• Không có kết quả nào được tìm thấy

1.Mởđầu TrầnThịHồngNhung PHÁTTRIỂNSINHKẾVÀTÁCĐỘNGĐẾNGIẢMNGHÈOCỦACỘNGĐỒNGVENBIỂNĐỒNGBẰNGSÔNGHỒNG

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Chia sẻ "1.Mởđầu TrầnThịHồngNhung PHÁTTRIỂNSINHKẾVÀTÁCĐỘNGĐẾNGIẢMNGHÈOCỦACỘNGĐỒNGVENBIỂNĐỒNGBẰNGSÔNGHỒNG"

Copied!
11
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

Social Sci., 2017, Vol. 62, Iss. 7, pp. 182-192

This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn

PHÁT TRIỂN SINH KẾ VÀ TÁC ĐỘNG ĐẾN GIẢM NGHÈO CỦA CỘNG ĐỒNG VEN BIỂN ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

Trần Thị Hồng Nhung

Khoa Việt Nam học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Tóm tắt.Vùng Đồng bằng Sông Hồng (ĐBSH) là một vùng kinh tế tương đối phát triển của cả nước với sự ưu thế của các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, sự phân hóa giữa các địa phương tương đối rõ rệt do sự khác biệt về các điều kiện phát triển. Vùng ven biển ĐBSH nhờ những lợi thế về nguồn tài nguyên tự nhiên và dân cư đã phát triển mạnh các ngành nghề nông nghiệp, thủy sản bên cạnh các lĩnh vực phi nông nghiệp. Các ngành nghề này đã tác động mạnh đến sinh kế của người dân và cho đến nay, sinh kế của người dân vùng ven biển vẫn phụ thuộc nhiều vào các hoạt động nông, ngư nghiệp. Chính điều này đã hạn chế những thành quả của công cuộc giảm nghèo tại đây. Dựa trên việc phân tích các thế mạnh về tự nhiên, kinh tế và dân cư, bài báo tập trung làm rõ hiện trạng phát triển của các sinh kế chủ yếu của người dân vùng ven biển ĐBSH và những tác động của sinh kế đến quá trình giảm nghèo tại địa phương.

Từ khóa:Ven biển ĐBSH, sinh kế, giảm nghèo.

1. Mở đầu

Vùng ven biển ĐBSH bao gồm địa bàn của 4 tỉnh, thành: Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình. Diện tích của vùng là 6.129 km2, chiếm 41,0% tổng diện tích của toàn vùng ĐBSH và dân số vùng ven biển là 6.516,1 nghìn người (33,4% toàn vùng) [1]. Đây là khu vực có vị trí quan trọng, là cửa ngõ ra biển của toàn bộ khu vực phía Bắc nước ta, đồng thời là cầu nối trực tiếp giữa hai khu vực phát triển kinh tế năng động: Đông Nam Á và Đông Bắc Á. Được bồi đắp bởi hai hệ thống sông lớn, nền nông nghiệp lúa nước trong vùng đã tồn tại và phát triển lâu đời với trình độ thâm canh cao. Với hơn 400km đường bờ biển, vùng có điều kiện phát triển tổng hợp các ngành kinh tế biển. Lịch sử khai thác lãnh thổ lâu đời cùng với nguồn nhân lực dồi dào cho phép vùng phát triển nền kinh tế với cơ cấu ngành đa dạng. Điều này đã tạo điều kiện cho cư dân trong vùng tiếp cận và lựa chọn những ngành nghề đa dạng, để hình thành nên hệ thống sinh kế phong phú với nhiều quy mô và trình độ phát triển khác nhau.

Ngày nhận bài: 15/1/2017. Ngày nhận đăng: 25/7/2017

Liên hệ: Trần Thị Hồng Nhung, e-mail: trannhungvnh@gmail.com

(2)

2. Nội dung nghiên cứu

2.1. Các nhân tố tác động đến sinh kế vùng ven biển Đồng bằng Sông Hồng 2.1.1. Điều kiện tự nhiên

Địa hình ven biển ĐBSH tương đối bằng phẳng, hơi nghiêng về phía biển, độ dốc nhỏ, dao động từ 0,04 đến 0,05 m/km, nhưng phần lớn diện tích chỉ cao dưới 1m so với mực nước biển. Quá trình hình thành đồng bằng vẫn đang tiếp diễn nhờ vào việc bồi tụ phù sa của sông Hồng và các chi lưu chuyển ra biển. Một đặc điểm tương đối nổi bật trong địa hình của khu vực là sự hình thành các cồn cát, với độ cao khoảng trên 1m, là địa bàn để xây dựng các làng mạc. Giữa các cồn cát là khu vực đất trũng thấp hơn dùng để canh tác nông nghiệp.

Về khí hậu, các tỉnh ven biển mang đặc điểm chung của khí hậu toàn vùng là tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa. Nhưng do vị trí ở gần biển nên độ ẩm được tăng cường khá nhiều. Tổng lượng bức xạ lớn (95 – 105 Kcal/cm2/năm), tổng nhiệt độ khoảng 8000 – 85000C và có sự khác biệt giữa hai mùa. Vào mùa đông, nhiệt độ của khu vực cao hơn so với vùng trung tâm, tuy nhiên sự chênh lệch nhiệt độ không nhiều (dưới 10C) và lượng mưa cũng có sự gia tăng do ảnh hưởng của biển.

