

Cấp độ phát triển cao nhất của sự phát triển nhận thức về đạo đức là đạo đức hậu qui ước (Postconventional Morality). Ở cấp độ phát triển đạo đức này, các cá nhân tập trung vào các giá trị đạo đức hoặc nguyên tắc phổ quát. Hành vi đạo đức là hành vi dựa trên những nguyên tắc phổ quát về công bằng, bình đẳng về quyền con người.

Tuy nhiên quyền của cá nhân không được xung đột với quyền và lợi ích của xã hội.

Kohlberg cho rằng các cá nhân phản ứng khác nhau với các tình huống đạo đức tùy thuộc vào giai đoạn phát triển đạo đức của họ. Khi các cá nhân trải qua các giai đoạn phát triển đạo đức, họ càng nhận thức rõ quyền lợi của người khác và sự công bằng dựa trên các nguyên tắc phổ quát. Các cá nhân trong giai đoạn tiền qui ước thường tuân thủ các quy tắc vì lợi ích riêng của họ và để tránh bị trừng phạt. Ngược lại, các cá nhân ở giai đoạn phát triển đạo đức qui ước có xu hướng duy trì các quy tắc vì điều đó phù hợp với mong đợi của một nhóm tham chiếu hoặc của xã hội. Các cá nhân ở giai đoạn phát triển hậu qui ước duy trì nghĩa vụ trước pháp luật và sẽ tuân theo các nguyên tắc đạo đức do họ lựa chọn bất kể ý kiến của đa số.

Mô hình của Kohlberg chỉ ra rằng quá trình phát triển nhận thức đạo đức của các cá nhân phụ thuộc vào độ tuổi, giáo dục và yếu tố kinh nghiệm (Conroy và cộng sự, 2010; Robertson và Fadil, 1999).

3.2. Mô hình hành vi đạo đức của Rest (Rest’s Model of Moral Action)

Dựa trên lý thuyết về phát triển nhận thức của Kohlberg, Rest (1986) đã đề xuất mô hình hành vi đạo đức để mô tả quá trình nhận biết, suy luận và thực hiện hành động đạo đức của một cá nhân.

Theo mô hình Rest, quá trình ra quyết định đạo đức bao gồm bốn giai đoạn, bắt

đầu bằng việc xác định một vấn đề đạo đức hoặc tình huống khó xử về đạo đức (identification of an ethical dilemma). Một khi một tình huống khó xử về đạo đức đã được xác định, ở bước tiếp theo, các cá nhân tiến hành xét đoán để xác định những hành động nào nên được thực hiện để giải quyết tình huống khó xử (assessment of ethical choices). Việc xét đoán (judgment) này cho phép một cá nhân đánh giá sự phù hợp của các hành động khác nhau để xử lý tình huống đạo đức. Tiếp theo quá trình xét đoán là việc xác định hành động dự kiến sẽ thực hiện (planned intention to act). Giai đoạn cuối cùng của quá trình tâm lý là việc thực hiện hành vi đạo đức (ethical action or behavior).

Mô hình bốn giai đoạn của Rest cho rằng để hành vi đạo đức xảy ra, các cá nhân phải thực hiện các quy trình tâm lý cơ bản: Thứ nhất, cá nhân phải có khả năng phân tích tình huống để xác định những hành động có thể thực hiện, các bên sẽ bị ảnh hưởng của các hành động này và ảnh hưởng của hành động đến lợi ích của họ. Thứ hai, cá nhân phải có khả năng xét đoán hành động nào là đúng đắn về mặt đạo đức, từ đó xác định một hành động khả thi mà cá nhân đó nên thực hiện trong tình huống đó. Thứ ba, cá nhân đó phải ưu tiên cho các giá trị đạo đức trên các giá trị cá nhân khác để quyết định sẽ thực hiện hành vi đạo đức. Thứ tư, cá nhân đó phải có đủ sự kiên trì, lòng tự trọng và khả năng thực hiện ý định của mình để vượt qua những trở ngại và hành xử đạo đức (Croxford, 2010).

