• Không có kết quả nào được tìm thấy

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG THẨM ĐỊNH NĂNG LỰC TÀI CHÍNH DOANH

3.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THẨM ĐỊNH NĂNG LỰC TÀI CHÍNH

3.3.2. Những hạn chế

khái quát và cụ thể tình hình tài chính của doanh nghiệp, xu hướng biến đông của doanh nghiệp trong tương lai từ đó ra quyết định cho vay phù hợp, đảm bảo an toàn, hiệu quả vay vốn.

Trong quá trình thẩm định NLTC DNNVV, CVTĐ còn có thể sử dụng nguyên tắc trọng yếu, tức là CVTĐ có thể phân tích kỹ đối với các khoản mục, các chỉ tiêu có ảnh hưởng chủ yếu đến tình hình tài chính của doanh nghiệp.

Mặt khác, trong quá trình thẩm định, CVTĐ còn sử dụng kết hợp với các phương pháp phân tích khác, như phương pháp cân đối để có thể đánh giá chính xác hơn.

Thứ hai, áp dụng công nghệ thông tin trong thẩm định NLTC doanh nghiệp Trong quá trình thẩm định, các chi nhánh và hội sở đã áp dụng những thành tựu công nghệ tin học góp phần nâng cao chất lượng thẩm định tài chính doanh nghiệp. Công nghệ thông tin một mặt giúp cho công việc tìm kiếm và kiểm tra thông tin được chính xác, một mặt có thể áp dụng trong quá trình tính toán, thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp giúp cho quá trình phân tích được rút ngắn về mặt thời gian và nâng cao tính chính xác của các chỉ tiêu.

nhiệm, đội ngũ điều hành, thì hệ thống thông tin nội bộ của MB còn chưa cập nhật.

Trong trường hợp của CTCP Lilama 3.3, MB mới chỉ có được thông tin thông qua việc doanh nghiệp cung cấp mà chưa chú ý đến các nguồn thông tin khác. Theo ý kiến của các chuyên viên thẩm định, khi CTCP Lilama 3.3 bắt đầu có giao dịch với ngân hàng, ngân hàng đã thu thập các thông tin từ những nguồn khác nhau. Tuy nhiên những lần thẩm định tiếp theo, ngân hàng không đặt nặng vấn đề thu thập thông tin từ nhiều nguồn mà chỉ yêu cầu doanh nghiệp gửi các thông tin cần thiết.

Tuy vậy, nguồn thông tin do chính doanh nghiệp cung cấp chưa chắc đã khách quan và phản ánh đầy đủ NLTC. Chính vì vậy, có thể nói MB chưa khai thác hiệu quả nguồn thông tin cả bên ngoài doanh nghiệp vay vốn cũng như nguồn bên trong doanh nghiệp. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến chất lượng thẩm định NLTC DNNVV chưa cao thời gian qua.

b. Hạn chế về chỉ tiêu thẩm định

Tính trung thực, chính xác, khách quan của số liệu, chỉ tiêu thẩm định còn chưa đảm bảo.

Số liệu thẩm định mặc dù được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau bên trong lẫn bên ngoài doanh nghiệp nhưng chủ yếu CVTĐ vẫn sử dụng chủ yếu là từ hồ sơ mà KH cung cấp. Các chỉ tiêu tài chính cũng được tính toán chủ yếu dựa vào số liệu trên BCTC của doanh nghiệp. Tuy nhiên, các số liệu do kế toán cung cấp này lại có nhược điểm. Đó là, số liệu trên BCTC có tính lịch sử, hơn nữa lại chịu ảnh hưởng lớn bởi phương pháp hạch toán. Do vậy, tính khách quan, trung thực, chính xác của các số liệu này bị giảm, các số liệu này mang tính thời điểm nhiều hơn là phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Hơn nữa, số liệu chủ yếu do doanh nghiệp cung cấp, do vậy độ tin cậy chưa cao. Thông thường số liệu doanh nghiệp cung cấp chưa qua kiểm toán cũng như quyết toán thuế, nếu có được kiểm toán thì cũng chủ yếu là các công ty kiểm toán nhỏ chưa có thương hiệu trong ngành, vì vậy thực trạng tình hình tài chính và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhiều khi chưa được đánh giá chính xác (như không tính đúng, tính đủ các khoản chi phí…). Các chỉ tiêu đưa ra tính không xác

thực nên vẫn còn tình trạng trên báo cáo kết quả kinh doanh là lãi nhưng thực chất doanh nghiệp bị thua lỗ.

Nội dung chỉ tiêu phân tích còn hạn chế.