Vào mùa hè, ảnh hưởng của bão gây tác hại rất lớn đến sản xuất và sinh hoạt của người dân trong vùng, đặc biệt là ngư dân.

Tổng lượng dòng chảy ở vùng ven biển là 1,964 tỉ m3 nước và tổng lượng mưa là 4,073 tỉ m3. Vùng này hàng năm nhận được lượng phù sa lớn của sông Hồng và sông Thái Bình (sông Hồng 115 triệu tấn, sông Thái Bình 17 triệu tấn/năm) [2]. Điều này đã tạo nên khả năng bồi đắp phù sa làm cho diện tích đồng bằng được mở rộng hơn.

Tài nguyên nước mặt dải ven biển ĐBSH dồi dào song nước bị nhiễm mặn chiếm một tỉ lệ lớn. Nước ở đây thích hợp cho nuôi trồng thủy sản và phát triển giao thông thủy hơn là phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên, ảnh hưởng của thủy triều và biển ở vùng này yếu hơn so với ảnh hưởng của sông, nước mặn vào không sâu, dòng chảy ngược kém. Đây cũng là nơi tiếp nhận các nguồn thải từ lục địa đưa ra nhưng cho đến nay, mức độ ô nhiễm chưa đến mức báo động. Mặt khác, khu vực này là nơi tương tác giữa nước mặn và nước ngọt nên đã xảy ra các phản ứng hóa học gây hiện tượng ngưng keo kết bông làm lắng đọng các chất bẩn

Tài nguyên đất trong vùng chủ yếu là những vùng đất mới, luôn biến động dưới tác động của tự nhiên và con người. Loại đất phổ biến nhất ở ven biển ĐBSH là đất mặn, tuy nhiên, so với trước, diện tích có xu hướng giảm xuống do bị phèn hóa và được cải tạo (rửa mặn thành đất phù sa) hoặc sử dụng cho các mục đích phi nông nghiệp. Thay vào đó, diện tích đất phèn lại tăng lên. Đất phù sa có diện tích tương đối hạn chế (đứng thứ hai sau đất mặn) là loại đất tốt nhất cho canh tác nông nghiệp nhưng hiện nay phần lớn được phân bố ở trong đê, ít được bồi đắp hàng năm. Dưới tác động của quá trình canh tác nông nghiệp, chất lượng đất đang ngày càng biến đổi theo chiều hướng tiêu cực do việc sử dụng nhiều loại phân bón hóa chất quá mức cho phép.

Với đặc trưng của một vùng nông nghiệp trù phú, gần một nửa diện tích đất tự nhiên của vùng ven biển ĐBSH vẫn được dành cho sản xuất nông nghiệp. Diện tích đất rừng trong khu vực còn tương đối hạn chế, chủ yếu là rừng phòng hộ và rừng đặc dụng. Là khu vực ven biển nên có tới 8% diện tích được khai thác cho nuôi trồng thủy sản. Trong những năm qua, diện tích đất nuôi trồng thủy sản có xu hướng tăng lên và thay thế cho đất làm muối. Diện tích đất muối đang giảm đi rõ rệt và đến năm 2015 chỉ còn khoảng 970ha, tập trung tại Nam Định và Hải Phòng. Đất chuyên dùng chiếm một tỉ lệ đáng kể và hiện là nhóm đất đứng thứ hai trong cơ cấu sử dụng đất của vùng ven biển do sự gia tăng dân số và sự tăng trưởng mạnh mẽ của khu vực sản xuất phi nông nghiệp.

(3)

Biểu 1. Cơ cấu sử dụng đất vùng ven biển Đồng bằng Sông Hồng

(Nguồn: Tính toán theo Niên giám thống kê các tỉnh năm 2015) Là vùng đất được khai thác lâu đời, lại có số dân đông nên dễ hiểu tại sao diện tích đất chưa sử dụng của vùng ven biển ĐBSH lại rất thấp. Do đó khả năng mở rộng diện tích đất sản xuất của vùng hầu như không thể.

Tài nguyên sinh vật của vùng ven biển tương đối đa dạng với 250 loài thực vật (trong đó có 19 loài sống trong bãi lầy mặn, 25 loài cây gỗ bờ biển, 6 loài ưa mặn trên cạn, 12 loài chịu mặn, 10 loài đất chua, 82 loài đất cát, 12 loài ở núi đá sát đầm lầy mặn, 6 loài cây nước lợ [2]. Các loài thực vật này có thể được sử dụng trong công nghiệp nhuộm, thuộc da, dược phẩm, in, làm gỗ củi, thức ăn gia súc và nuôi trồng thủy sản, là môi trường cho nghề nuôi ong và cánh kiến, làm dược liệu.

Ngoài ra thực vật ven bờ còn có vai trò to lớn trong việc bảo vệ bờ biển, chống xói lở bờ, bảo tồn đa dạng sinh học. Về động vật có 166 loài chim, 44 loài thú, 33 loài bò sát, 7 loài ếch nhái trong đó có nhiều loài quý hiếm có giá trị kinh tế và khoa học cao (5 loài chim, 6 loài thú, 9 loài bò sát) có thể sử dụng làm dược liệu, thực phẩm và nguyên liệu cho hàng mỹ nghệ. Đặc biệt ở đây có một số loài đặc hữu như Voọc đầu trắng và những loài có giá trị bảo tồn đặc biệt và có ý nghĩa kinh tế cao như cò mỏ thìa, sơn dương, đồi mồi là thế mạnh cho việc bảo vệ đa dạng sinh học, phát triển du lịch sinh thái và ngành chăn nuôi động vật đặc sản. Các loài thủy sinh cũng thống kê được 227 loài thực vật nổi, 125 loài động vật nổi, 143 loài rong biển, 440 loài động vật đáy vùng triều, 258 loài cá [2].