4. Tổng quan các nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp kế toán- kiểm toán Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu khác nhau đã được thực hiện nhằm xác định các nhân tố ảnh hưởng tới hành vi đạo đức của một cá nhân, các nghiên cứu này chủ yếu tập

(6)

trung vào hai nhóm nhân tố. Nhóm thứ nhất là các nhân tố thuộc về đặc điểm cá nhân có thể tác động đến việc đưa ra các quyết định đạo đức, ví dụ giới tính, kinh nghiệm làm việc, độ tuổi... (Jones và cộng sự, 2003, Douglas và cộng sự, 2001). Nhóm thứ hai là nhóm nhân tố môi trường có tác động đến các quyết định đạo đức, bao gồm vai trò của các chuẩn mực đạo đức, văn hoá quốc gia và các nhân tố thuộc về tổ chức như giá trị đạo đức (ethical values) của tổ chức (Ismail, 2015; Maree và Radloff, 2007).

4.1. Các nhân tố thuộc về cá nhân a. Giới tính

Giới tính thường được các nhà nghiên cứu cho là một trong các nhân tố ảnh hưởng đến các quyết định về đạo đức, và thường hay được đưa vào trong các mô hình nghiên cứu về đạo đức (Jones và cộng sự, 2003).

Tuy nhiên, bằng chứng thực nghiệm về tác động của giới tính tới các quyết định đạo đức cho các kết quả khác biệt. Một số nghiên cứu không tìm thấy mối liên hệ giữa giới tính và hành vi đạo đức, trong khi một số nghiên cứu khác cho thấy phụ nữ ít chấp nhận hành vi phi đạo đức hơn nam giới.

O’Fallon và Butterfield (2005) trong một tổng quan nghiên cứu về việc ra quyết định đạo đức trong khoảng thời gian 1996- 2003 đã xác định có 49 nghiên cứu về tác động của giới tính tới việc ra quyết định đạo đức, trong đó 23 nghiên cứu không tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê, và 16 nghiên cứu cho thấy phụ nữ hành xử có đạo đức hơn nam giới trong một số trường hợp.

Trong khi một tổng quan nghiên cứu khác trước đó của Loe và cộng sự (2000) tìm thấy 09 nghiên cứu không cho kết quả khác biệt giữa nam giới và nữ giới, 12 nghiên cứu cho thấy nữ giới hành xử đạo đức hơn nam giới trong một số trường hợp.

Lopez và cộng sự (2005) trong nghiên cứu

với các sinh viên chuyên ngành kế toán, tài chính, luật, kinh doanh tìm thấy bằng chứng cho thấy nữ giới ít chấp nhận hành vi phi đạo đức hơn nam giới trong bốn trên năm tình huống đạo đức. Emerson và cộng sự (2007) thực hiện khảo sát với 520 kế toán viên hành nghề từ Viện kế toán công chứng Hoa Kỳ (AICPA) cho thấy nam giới chấp nhận các hành vi phi đạo đức nhiều hơn nữ giới trong 21 trên 25 tình huống. Conroy và cộng sự (2010) có kết quả tương tự trong một nghiên cứu với 195 kế toán viên hành nghề của AICPA, cho thấy đối tượng khảo sát là nam giới chấp nhận các hành vi phi đạo đức nhiều hơn nữ giới trong 10 trên 30 tình huống nghiên cứu.

Theo Croxford (2010), các kết quả nghiên cứu khác nhau về giới tính có thể được giải thích bằng hai lý thuyết là cách tiếp cận xã hội hóa giới tính (gender socialization approach) và cách tiếp cận cấu trúc (structural approach). Cách tiếp cận xã hội hoá giới tính cho rằng nam giới và nữ giới có những đặc điểm khác nhau tạo ra các định hướng đạo đức khác nhau, từ đó dẫn đến sự khác biệt trong các quyết định và thực hành đạo đức (Roxas và Stoneback, 2004).

Cách tiếp cận thứ hai là cách tiếp cận cấu trúc, lập luận rằng sự khác biệt về giới phụ thuộc vào các yếu tố bối cảnh cụ thể (Simga-Mugan và cộng sự, 2005). Cách tiếp cận cấu trúc lập luận rằng định hướng đạo đức sẽ bị tác động bởi các yếu tố nghề nghiệp. Theo cách tiếp cận này, các chuẩn mực nghề nghiệp khiến cho nam giới và nữ giới trở nên giống nhau hơn trong các điều kiện nghề nghiệp giống nhau, từ đó dẫn đến không có sự khác biệt giữa hai giới tính khi ra các quyết định đạo đức.

b. Độ tuổi

Nhiều nhà nghiên cứu coi độ tuổi là một yếu tố tác động đến quá trình ra quyết định đạo đức (Hunt và Vitell, 1986; Kohlberg,

(7)

1969). Theo lý thuyết của Kohlberg (1969), các cá nhân lớn tuổi hơn có khả năng đưa ra các quyết định phù hợp đạo đức hơn. Tuy nhiên, các bằng chứng thực nghiệm cho các kết quả khác nhau về tác động của độ tuổi tới quyết định đạo đức.