Mặc dù nội dung phân tích mà Ngân hàng đưa ra là khá toàn diện nhưng các khía cạnh được đề cập chưa đầy đủ nên các chỉ tiêu phân tích cũng không đầy đủ, việc thẩm định các chỉ tiêu tài chính chưa thực sự đầy đủ và chi tiết, chưa bao quát toàn diện tình hình tài chính của doanh nghiệp.

- Trong các chỉ tiêu phân tích quy mô và cơ cấu của vốn, nguồn vốn chưa có các chỉ tiêu tỷ lệ giúp người phân tích so sánh một bộ phận của tài sản với một bộ phận có liên quan của nguồn vốn hoặc ngược lại; trong khi nội dung phân tích này là cần thiết. Việc quản lý nguồn vốn cũng như quản lý và sử dụng tài sản luôn có quan hệ chặt chẽ, ràng buộc lẫn nhau. Do đó, cần thiết phải có những chỉ tiêu phân tích vấn đề này.

- Các chỉ tiêu nhiều khi còn mâu thuẫn và chồng chéo, một số chỉ tiêu kết quả đánh giá lại mâu thuẫn với nhau. Ví dụ, chỉ tiêu hệ số tự tài trợ, hệ số đòn bẩy tài chính và ROE. Ngân hàng mong muốn có hệ số tự tài trợ cao để đảm bảo an toàn vốn vay nhưng điều này cũng đồng nghĩa với ROE thấp do doanh nghiệp không tận dụng ưu thế của đòn bẩy tài chính.

- Tính dự báo của hệ thống chỉ tiêu đang được sử dụng chưa cao, các chỉ tiêu thể hiện các mối quan hệ giữa các nội dung phân tích còn thiếu, đặc biệt là mối quan hệ thể hiện khả năng thanh toán của doanh nghiệp.

- Việc phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp còn chưa được đề cập tới trong khi đó đây lại là tài liệu vô cùng quan trọng để CVTĐ xem xét khả năng trả nợ tiền vay của doanh nghiệp.

- Ngân hàng còn chưa quan tâm đến việc phân tích vốn lưu động ròng, nhu cầu vốn lưu động và việc phân tích các chỉ tiêu tài chính trong một số trường hợp còn chưa đầy đủ. Cán bộ thẩm định mới chỉ tập trung phân tích các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và khả năng hoạt động của doanh nghiệp mà thiếu quan tâm đầy đủ đén nhóm hệ số phản ánh cơ cấu nợ và tỷ suất tự tài trợ.

Đặc biệt là ngân hàng chưa đánh giá được khả năng cạnh tranh cũng như mức độ rủi

ro trong hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường. Do đó, trong quá trình phân tích tài chính doanh nghiệp, CVTĐ chưa thấy hết được NLTC cũng như những rủi ro tài chính tiềm tàng của doanh nghiệp. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất cân xứng trong hoạt động tín dụng thời gian qua.

• Chưa có căn cứ khoa học để so sánh từng chỉ tiêu định tính

Với loại hình DNNVV, ngân hàng đều lấy một mức nhất định làm cơ sở, căn cứ cho việc đánh giá tài chính là tốt hay không tốt. Ví dụ, với hệ số thanh toán ngắn hạn thì tiêu chuẩn đánh giá tình hình tài chính của ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản tốt là lớn hơn 1,6; hệ số thanh toán nhanh là lớn hơn hoặc bằng 1; hệ số thanh toán tức thời là lớn hơn hoặc bằng 0,6. Đây được coi là tiêu chuẩn chung để đánh giá tình hình tài chính cho tất cả các DNNVV, trong khi đó trong nhóm các DNNVV thì lại được chia thành doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ. Thêm vào đó, CVTĐ mới chỉ so sánh từng chỉ tiêu của tất cả DNNVV vay vốn tại MB với chỉ số trung bình tất cả các DNNVV trong nền kinh tế mà không có sự so sánh theo ngành.

Hạn chế này trong nhiều trường hợp dẫn đến đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp sai lầm bởi các loại hình doanh nghiệp khác nhau có quy mô hoạt động khác nhau và kết quả xếp hạng cũng khác nhau. Ngoài ra, mặc dù CVTĐ đánh giá tương đối đầy đủ về các nội dung phản ánh NLTC của doanh nghiệp nhưng những đánh giá đó mới chỉ nêu lên được xu hướng biến động của các chỉ tiêu tài chính qua các thời điểm nhất định và tính trung bình tất cả các DNNVV là KH vay vốn tại MB so sánh với các DNNVV trong nền kinh tế nói chung mà chưa có sự so sánh với doanh nghiệp hoạt động trong cùng lĩnh vực. Điều này khiến CVTĐ không thấy được tình hình tài chính của các doanh nghiệp vay vốn trong mối tương quan với những doanh nghiệp cùng loại cùng ngành, do đó kết quả đạt được qua việc đánh giá sẽ không thể hiện rõ sức mạnh tài chính của doanh nghiệp so với những doanh nghiệp khác trong nền kinh tế.