2.1.2. Dân cư và lao động

Vùng ven biển chiếm 40,9% diện tích của toàn vùng ĐBSH nhưng dân số chỉ bằng 33,4%, và như vậy có mật độ dân số thấp hơn so với trung bình toàn vùng. Điều này liên quan đến các đặc điểm về tự nhiên và kinh tế vùng ven biển. Về mặt tự nhiên, khu vực phía Nam của vùng, phần tiếp giáp với Bắc Trung Bộ, ngoài đồng bằng còn có một diện tích khá lớn đồi núi (tập trung tại một số huyện, thị của Ninh Bình).

Bảng 1. Diện tích, dân số và mật độ dân số các tỉnh ven biển ĐBSH năm 2015 [1]

Diện tích (km2) Dân số trung bình (Nghìn

người) Mật độ dân số

(Người/km2)

Hải Phòng 1.527,4 1.963,0 1.274,0

Thái Bình 1.570,8 1.789,2 1.139,0

Nam Định 1.653,2 1.850,6 1.116,0

Ninh Bình 1.377,6 994,4 679,0

ĐBSH 14.957,7 19.505,8 1.300

(4)

Về mặt kinh tế, cơ cấu kinh tế của tiểu vùng phía Nam ĐBSH phụ thuộc nhiều vào các hoạt động nông, lâm, ngư nghiệp nên sức thu hút dân cư kém hơn so với phía Bắc vốn là khu vực đang phát triển mạnh các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Chính vì vậy, ngay trong phạm vi vùng ven biển cũng có sự phân hóa giữa khu vực phía Bắc và phía Nam.

Trong khi vùng ĐBSH có tỉ lệ đô thị hóa thấp hơn so với mức trung bình toàn quốc thì ở khu vực ven biển, con số này còn thấp hơn nhiều. Mới chỉ có chưa đến 1/4 số dân vùng ven biển sống ở thành thị. Việc tập trung quá nhiều người dân ở nông thôn trong điều kiện đất chuyên dùng và đất khu dân cư ngày càng được mở rộng khiến cho khu vực nông thôn của vùng cũng có mật độ dân số rất cao, hiện tượng đất chật, người đông biểu hiện rõ rệt.

Dân số đông nên vùng ven biển ĐBSH có lực lượng lao động dồi dào. Tính đến năm 2015, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của các tỉnh ven biển là 4.260.418 người, chiếm 64,58% dân số của khu vực. Đây là một nguồn lực quan trọng, một thuận lợi lớn cho quá trình phát triển kinh tế của vùng. Tuy nhiên, chất lượng lao động vẫn đang là một điểm hạn chế. Mặc dù trong một số lĩnh vực lao động của vùng có chuyên môn khá nhưng nhìn chung còn chưa đáp ứng được nhu cầu của quá trình phát triển trong thời kì hội nhập, khi mà tri thức và trình độ của người lao động mới là nhân tố quan trọng hàng đầu. Hầu hết các nhà đầu tư khi tiếp nhận người lao động mới đều phải qua quá trình đào tạo hoặc đào tạo lại (với cả đối tượng lao động không phức tạp cũng như lao động trình độ cao). Điều này đã làm tăng chi phí và thời gian đối với các công ti, làm giảm sức hấp dẫn đầu tư vào vùng.

2.1.3. Sự phát triển kinh tế

Bảng 2. Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế các tỉnh ven biển ĐBSH năm 2015

Chỉ tiêu Hải Phòng Thái Bình Nam Định Ninh Bình Cả nước

Tổng GRDP (tỉ đồng) 88.468,3 41.587 34.984,5 25.759,5 4.192.862

Tốc độ tăng trưởng (%) 10,24 8,75 6,42 9,13 6,68

GRDP bình quân đầu người

(triệu đồng/người) 64,57 29,46 34,94 34,77 45,7

Cơ cấu kinh tế (%)

- Nông, lâm, ngư nghiệp 7,52 35,23 24,0 14,28 17,0

- Công nghiệp – xây dựng 40,92 27,237 41,0 42,68 33,25

- Dịch vụ 51,56 37,54 35,0 43,04 49,75

(Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám thống kê 2015 của các tỉnh ven biển) Trong những năm qua, kinh tế của vùng ven biển ĐBSH đã có những chuyển biến tích cực.

Quy mô kinh tế vùng ven biển phát triển theo chiều hướng tích cực và đã có sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đóng góp lớn vào xuất khẩu, thu ngoại tệ. Kết cấu hạ tầng vùng ven biển được cải thiện nhờ đầu tư tương đối đồng bộ; xây dựng được hệ thống các đường dẫn đến các cảng biển, sân bay, khu du lịch, khu kinh tế, khu công nghiệp, khu dân cư.

Trong giai đoạn 2010-2015, kinh tế vùng ven biển đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 7,0%/năm, trong đó ngành nông nghiệp tăng 3,5%/năm, ngành công nghiệp - xây dựng tăng 7,3%/năm và ngành dịch vụ tăng 8,1%/năm [3]. Tuy nhiên, nhìn chung so với khu vực trung tâm đồng bằng, kinh tế của các tỉnh ven biển nhìn chung kém phát triển hơn cả về tổng sản phẩm, tốc độ tăng trưởng cũng như cơ cấu kinh tế.