O’Fallon và Butterfield’s (2005) thực hiện tổng quan nghiên cứu các công trình công bố từ 1996 tới 2003, kết quả cho thấy 08 nghiên cứu không tìm thấy mối liên hệ giữa tuổi và hành vi đạo đức, 05 nghiên cứu phát hiện mối quan hệ ngược chiều giữa độ tuổi và quyết định đạo đức, và 06 nghiên cứu cho kết quả thuận chiều giữa hai biến này. Loe và cộng sự (2000) cho thấy trong 08 nghiên cứu về đạo đức, 01 nghiên cứu không có mối liên hệ giữa tuổi và quyết định đạo đức, 05 nghiên cứu cho thấy đối tượng khảo sát lớn tuổi hơn có quyết định đạo đức phù hợp hơn các đối tượng trẻ tuổi.

Maree và Radloff (2007) thực hiện nghiên cứu về xét đoán đạo đức đối với các kế toán viên ở Nam Phi, kết quả cho thấy trong 03 tình huống đạo đức, chỉ có 01 tình huống trong đó các kế toán viên ít tuổi hơn đưa ra các xét đoán đạo đức phù hợp hơn, 02 tình huống còn lại không cho thấy mối quan hệ giữa độ tuổi và xét đoán đạo đức.

Emerson và cộng sự (2007) khảo sát các kế toán viên hành nghề của Mỹ từ AICPA thông qua 25 tình huống liên quan đến nhiều vấn đề đạo đức như môi trường, kế toán, marketing, hối lộ… Kết quả cho thấy trong 19/25 tình huống, các cá nhân lớn tuổi hơn ít chấp nhận hành vi phi đạo đức hơn các cá nhân ít tuổi. Conroy và cộng sự (2010) cũng tìm thấy kết quả tương tự trong nghiên cứu với kế toán viên hành nghề của Mỹ, với 16/30 tình huống cho thấy độ tuổi cao hơn ít chấp nhận hành vi phi đạo đức hơn. Như vậy, các kết quả nghiên cứu về tác động của độ tuổi tới quyết định hành vi đạo đức có sự khác nhau, cho thấy đây là vấn đề phức tạp và cần tiếp tục được nghiên cứu.

c. Kinh nghiệm làm việc

Nhiều nghiên cứu cho thấy mối quan hệ thuận chiều giữa hành vi đạo đức và kinh nghiệm làm việc. Harris (1990) khảo sát 112 nhà kinh doanh ở các cấp độ quản lý khác nhau trong một công ty để xác định mối quan hệ giữa giá trị đạo đức của các cá nhân với kinh nghiệm làm việc. Kết quả cho thấy có mối liên hệ có ý nghĩa thống kê giữa kinh nghiệm làm việc và việc không chấp nhận hành vi phi đạo đức của đối tượng khảo sát. Cụ thể là các nhà quản lý cấp cao ít chấp nhận hành vi gian lận hơn so với các thành viên khác trong tổ chức.

Shapeero và cộng sự (2003) tìm thấy quan hệ thuận chiều giữa ý định hành xử đạo đức và số năm kinh nghiệm trong một nghiên cứu với 82 kiểm toán viên trong các công ty kiểm toán ở Mỹ. Ngược lại, nghiên cứu của Conroy và cộng sự (2010) trên mẫu 195 kế toán viên chuyên nghiệp cho thấy sự khác biệt nhỏ giữa các thành viên ít kinh nghiệm và các giám đốc trong việc chấp nhận các hành vi phi đạo đức. Như vậy, các nghiên cứu trước cho thấy các bằng chứng trái ngược nhau về vai trò của kinh nghiệm làm việc trong việc ra các quyết định đạo đức của kế toán viên.