c. Hạn chế về phương pháp thẩm định

Về phương pháp lấy số liệu: Chưa có hệ thống thông tin chính xác, cập nhật;

chưa áp dụng phương pháp nội suy, ngoại suy để xử lý thông tin; chưa áp dụng phương pháp mô hình toán trong đó sử dụng dữ liệu trong một chuỗi thời gian dài

để suy đoán khả năng, xu hướng phát triển của doanh nghiệp. Việc tiếp cận thông tin chính xác về tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của khối DNNVV là việc khó khăn vì hầu hết các doanh nghiệp đi vay vốn tại ngân hàng đều đưa ra một bản hồ sơ vay vốn hoàn hảo. Mặt khác, rất nhiều các DNNVV ở Việt Nam hiện nay không tuân thủ nghiêm chế độ BCTC.

Về phương pháp phân tích: Phương pháp phân tích còn nhiều hạn chế, hầu hết mới chỉ dừng ở mức độ so sánh các chỉ tiêu đã thực hiện so với các chỉ tiêu quá khứ và dự kiến mà chưa kết hợp sử dụng các phương pháp khác như: phương pháp phân tích nhân tố ảnh hưởng, phương pháp Dupont… để thấy được mối liên hệ phổ biến, khách quan mang tính quy luật của các nhân tố, xu hướng vận động và sự phát triển của chúng trong tương lai, do đó kết quả và tác dụng của công tác thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp trong cho vay mới chỉ đạt ở mức độ khiêm tốn. Các chỉ tiêu phân tích sẽ có ý nghĩa hơn nếu so sánh doanh nghiệp với số trung bình ngành hay các doanh nghiệp tương tự trong ngành.

Tuy nhiên, MB lại chưa có số liệu về định mức, trung bình ngành đầy đủ để làm căn cứ so sánh số liệu tài chính của các doanh nghiệp trong một ngành hay giữa các ngành với nhau.Để đánh giá giá trị hợp lý của các chỉ tiêu phân tích đối với các ngành nghề khác nhau, hiện nay CVTĐ chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Hơn nữa, nhiều DNNVV kinh doanh đa nghề khiến ngân hàng khó lựa chọn chỉ tiêu trung bình ngành để so sánh hay lựa chọn doanh nghiệp kinh doanh tương tự.

3.3.3. Nguyên nhân

3.3.3.1. Nguyên nhân chủ quan

Nguồn thông tin sử dụng trong thẩm định NLTC DNNVV chưa chính xác và có tin cậy cao

Như chúng ta đã biết, khâu đầu tiên và quan trọng nhất ảnh hưởng đến thẩm định NLTC DNNVV là thu thập thông tin, số liệu. Tại MB, các cán bộ thẩm định chưa thực sự chủ động trong việc tìm kiếm khai thác nguồn thông tin, hầu hết nguồn thông tin sử dụng để thẩm định chủ yếu là do chủ doanh nghiệp cung cấp từ các tài liệu của doanh nghiệp hoặc do các chi nhánh cấp dưới đưa lên cho Hội sở chính tái thẩm định. Hơn nữa, việc khai thác thông tin từ các nguồn có độ tin cậy

cao hơn như thông tin từ những đơn vị chuyên quản, từ tổng công ty, hiệp hội hay những viện nghiên cứu thì còn hạn chế. Đối với thông tin do chủ doanh nghiệp cung cấp, trong nhiều trường hợp Ngân hàng thiếu các thông tin để đối chiếu và so sánh nên chấp nhận sử dụng mà không đánh giá mức độ chính xác và tin cậy của thông tin. Đối với thông tin do chi nhánh cung cấp, do trình độ của các cán bộ thẩm định tại chi nhánh không đồng đều nên độ chính xác của các thông tin này nhiều khi không cao. Trong khi đó, các cán bộ thẩm định của Ngân hàng Quân đội không phải lúc nào cũng có điều kiện để thẩm định trực tiếp mức độ tin cậy của các thông tin đó. Bên cạnh nguồn thông tin do chi nhánh cung cấp, tại Ngân hàng Quân đội còn có thông tin từ các báo cáo phân tích đánh giá của một số ngành kinh tế và một số doanh nghiệp do chính Ngân hàng thực hiện. Tuy nhiên, do những hạn chế nhất định về kiến thức chuyên môn và các ngành kỹ thuật và do tình trạng che dấu thông tin của các doanh nghiệp, thêm vào đó Ngân hàng Quân đội không phải là cơ quan thống kê kinh tế, không thể thu thập được các thông tin của tất cả các doanh nghiệp trong tất cả các ngành nên nguồn thông tin này cũng chưa mang tính đại diện cho ngành. Hiện nay, có một số cơ quan cung cấp thông tin mang tính chất chuyên nghiệp như Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN, tổng cục thống kê, … Tuy nhiên, thông tin do các cơ quan này cung cấp thường không cập nhật và thông tin về các ngành kinh tế hầu như lại không có. Ngoài ra, một số nguồn thông tin khác như từ báo chí, tạp chí, internet… cũng được khai thác nhưng chỉ mang tính chất tham khảo và độ tin cậy không cao