Cơ cấu kinh tế ven biển ĐBSH vẫn phụ thuộc nhiều vào nông, lâm, ngư nghiệp (trừ Hải Phòng). Đây là đặc điểm nổi bật của vùng, phù hợp với điều kiện tự nhiên cũng như tập quán sản xuất của người dân. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, công nghiệp – xây dựng trong vùng đã

(5)

phát triển tương đối mạnh mẽ. Đến nay, công nghiệp đã trở thành khu vực kinh tế quan trọng nhất trong vùng và tỉ trọng này cũng cao hơn so với mức chung của toàn quốc. Lĩnh vực dịch vụ còn có vị trí khá khiêm tốn trong nền kinh tế toàn vùng và so với cả nước, tỉ trọng của ngành dịch vụ vùng ven biển ĐBSH còn thấp hơn khá nhiều (trừ Hải Phòng là một trung tâm kinh tế, một cảng biển quan trọng của miền Bắc). Quy mô tổng sản phẩm trên địa bàn của các địa phương còn khá nhỏ mặc dù trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng cao hơn mức trung bình toàn quốc.

2.2. Các sinh kế chủ yếu của cộng đồng ven biển Đồng bằng Sông Hồng 2.2.1. Khái quát chung

Sự phát triển kinh tế đã tạo ra nhiều việc làm, giúp cho lao động trong vùng có cơ hội tiếp cận với nhiều loại hình sinh kế. Trong những năm gần đây, lao động đang có quá trình chuyển dịch mạnh từ lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp và xây dựng. Đây là xu hướng đáng mừng của vùng ven biển, tuy nhiên thị trường lao động còn nhiều bất cập, chưa thực sự là cầu nối giữa người lao động và người sử dụng nên cơ cấu lao động còn chưa hợp lí [3]. Việc đào tạo người lao động được chú ý nhiều nhưng nhìn chung còn tỏ ra thiếu hiệu quả khi các ngành nghề đào tạo chưa phù hợp với yêu cầu của thị trường.

Bảng 3. Tỉ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm các tỉnh ven biển ĐBSH năm 2015 [5]

Tên tỉnh Tỉ lệ thất nghiệp (%) Tỉ lệ thiếu việc làm (%)

Hải Phòng 4,37 4,63

Thái Bình 1,98 3,12

Nam Định 1,66 3,54

Ninh Bình 1,17 2,67

ĐBSH 2,82 2,51

Tình trạng thất nghiệp tại đô thị không lớn lắm (trừ Hải Phòng) nhưng thiếu việc làm ở nông thôn là một hiện tượng đáng lo ngại khi tỉ lệ này cao hơn nhiều so với mức chung của ĐBSH.

Điều này có thể được lí giải khi tỉ lệ lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp khá lớn, mà nông nghiệp của vùng lại mang tính chất chuyên canh lúa nước điển hình với tính mùa vụ cao và thời gian nông nhàn kéo dài. Thêm vào đó, diện tích đất canh tác ngày càng giảm khiến lực lượng lao động dư thừa nhiều. Một bộ phận lao động không có khả năng đào tạo hoặc đào tạo lại để bắt kịp với sự thay đổi của thị trường lao động mới (nhất là các lao động từ 30 tuổi trở lên và xuất phát điểm là nghề nông). Vì vậy, trong khi nhiều ngành cần lao động có trình độ không tuyển dụng được số người cần thiết thì tìm kiếm việc làm luôn là thách thức đối với người lao động vùng ven biển ĐBSH. Trong điều kiện vùng ven biển có tỉ lệ đô thị hóa thấp, phần lớn người dân sống ở nông thôn, tỉ lệ thiếu việc làm cao thực sự là một bài toán khó đối với các nhà quản lí và hoạch định chính sách.

2.2.2. Sinh kế nông nghiệp

Mặc dù tỉ trọng của khu vực nông, lâm, thủy sản đang ngày càng giảm trong nền kinh tế và tỉ trọng của ngành nông nghiệp (theo nghĩa hẹp) cũng có xu hướng giảm trong khu vực I, nông nghiệp vẫn là sinh kế quan trọng nhất của cư dân vùng ven biển ĐBSH. ĐBSH là vùng trọng điểm lương thực - thực phẩm thứ hai của cả nước, trong đó có phần đóng góp quan trọng của các tỉnh ven biển, nhất là Nam Định và Thái Bình.

Sự phát triển của nông nghiệp đã thu hút một lực lượng lớn lao động tại khu vực ven biển.

Một nét đặc biệt là ngay tại các thôn, xã giáp biển, tỉ lệ lao động làm nông nghiệp (cả trong trường

(6)

hợp là sinh kế chính hay sinh kế bổ sung) rất lớn.