Ngoài các nhân tố thường gặp trên, một số nghiên cứu còn xem xét vai trò của các nhân tố như xu hướng chính trị của các cá nhân, trình độ học vấn, xu hướng đạo đức cá nhân, trí thông minh cảm xúc... tới xét đoán đạo đức. Ví dụ, Eynon và cộng sự (1997), Sweeney (1995) cho thấy người theo chủ nghĩa tự do có xét đoán tốt hơn người theo chủ nghĩa bảo thủ, và các kế toán viên hành nghề đã hoàn thành các khoá đào tạo về đạo đức có xét đoán tốt hơn. O’Fallon và Butterfield (2005) cho thấy người theo chủ nghĩa lý tưởng (idealism) và đạo lý học (deontology) ra quyết định đạo đức phù hợp hơn so với người theo chủ nghĩa tương đối (relativism) và chủ nghĩa mục đích

(8)

(teleology). Ismail (2015) thu được bằng chứng cho thấy trí thông minh cảm xúc có tác động tích cực đến xét đoán đạo đức của kiểm toán viên tại Malaysia.

4.2. Các nhân tố thuộc về môi trường a. Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp

Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp dành cho kế toán viên là một hệ thống các nguyên tắc và yêu cầu do chính phủ hoặc hiệp hội nghề nghiệp ban hành mà kế toán viên và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kế toán phải áp dụng để đảm bảo hành vi chuẩn mực của họ và duy trì niềm tin của công chúng (Fatemi và cộng sự, 2020). Quy tắc đạo đức được xây dựng để hỗ trợ người làm kế toán xác định, đánh giá và phản ứng với các tình huống liên quan đến các vấn đề đạo đức một cách đúng đắn. Việc tuân thủ các chuẩn mực đạo đức giúp nâng cao uy tín và trách nhiệm của người làm kế toán và người làm kiểm toán, đồng thời nâng cao lòng tin của công chúng đối với thông tin kế toán của doanh nghiệp.

Vì chuẩn mực đạo đức cung cấp hướng dẫn về các vấn đề đạo đức mà kế toán viên phải tuân theo để giải quyết các tình huống khó xử về đạo đức, việc hiểu biết tốt và tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc sẽ giúp kế toán viên đưa ra phán đoán đạo đức phù hợp.

Cả khuôn khổ lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm đều cho thấy tầm quan trọng của chuẩn mực đạo đức đối với xét đoán đạo đức của một cá nhân.

Nhiều bằng chứng thực nghiệm cho thấy chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp có tác động đến xét đoán đạo đức của các cá nhân.

Martinson và Ziegenfuss (2000), Maree và Radloff (2007), Muslumov và Aras (2004) nghiên cứu mối quan hệ giữa tầm quan trọng của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp tới khả năng xét đoán của các kế toán viên tại Mỹ, Nam Phi và Thổ Nhĩ Kỳ

dựa trên bảng câu hỏi về tầm quan trọng của chuẩn mực đạo đức và ba tình huống về đạo đức. Kết quả nghiên cứu của Martinson và Ziegenfuss (2000) và Maree và Radloff (2007) cho thấy có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa chuẩn mực và xét đoán của kế toán viên, tuy nhiên Muslumov và Aras (2004) không tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa chuẩn mực và các xét đoán của kế toán viên.

Pflugrath và cộng sự (2007) nghiên cứu mối liên quan giữa chuẩn mực đạo đức với khả năng xét đoán của kế toán viên và sinh viên kiểm toán tại Úc. Kết quả cho thấy có các chuẩn mực đạo đức có tác động tích cực đến xét đoán của các kế toán viên, nhưng không tác động đến xét đoán của sinh viên.

Điều này cho thấy các chuẩn mực đạo đức giúp tăng chất lượng các xét đoán của kế toán viên có nhiều kinh nghiệm hơn.

Douglas và cộng sự (2001) cũng xem xét tác động của việc am hiểu chuẩn mực đạo đức tới xét đoán của kiểm toán viên trong các công ty kiểm toán của Mỹ. Kết quả cho thấy kiểm toán viên có hiểu biết tốt hơn về chuẩn mực đạo đức thì đưa ra các xét đoán có chất lượng hơn.

b. Giá trị đạo đức doanh nghiệp

Giá trị đạo đức doanh nghiệp (corporate ethical values), còn được gọi là văn hoá đạo đức doanh nghiệp (corporate ethical culture), được hiểu là “tổng hợp giá trị đạo đức của cá nhân của các nhà quản lý, và các chính sách chính thức và không chính thức về đạo đức của một tổ chức” (Hunt và cộng sự, 1989). Giá trị đạo đức doanh nghiệp là một hệ thống các giá trị được các thành viên trong một tổ chức cùng chia sẻ, và là một phần của văn hoá doanh nghiệp (Trevino và cộng sự, 1998). Giá trị đạo đức doanh nghiệp thể hiện các quan điểm của nhà lãnh đạo về vấn đề đạo đức, được hình thành thông qua thái độ và hành vi của nhà

(9)

quản lý. Giá trị đạo đức doanh nghiệp bao gồm các chính sách thưởng và phạt đối với hành vi tuân thủ hay vi phạm các qui định đạo đức của doanh nghiệp (Douglas và cộng sự, 2001).