❖ Việc thẩm định NLTC DNNVV định kỳ còn chưa được quan tâm đúng mức.

Hiện nay, MB chủ yếu mới chỉ thẩm định tài chính doanh nghiệp khi doanh nghiệp đặt vấn đề quan hệ tín dụng với ngân hàng, với các trường hợp rà soát tín dụng định kỳ hoặc phân tích tài chính để tìm kiếm, lựa chọn KH tiềm năng, cơ cấu lại danh mục tín dụng còn mang tính chất hình thức, chưa thực sự hiệu quả.

❖ Chất lượng tín dụng đối với nhóm khách hàng DNNVV tuy đã có nhiều cải thiện nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro.

Nguyên nhân của hạn chế này là do nợ quá hạn được xử lý từ nguồn trích lập dự phòng rủi ro quá lớn, số nợ quá hạn được thu hồi không nhiều và vẫn còn nợ quá

hạn phát sinh mới. Trong những năm qua, MB đã có nhiều nỗ lực tái cơ cấu làm mạnh hóa bảng tổng kết tài sản và tăng cường sức mạnh tài chính thông qua việc tập trung xử lý nợ xấu, nâng vốn chủ sở hữu và tập trung trích lập dự phòng rủi ro đầy đủ theo quy định. Tuy số nợ được xử lý đưa ra theo dõi ngoại bảng khá nhiều nhưng số nợ được thu hồi từ nhóm này còn thấp đã ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.

❖ Công tác tổ chức thẩm định tuy đã được quan tâm đổi mới nhưng chưa đồng bộ.

Quy trình thẩm định đã được MB quan tâm đổi mới nhưng ở một số chi nhánh chưa thể áp dụng được do chất lượng cán bộ thẩm định chưa đáp ứng được quy trình mới. Ngoài ra, việc áp dụng quy trình thẩm định mới dẫn tới kéo dài thời gian thẩm định và phát sinh chi phí khiến KH khó chấp nhận... Từ đó, đòi hỏi phải có một quy trình thẩm định khoa học, đồng bộ và phù hợp với trình độ năng lực phân tích của đội ngũ cán bộ, giúp cho quy trình mới không gây phiền phức cho KH mà ngược lại có thể tạo ra những giá trị gia tăng, khiến KH hài lòng về dịch vụ.

❖ Cán bộ thẩm định chưa thực sự đáp ứng tốt cho công tác thẩm định

Yếu tố con người mặc dù đã được quan tâm nhiều nhưng với tốc độ phát triển kinh tế nói chung, tốc độ tăng trưởng tín dụng nói riêng và sự gia tăng về số lượng các DNNVV trong thời gian qua thì số lượng và chất lượng cán bộ thẩm định tại MB vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc thẩm định NLTC. Hiện nay, bình quân một cán bộ tín dụng tham gia hoạt động thẩm định NLTC DNNVV phải đảm trách khoảng 250 – 300 tỷ đồng dư nợ - là mức rất cao. Thực tế cho thấy cường độ làm việc của các cán bộ tín dụng nói chung và cán bộ thẩm định nói riêng trong thời gian qua khá căng thẳng nên nhiều cán bộ thẩm định không thể thực hiện đầy đủ, toàn diện tất cả các nội dung quy định trong báo cáo thẩm định mà chỉ lựa chọn những chỉ tiêu và phương pháp thẩm định cơ bản nhất. Các hoạt động tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, với các đối tác và các ban ngành hữu quan để tìm hiểu thêm thông tin phục vụ cho công tác thẩm định cũng chưa được thực hiện thường xuyên.

Mặt khác, kinh nghiệm của các cán bộ thẩm định cũng là một điểm yếu. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ tín dụng và cán bộ thẩm định NLTC tại MB có trình độ học