Bảng 4. Một số tiêu chí ngành nông nghiệp của các tỉnh ven biển năm 2015

Tiêu chí Hải Phòng Thái Bình Nam Định Ninh Bình

Tỉ trọng nông nghiệp trong nông, lâm, ngư

nghiệp (%) 66,08 69,9 76,2 88,9

Cơ cấu nông nghiệp (%)

- Trồng trọt 48,9 52,8 54,4 63,5

- Chăn nuôi 46,0 44,3 42,5 34,1

- Dịch vụ nông nghiệp 5,1 2,9 3,1 2,4

(Nguồn: Niên giám thống kê các tỉnh ven biển năm 2015) Điều này rất khác so với vùng Bắc Trung Bộ hay Duyên hải Nam Trung Bộ và được quy định bởi điều kiện tự nhiên. Ở khu vực ven biển ĐBSH, do đường bờ biển bị lõm vào, lại có nhiều sông và các cửa sông nên rất dễ được cải tạo thành các đồng ruộng cấy lúa. Tâm lí “dĩ nông vi bản”

vẫn là một tâm lí phổ biến của người dân địa phương nên dù có đường bờ biển dài nhưng người dân ở đây vẫn giữ truyền thống sản xuất nông nghiệp. Hầu như địa phương nào người dân cũng được chia ruộng (trừ một vài thôn xã đặc thù do biển lở và đất mặn quá nhiều không thể trồng cấy được) và phần lớn diện tích này vẫn được dành để canh tác lúa.

Một khó khăn đối với người dân khu vực ven biển ĐBSH trong phát triển sinh kế nông nghiệp là hiện tượng thiếu đất canh tác. Trong khi mỗi ha đất canh tác nông nghiệp của cả nước có 2,7 lao động và phải nuôi 6,4 người thì ở vùng này con số tương ứng là 6,2 lao động và 15,7 người. Trung bình mỗi ha ruộng canh tác lúa cả nước có 6 lao động thì ở vùng này là 9 người. Đặc biệt ở các vùng thuần nông và độc canh lúa nước, mỗi lao động nông nghiệp chỉ có một mảnh đất khoảng 111m2 nên việc phát triển sản xuất gặp nhiều trở ngại, nhất là quá trình chuyển đổi sản xuất quy mô lớn [6].

Biểu 2. Giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân hộ ở các tỉnh ven biển

(Nguồn: Tính toán từ Kết quả khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2012) Tại Nam Định và Ninh Bình, các hộ đã tích cực thay đổi cơ cấu vật nuôi, cây trồng nên hiệu quả sản xuất cao. Đồng thời trong những năm gần đây, xu hướng thay đổi quy mô và phương thức sản xuất theo hướng “dồn điền đổi thửa”, tiến lên sản xuất quy mô lớn đã giúp người dân tiết kiệm chi phí đầu vào, đồng thời áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật để nâng cao năng suất. Trong khi đó, phần đầu tư cho sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân tại khu vực phía Bắc tương đối hạn chế nên tốc độ tăng giá trị bình quân tương đối chậm.

(7)

2.2.3. Sinh kế thủy sản

Đây là loại hình sinh kế đặc trưng cho khu vực ven biển. Dựa trên những thế mạnh do thiên nhiên mang lại, ngành thủy sản ở khu vực ven biển đã phát triển và đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận.

Có thể nói, trong những năm gần đây sản lượng cũng như giá trị sản xuất của ngành thủy sản các tỉnh đều đạt mức tăng trưởng khá. Nhưng nghề cá của các tỉnh này vẫn mang đặc trưng của nghề cá quy mô nhỏ:

Bảng 5. Các tiêu chí ngành thủy sản ven biển ĐBSH năm 2015

Tiêu chí Hải Phòng Thái Bình Nam Định Ninh Bình

Giá trị sản xuất (tỉ đồng) 6.123,5 5.315,9 5.240,0 1.041

Cơ cấu ngành (%)

- Đánh bắt 36,0 28,2 38,5 8,1

- Nuôi trồng 60,7 68,9 59,4 89,9

- Dịch vụ 3,3 2.9 2.1 2,0

Diện tích nuôi trồng (ha)

- Nước ngọt 5.659,0 8.526 9.408 7.953

- Nước mặn, lợ 6.606,2 6.766 6.451 3.024

Sản lượng nuôi trồng (nghìn tấn) 51,7 107,0 66,4 32,7

Số tàu thuyền (chiếc) 3.375 1.169 1.964 580

Tổng công suất (CV) 146.736 78.264 97.198

Sản lượng đánh bắt (nghìn tấn) 55 58,6 44,5 5,67

(Nguồn: Niên giám thống kê các tỉnh ven biển năm 2015)

Biểu 3. Giá trị sản xuất thủy sản bình quân hộ các tỉnh ven biển ĐBSH

(Nguồn: Tính toán từ Kết quả khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2012) Nuôi trồng thủy sản tập trung chủ yếu ở nhóm thủy sản truyền thống, nhóm đặc sản chiếm tỉ trọng thấp; phần lớn các tàu thuyền có công suất nhỏ, đánh bắt ven bờ. Nhìn chung ngành thủy sản của khu vực chưa phát triển tương xứng với tiềm năng vốn có.

Người dân ven biển chưa thực sự có tâm lí “hướng biển”. Sự hạn chế về nguồn vốn đầu tư khiến ngư dân không thể trang bị các tàu thuyền có công suất lớn có thể vươn khơi và do đó bị giới hạn trong vùng lộng vốn không mấy giàu có về nguồn lợi hải sản. Điều kiện sản xuất khó khăn cũng không cho phép họ tiếp cận với những loại thủy hải sản có giá trị cao trong nuôi trồng. Và điều đó đã ảnh hưởng đến thu nhập của họ.