Theo Trevino (1986), giá trị đạo đức doanh nghiệp tác động đến hành vi đạo đức của các cá nhân thông qua việc định hình quan điểm và hành vi đạo đức của cá nhân. Văn hóa doanh nghiệp mạnh có thể nâng cao sự phát triển nhận thức đạo đức của các thành viên và giúp các thành viên xác định điều gì là đúng hay sai trong một hoàn cảnh cụ thể.

Các bằng chứng thực nghiệm cũng chỉ ra rằng văn hoá đạo đức của tổ chức có ảnh hưởng tới xét đoán đạo đức. Ismail (2015) nghiên cứu tác động của văn hoá đạo đức tới khả năng xét đoán của các kiểm toán viên tại Malaysia. Kết quả hồi qui cho thấy kiểm toán viên làm việc trong doanh nghiệp có văn hoá đạo đức tốt hơn thì có khả năng xét đoán tốt hơn. Douglas và cộng sự (2001) cũng tìm được bằng chứng cho thấy văn hoá đạo đức doanh nghiệp các tác động đến khả năng xét đoán đạo đức của kiểm toán viên.

Một số nghiên cứu cho thấy giá trị đạo đức có mức độ ảnh hưởng khác nhau trong các tình huống đạo đức khác nhau. Nghiên cứu của Maree và Radloff (2007) cho thấy giá trị đạo đức doanh nghiệp có tác động đến xét đoán của kiểm toán viên khi xem xét các trường hợp liên quan đến hành vi sai trái, nhưng không có tác động rõ ràng đối với các hành vi tích cực.

c. Văn hoá quốc gia

Bên cạnh các yếu tố trực tiếp trong môi trường làm việc, nền tảng văn hoá quốc gia có thể ảnh hưởng tới quyết định đạo đức.

Văn hóa có thể hiểu là những giá trị và niềm tin chung của một nhóm cá nhân (Cohen và cộng sự 1992; Thorne và Saunders, 2002).

Văn hóa đóng vai trò quan trọng trong việc

hình thành các giá trị, niềm tin và thái độ và định hướng cho các cá nhân trong việc ra các quyết định (Christie và cộng sự, 2003;

Hofstede, 1997). Vì văn hóa là sự kết hợp các yếu tố truyền thống, di sản, nghi lễ, phong tục và tôn giáo, các cá nhân từ các nền văn hóa khác nhau có thể có các khác biệt đáng kể trong các tiêu chuẩn đạo đức, niềm tin và hành vi (Blodgett và cộng sự, 2001).

Xuất phát từ nghiên cứu của Hofstede (1980) phân chia văn hoá quốc gia theo hai xu hướng là xu hướng văn hoá tập thể (collectivism) và xu hướng văn hoá cá nhân (individualism), một số nghiên cứu cho thấy đặc điểm văn hoá quốc gia có tác động đến các quyết định về đạo đức.

Husted (2001) cho rằng chủ nghĩa cá nhân/

chủ nghĩa tập thể trong văn hóa quốc gia ảnh hưởng đến việc ra quyết định về kinh doanh, dẫn tới sự khác biệt trong nhận thức về các tình huống đạo đức của cá nhân từ các nền văn hóa khác nhau.

Thorne và Saunders (2002) cho rằng cá nhân từ các nền văn hóa theo chủ nghĩa tập thể có khả năng nhận ra tình huống khó xử về đạo đức hơn so với cá nhân từ các nền văn hóa có định hướng chủ nghĩa cá nhân. Croxford (2010) thực hiện nghiên cứu về tác động của văn hoá quốc gia đối với các kế toán viên trong một công ty đa quốc gia. Kết quả cũng cho thấy kế toán viên đến từ các quốc gia theo chủ nghĩa cá nhân có xu hướng chấp nhận hành vi phi đạo đức hơn các cá nhân từ quốc gia theo chủ nghĩa tập thể.