(8)

2.2.4. Nghề thủ công

Trong điều kiện sản xuất nông nghiệp lúa nước và đánh bắt thủy sản có tính mùa vụ cao, với thời gian nông nhàn nhiều, không mấy ngạc nhiên khi cư dân vùng ven biển ĐBSH lựa chọn các nghề thủ công như là một chiến lược sinh kế bổ sung cho gia đình. Dưới sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, số lượng các làng nghề ngày càng tăng.

Biểu 4. Số lượng các làng nghề ở ĐBSH

(Nguồn: Báo cáo của Sở công thương các tỉnh năm 2014)

Các tỉnh ven biển có thế mạnh về các ngành chế biến lương thực - thực phẩm, đan lát (phục vụ cho việc đánh bắt và chế biến các sản phẩm từ đay, cói. . . ) và thủ công mỹ nghệ [8]. Các nghề thủ công đã giúp người dân vùng ven biển tạo thêm việc làm và cải thiện thu nhập. Tại các làng nghề, số hộ, lao động tham gia vào hoạt động sản xuất nghề tiếp tục được duy trì, đạt 57-58%/làng.

Thu nhập của người lao động ổn định với mức thu nhập bình quân 1,5 - 4,2 triệu đồng/người/tháng tùy từng ngành nghề và địa phương. Trong phong trào xây dựng nông thôn mới, làng nghề được chú ý phát triển như là một trong những nhiệm vụ quan trọng giúp tạo thêm việc làm, cải thiện thu nhập và giảm nghèo tại các địa phương, Tuy nhiên, một số làng nghề, nhất là các làng nghề thủ công truyền thống đang đứng trước nguy cơ mai một do những điều kiện khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Đây không chỉ là khó khăn của riêng vùng ven biển ĐBSH mà cũng là vấn đề bức thiết của các vùng khác trong việc đa dạng hóa sinh kế cho người dân vùng ven biển.

2.2.5. Công nghiệp

Đối với người dân vùng ven biển ĐBSH, công nghiệp cũng là một sinh kế quan trọng.

Ngành công nghiệp của vùng có lịch sử phát triển lâu đời và là ngành chiếm tỉ trọng cao nhất trong cơ cấu nhiều tỉnh ven biển. Cho đến nay, dù không còn giữ được vị trí và sự phát triển như trước, nhưng vùng ven biển ĐBSH vẫn có nền công nghiệp khá với thế mạnh là các ngành luyện cán thép, đóng tàu, sản xuất xi măng, hóa chất, da giày và dệt may... Hàng loạt các khu, cụm công nghiệp công nghệ cao đã và đang hình thành góp phần tạo thêm nhiều việc làm cho người dân địa phương và các tỉnh lân cận. Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, công nghiệp nặng của vùng đang có xu hướng phát triển dựa trên thế mạnh tự nhiên, nhất là ở vùng phía Nam. Với những thế mạnh ấy, giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hộ của vùng cao hơn hẳn so với thủy sản hay nông nghiệp.

Tuy nhiên, cho đến nay, hầu hết các lao động vẫn tập trung ở các lĩnh vực sản xuất có tiền lương thấp như lắp ráp máy móc, dệt may, da giày. . . Vì vậy, việc chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp cũng vẫn là vấn đề cần quan tâm trong vùng hiện nay.

(9)

Biểu 5. Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hộ các tỉnh ven biển ĐBSH

(Nguồn: Tính toán từ Kết quả khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2012)

2.2.6. Dịch vụ và du lịch

Thế mạnh của du lịch vùng ven biển ĐBSH là hướng kết hợp du lịch biển với du lịch sinh thái (tại một số vườn quốc gia như Cát Bà, Xuân Thủy) hay với du lịch văn hóa, du lịch tâm linh (như tại Nam Định, Ninh Bình). Đặc biệt trong vài năm trở lại đây, việc khai thác một số điểm du lịch mới ở phía Nam đã giúp cho vùng thu hút được khá nhiều khách du lịch với tốc độ tăng trưởng khá nhanh, đem lại nguồn thu lớn cho các địa phương và tạo được nhiều việc làm cho các lao động (cả trực tiếp và gián tiếp).

Bảng 6. Lượng khách và doanh thu du lịch các tỉnh ven biển ĐBSH năm 2015

Tiêu chí Hải Phòng Thái Bình Nam Định Ninh Bình

Tổng lượng khách (người) 4.839.000 806.800 1.835.000 5.933.000

- Khách quốc tế 696.700 48.300 58.000 600.000

- Khách nội địa 4.142.300 758.500 1.827.000 5.393.000

Doanh thu (triệu đồng) 2.218.084 105.300 560.000 1.421.000

- Cơ sở lưu trú 2.087.682 95.600 291.557 195.773

- Cơ sở lữ hành 130.402 9.700 13.828

Lao động du lịch 18.600 6.000 11.000 20.000

(Nguồn: Niên giám thống kê các tỉnh năm 2015) Du lịch phát triển đã giúp cho hơn 55.000 lao động trong vùng có việc làm với mức thu nhập khá. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất đối với vùng là tính mùa vụ khá rõ, trong năm hoạt động du lịch chỉ tập trung vào khoảng 3-4 tháng mùa hè. Điều này đòi hỏi phải đa dạng hóa các sản phẩm du lịch để gia tăng thời gian khai thác các điểm du lịch.

Các ngành dịch vụ khác như giao thông vận tải, thương mại. . . ngày càng phát triển, một mặt góp phần phục vụ cho sản xuất và cải thiện điều kiện sống của người dân, mặt khác tạo thêm nhiều việc làm cho người dân địa phương với mức thu nhập khá cao và ổn định.

2.3. Tác động của phát triển sinh kế đến giảm nghèo vùng ven biển ĐBSH Trong những năm qua, cùng với việc phát triển sinh kế của người dân, thu nhập bình quân của hầu hết các hộ gia đình trong vùng ĐBSH cũng được nâng lên và cải thiện rõ nét. Thu nhập bình quân của người dân ĐBSH luôn cao hơn so với mức trung bình toàn quốc và chỉ sau Đông Nam Bộ. Vùng cũng có tốc độ tăng thu nhập cao nhất so với các vùng khác (năm 2014 thu nhập gấp 4,9 lần năm 2006, còn mức trung bình cả nước là 4,1 lần và Đông Nam Bộ là 3,6 lần).

(10)

Bảng 7. Thu nhập bình quân đầu người một tháng của ĐBSH và một số vùng (Nghìn đồng)

Tên vùng 2006 2008 2010 2012 2014

Cả nước 636 995 1387 2000 2640

Đồng bằng sông Hồng 666 1065 1580 2351 3278

Đông Nam Bộ 1146 1773 2304 3173 4124

Đồng bằng sông Cửu Long 628 940 1247 1797 2326

(Nguồn: Kết quả khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2014) Cùng với sự gia tăng của thu nhập, chi tiêu cho đời sống của người dân vùng ĐBSH cũng có xu hướng tăng lên nhanh. Nếu như năm 2006, tổng chi tiêu bình quân ở vùng ĐBSH là 418.000 đồng/người/tháng thì đến năm 2014 tăng lên là 2.089.000 đồng. Mức sống của người dân vùng ven biển ngày càng được cải thiện, việc hưởng thụ các thành tựu về kinh tế, văn hóa, xã hội được nâng cao.

Do thu nhập bình quân đầu người tăng khá, đời sống các tầng lớp dân cư, đặc biệt tầng lớp nghèo tiếp tục được cải thiện nên số hộ gia đình nghèo liên tục giảm. Tính theo chuẩn nghèo của Chính phủ giai đoạn 2006-2010 thì tỉ lệ hộ nghèo ở vùng ĐBSH năm 2004 là 12,9%; năm 2006 là 10,1%; năm 2008 là 8,7% và năm 2010 là 6,5% (cả nước là 15,5%; 13,4% và 10,7%). Tính theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015 được cập nhật theo chỉ số giá tiêu dùng thì tỉ lệ hộ nghèo ở vùng ĐBSH năm 2010 là 8,4%, năm 2012 là 6,0% và năm 2014 là 4,0% (cả nước là 14,2%, 11,1% và 8,4%) [4]. So sánh với các vùng khác trong cả nước thì thấy vùng ĐBSH có tỉ lệ hộ nghèo thấp, chỉ đứng sau vùng Đông Nam Bộ.

Bảng 8. Tỉ lệ nghèo của các tỉnh ven biển ĐBSH (%)

Tỉnh 2010 2011 2012 2013 2014 2015

Hải Phòng 6,5 5,7 5,1 4,5 3,8 2,9

Thái Bình 9,16 9,3 8,0 6,9 6,0 5,9

Nam Định 9,95 8,30 6,72 5,33 3,77 2,27

Ninh Bình 12,4 10,7 9,4 8,72 8,00 6,5

Đồng bằng Sông Hồng 8,3 7,1 6,0 4,9 4,0 3,2

Cả nước 14,2 12,5 11,1 9,8 8,4 7,0

(Nguồn: Niên giám thống kê các tỉnh và cả nước năm 2015) Đến năm 2013, tỉ lệ nghèo của hầu hết các tỉnh ven biển đều cao hơn so với mức chung của ĐBSH. Tuy nhiên, từ năm 2014, các tỉnh ven biển đã có những thành công quan trọng trong công tác giảm nghèo, nên tỉ lệ nghèo của một số tỉnh đã thấp hơn trung bình toàn vùng. Tuy nhiên, sự phát triển sinh kế nói chung và giảm nghèo nói riêng còn nhiều hạn chế do chưa có tính chất đặc thù mà vẫn chịu sự điều chỉnh chung của cả nước. Đặc biệt việc các sinh kế nông ngư nghiệp vẫn tiếp tục duy trì ở nhiều hộ gia đình thực sự là trở ngại đối với các địa phương trong giảm nghèo khi các sinh kế này tỏ rõ tính hiệu quả và tính bền vững chưa cao. Trong điều kiện nguồn tài nguyên, môi trường tự nhiên cũng như kinh tế - xã hội biến đổi liên tục như hiện nay, sinh kế của những người nghèo bị tổn thương rõ rệt. Trong khi đó, một số chương trình, dự án được triển khai mới chỉ mang tính chất giải quyết tình thế mà chưa mang tính bền vững, lâu dài. Cá biệt, xuất hiện tình trạng người dân trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ trực tiếp của nhà nước, không muốn "tự thân vận động" để cải thiện chất lượng cuộc sống. Điều này đòi hỏi chính quyền địa phương của các tỉnh cần nỗ lực hơn nữa trong việc hạn chế các điểm yếu, phát huy các thế mạnh tại chỗ để phối hợp cùng với người dân trong đẩy mạnh tốc độ giảm nghèo và giảm nghèo bền vững.