Ngoài ra, một số nghiên cứu cũng tìm hiểu tác động của các nhân tố môi trường khác ảnh hưởng đến quyết định đạo đức, ví dụ qui mô doanh nghiệp, chính sách thưởng phạt, tính chất ngành nghề, mức độ cạnh tranh…

Kết quả cũng cho thấy có sự khác biệt giữa các nghiên cứu về vai trò của các nhân tố này tới việc ra quyết định đạo đức của các cá nhân (O’Fallon và Butterfield, 2005).

(10)

5. Kết luận

Trong bài viết này, tác giả đã hệ thống hoá cơ sở lý luận và tổng quan nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp kế toán - kiểm toán dựa trên việc tổng hợp một số nghiên cứu đã được thực hiện trên thế giới. Kết quả cho thấy có nhiều nhân tố khác nhau, bao gồm các yếu tố thuộc về cá nhân như tuổi, giới tính, kinh nghiệm làm việc, cũng như môi trường làm việc như các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, giá trị đạo

đức doanh nghiệp hay môi trường văn hoá quốc gia có thể tác động đến hành vi đạo đức của các cá nhân. Việc xác định các yếu tố này là cơ sở để các cơ quan quản lý, tổ chức, doanh nghiệp có thể điều chỉnh, nâng cao đạo đức nghề nghiệp của người hành nghề kế toán - kiểm toán. Việc xác định tổng quan các nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp cũng là cơ sở cho việc thực hiện các nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam về chủ đề này trong thời gian tới ■

Tài liệu tham khảo

Beekun R., Stedham, Y, & Yamamura, J. (2003). Business ethics in Brazil and the U.S.: A comparative investigation.

Journal of Business Ethics, 42(3), 267-279.

Beu, D., & Buckley, M. (2001). The hypothesized relationship between accountability and ethical behavior. Journal of Business Ethics, 34(1), 57-73.

Blodgett, J. Lu, G., Rose, G., (2001). Ethical sensitivity to stakeholder interest: A cross-cultural comparison. Journal of the Academy of Marketing Science, 29, 190-202.

Cambridge Dictionary, truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2021, từ: https://dictionary.cambridge.org/vi/

Cohen, J, Pant, L., & Sharp, D. (1992). Cultural and socioeconomic constraints on international codes of ethics:

Lessons from accounting. Journal of Business Ethics, 11(9), 687-700.

Conroy, S., Emerson, T., & Pons, F. (2010). Ethical attitudes of accounting practitioners: Are rank and ethical attitudes related? Journal of Business Ethics, 91, 183-194.

Christie, M., Kwon, I., Stoeberl, P., & Baumhart, R. (2003). A cross-cultural comparison of ethical attitudes of business managers: India, Korea and the United States. Journal of Business Ethics, 46(3), 263-287.

Croxford, J. L. (2010). Determinants of ethical decision making: A study of accountants in a multinational firm. Doctor of Philosophy, Capella University.

Douglas, P. C., Davidson, R. A. & Schwartz, B. N. (2001). The effect of organizational culture and ethical orientation on accountants’ ethical judgments. Journal of Business Ethics, 34, 101-121.

Emerson, T., Conroy, S., & Stanley, C. (2007). Ethical attitudes of accountants: Recent evidence from a practitioners’

survey. Journal of Business Ethics, 71(1), 73-87.

Eynon, G., Hills, N.T. & Stevens, K.T., (1997). Factors that influence the moral reasoning abilities of accountants:

Implications for universities and the profession. Journal of Business ethics, 16(12), pp.1297-1309.

Fatemi, D., Hasseldine, J. & Hite, P. (2020). The Influence of ethical codes of conduct on professionalism in tax practice. Journal of Business Ethics, 164, 133-149.

Harris, J., & Sutton, C. 1995. Unraveling the ethical decision-making process: Clues from an empirical study comparing Fortune 1000 executives and MBA students. Journal of Business Ethics, 14(10), 805-817.

Hofstede, G. (1980). Cultures consequences: International differences in work related values. Beverly Hills, CA: Sage.

Hofstede, G. (1997). Cultures and organizations, software of the mind: Intercultural cooperation and its importance for survival. London, England: McGraw-Hill.

Hunt, S. D. & Vitell, S. (1986). A general theory of marketing ethics. Journal of macromarketing, 6, 5-16.

Hunt, S. D., Wood, V. R. & Chonko, L. B. (1989). Corporate ethical values and organizational commitment in marketing. Journal of marketing, 53, 79-90.