(11)

3. Kết luận

Những sinh kế của người dân ven biển ĐBSH đã có những bước phát triển trong những năm gần đây nhờ vào các thế mạnh của tự nhiên và nhưng nỗ lực của dân cư các tỉnh. Trong các nhóm sinh kế đó, những loại hình liên quan đến các tài nguyên biển và ven biển vẫn được phát triển và được nhiều hộ gia đình lựa chọn dù hiệu quả còn nhiều hạn chế. Điều đó gây trở ngại cho quá trình giảm nghèo cho các địa phương hiện nay dù thành quả đạt được là tương đối đáng ghi nhận. Thực tế ấy đặt ra yêu cầu cần có những nghiên cứu cụ thể hơn để tìm ra các giải pháp phát triển sinh kế bền vững lấy người nghèo làm trung tâm nhằm giảm nghèo có hiệu quả

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Tổng cục thống kê Việt Nam, 2016.Niên giám thống kê Việt Nam 2015.

[2] Phạm Hoàng Hải, 2009.Xây dựng cơ sở khoa học kĩ thuật cho việc đinh hướng phát triển bền vững các khu công nghiệp, khai thác hợp lí và toàn diện tài nguyên phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội vùng trọng điểm dải ven bờ Tây vịnh Bắc Bộ. Báo cáo nhánh đề tài khoa học công nghệ Nhà nước “Lập luận chứng khoa học kĩ thuật về mô hình quản lí tổng hợp và phát triển bền vững dải bờ Tây vịnh Bắc Bộ”.

[3] Phan Ngọc Mai Phương, 2014.Phát triển kinh tế ven biển ở đồng bằng Bắc Bộ theo tinh thần chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Tạp chí Thông tin đối ngoại, số 124, tháng 07/2014.

[4] Vũ Thanh Hòa, 2015.Tăng trưởng kinh tế gắn với giảm nghèo bền vững ở vùng đồng bằng sông Hồng Việt Nam. Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.

[5] Tổng cục thống kê Việt Nam, 2016.Báo cáo điều tra lao động và việc làm năm 2015.

[6] Bộ kế hoạch và đầu tư, 2012.Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng Sông Hồng đến năm 2020. Hà Nội, tháng 4/2012.

[7] Vũ Thị Hoài Thu, 2012. Sinh kế bền vững vùng ven biển Đồng bằng Sông Hồng trong bối cảnh biến đổi khí hậu: nghiên cứu điển hình tại tỉnh Nam Định. Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.

[8] Lưu Thị Tuyết Vân, 2011.Nghề truyền thống vùng nông thôn Đồng bằng Sông Hồng trong thời kì nền kinh tế Việt Nam chuyển đổi. Viện Sử học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.

ABSTRACT

Livelihood development and its impact on poverty reduction of coastal communities in red river delta

Trần Thị Hồng Nhung Faculty of Vietnamese Studies, Hanoi National University of Education Red River Delta’s economy has relatively developed in recent years thank to the advantages of the industrial and service sectors. However, the divergence among localities is remarkable because of the difference in development conditions. Red River Delta’s coastal areas, due to the advantages of natural resources and population, have grown agriculture and fisheries beside the non-agricultural sectors. These trades have a strong impact on people’s livelihood development.

And so far, people’s livelihoods in coastal areas are highly dependent on agricultural and fishing activities. This status has limited the achievements of poverty reduction in communities. Based on the analysis of natural, economic and population strengths, this article focuses on defining the development status of main livelihoods in Red River Delta’s coastal areas and its impact on poverty reduction.

Keywords:Coastal communities, livelihoods, poverty reduction.

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

- Dân cư phân bố không đồng đều giữa các quốc gia và khu vực do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội khác nhau.. Các đô thị lớn ở châu Á thường tập

- Học sinh nắm được vùng biển Việt Nam là một bộ phận của Biển Đông và các đặc điểm, vai trò của vùng biển nước ta.. - Chỉ được một số điểm du lịch, nghỉ mát ven

Chim cánh cụt, hải cẩu, hải báo và các loài chim biển sống ở ven lục địa và trên các đảo dựa vào nguồn tôm, cá và phù du sinh vật dồi dào trong các biển bao quanh..

Chim cánh cụt, hải cẩu, hải báo và các loài chim biển sống ở ven lục địa và trên các đảo, dựa vào nguồn tôm, cá và phù du sinh vật dồi dào trong các biển bao quanh..

Chim cánh cụt, hải cẩu, hải báo và các loài chim biển sống ở ven lục địa và trên các đảo, dựa vào nguồn tôm, cá và phù du sinh vật dồi dào trong các biển bao quanh?.

Phần lớn dân cư là người da vàng, họ sống tập trung đông đúc tại các vùng đồng bằng châu thổ và sản xuất nông nghiệp là chính... …..Ở vùng biển, người dân còn đánh

Dân cư đang chuyển từ phía nam Hồ Lớn và Đông Bắc ven Đại Tây Dương tới các vùng công nghiệp mới năng động hơn ở.. phía nam và duyên hải ven

Các khu đô thị mới và khu tái định cư này đã tiếp nhận một lượng lớn dân cư từ vùng trung tâm ra, từ các tỉnh và thành phố khác đến làm cho dân số quận ven và quận nội thành mới tăng