Husted, B. (2001). The impact of individualism and collectivism on ethical decision making by individuals in organizations. Academy of Management Proceedings and Membership Directory, pI1-I6

IFAC (2009). The code of ethics for professional accountants. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2021, từ: https://www.

ifac.org/system/files/publications/files/Code-of-Ethics_July_2009_FINAL_02_23_10.pdf

Ismail, S. (2015). Influence of emotional intelligence, ethical climates, and corporate ethical values on ethical judgment of Malaysian auditors. Asian Journal of Business Ethics, 4, 147-162.

Jones, J., Massey, D. W. & Thorne, L. (2003). Auditors’ ethical reasoning: Insights from past research and implications for the future. Journal of Accounting Literature, 22, 45.

(11)

Kohlberg, L. (1969.) Stage and sequence: The cognitive-developmental approach to socialization. Handbook of socialization theory and research. Chicago: Rand McNally.

Loe, T.W., L. Ferrell, & P. Mansfield. (2000). A review of empirical studies assessing ethical decision making in business. Journal of Business Ethics 25: 185–204.

Lopez, Y., Rechner, P., & Olson-Buchanan, J. (2005). Shaping ethical perceptions: An empirical assessment of the influence of business education, culture, and demographic factors. Journal of Business Ethics, 60(4), 341-358.

Maree, K. W. & Radloff, S. (2007). Factors affecting ethical judgement of South African chartered accountants.

Meditari: Research Journal of the School of Accounting Sciences, 15, 1-18.

Martinson, O. B. & Ziegenfuss, D. E. (2000). Looking at What Influences ETHICAL Perception and Judgment.

Management Accounting Quarterly, 2.

Muslumov, A. & Aras, G. (2004). The analysis of factors affecting ethical judgements: the Turkish evidence.

Nghiêm Vũ Khải, Lê Thanh Tùng. (2019). Một số vấn đề về đạo đức nghề nghiệp - Thực trạng và giải pháp. Tham luận tại Diễn đàn khoa học “Nhiệm vụ và giải pháp nâng cao đạo đức hành nghề trong giai đoạn hiện nay” ngày 28/8/2019 do Liên hiệp hội Việt Nam tổ chức.

O’Fallon, M., & Butterfield, K. (2005). A review of the empirical ethical decision-making literature: 1996-2003.

Journal of Business Ethics, 59, 375-413.

Pflugrath, G., Martinov-Bennie, N. & Chen, L. (2007). The impact of codes of ethics and experience on auditor judgments. Managerial Auditing Journal.

Rest, J. (1986). Moral development: Advances in research and theory. New York: New York. Praeger Press.

Robertson, C., & Fadil, P. (1999). Ethical decision making in multinational organizations: A culture-based model.

Journal of Business Ethics, 19(4) 385-392.

Roxas, M., & Stoneback, J. (2004). The importance of gender across cultures in ethical decision-making. Journal of Business Ethics, 50, 149-165.

Shapeero, M., Koh, H., & Killough, L. (2003). Underreporting and premature sign-off in public accounting.

Managerial Auditing Journal, 18(6/7), 478-489.

Simga-Mugan, C., Daly, B., Onkal, D., & Kavut, L. (2005). The influence of nationality and gender on ethical sensitivity: An application of the issue-contingent model. Journal of Business Ethics, 57, 139-159.

Sweeney, J., (1995). The ethical expertise of accountants: An exploratory analysis. Research in Accounting Ethics, 1(4), pp.213-234.

Thorne, L., & Saunders, S. (2002). The socio-cultural embeddedness of individuals ethical reasoning in organizations (cross-cultural ethics). Journal of Business Ethics, 35(1) 1-14.

Trevino, L. K. (1986). Ethical decision making in organizations: A person-situation interactionist model. Academy of management Review, 11, 601-617.

Trevino, L. K., Butterfield, K. D. & Mccabe, D. L. (1998). The ethical context in organizations: Influences on employee attitudes and behaviors. Business Ethics Quarterly, 447-476.

Wikipedia, từ: https://vi.wikipedia.org/wiki/Đạo_đức, truy cập ngày 15/3/2021.

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Kết quả nghiên cứu này cũng có một số hàm ý đối với doanh nghiệp trong việc quan tâm và nâng cao chất lượng hệ thống thông tin kế toán cũng như quan tâm đến các yếu