• Không có kết quả nào được tìm thấy

tình hình điều tra, áp dụng, rà soát pVtM với hàng hóa nhập khẩu

Trong tài liệu Địa ý 5 - Bài: thương mại và du lịch (Trang 151-157)

iV. pHòng VỆ tHƯƠng MẠi

2. tình hình điều tra, áp dụng, rà soát pVtM với hàng hóa nhập khẩu

2. tình hình điều tra, áp dụng, rà soát pVtM với hàng hóa

- Đường sorbitol xuất xứ từ Trung Quốc, Indonesia, Ấn Độ (vụ việc AD14).

năm 2020 cũng là năm đầu tiên Việt nam tiến hành điều tra chống trợ cấp đối với hàng hóa nhập khẩu (sản phẩm đường mía có xuất xứ Thái Lan - vụ việc AS01). như vậy, đây cũng là vụ việc đầu tiên một hàng hóa bị điều tra cùng lúc cả biện pháp CBPG và biện pháp CTC. Các vụ việc điều tra này dự kiến sẽ được hoàn tất trong năm 2021.

2.2. Các vụ việc kết thúc điều tra

Trong năm 2020, Bộ Công Thương đã kết thúc điều tra và ban hành quyết định cuối cùng đối với 04 vụ việc CBPG đã khởi xướng từ năm 2019 như sau:

- Vụ việc AD06 (sản phẩm ván sợi bằng gỗ hoặc bằng các vật liệu có chất gỗ khác (ván MDF) có xuất xứ từ Thái Lan và Malaysia): trải qua hơn 7 tháng điều tra theo đúng quy định của Tổ chức Thương mại thế giới, Luật Quản lý ngoại thương và các quy định liên quan, Bộ Công Thương đã xem xét và đánh giá kỹ lưỡng về thiệt hại của ngành sản xuất trong nước, mức độ bán phá giá của các doanh nghiệp sản xuất của Thái Lan và Malaysia cũng như xem xét, tính toán tác động đối với các ngành sản xuất hạ nguồn và người tiêu dùng các sản phẩm ván sợi. Kết quả điều tra cho thấy chưa đủ bằng chứng về việc ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại đáng kể hoặc đe dọa bị thiệt hại đáng kể do hàng hóa nhập khẩu từ Thái Lan và Malaysia. Do vậy, ngày 14/01/2020, Bộ Công Thương ban hành Quyết định số 128/Qđ-BCT chấm dứt điều tra và chưa áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với sản phẩm ván sợi nhập khẩu từ Thái Lan và Malaysia.

- Vụ việc AD07 (sản phẩm plastic được làm từ các polymer từ propylen (màng BOPP) có xuất xứ từ Trung Quốc, Thái Lan và Malaysia): kết quả điều tra cho thấy ngành sản xuất sản phẩm màng BOPP trong nước đã và đang chịu thiệt hại đáng kể trong thời gian vừa qua, thể hiện ở các yếu tố như sự sụt giảm nghiêm trọng của lượng hàng bán, doanh thu, lợi nhuận, thị phần, công suất sản xuất. ngày 20/7/2020, Bộ Công Thương ban hành Quyết định số 1900/Qđ-BCT áp dụng thuế CBPG chính thức vụ việc để giảm thiểu thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước do tác động từ lượng lớn các sản phẩm màng BOPP nhập khẩu bán phá giá vào Việt nam với biên độ bán phá giá của hàng hóa nhập khẩu được xác định là từ 9,05% đến 23,71%.

Mức thuế chống bán phá giá chính thức về cơ bản thấp hơn mức thuế sơ bộ được áp dụng trước đó, phản ánh sự cân nhắc hài hòa giữa quyền lợi của ngành sản xuất trong nước, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích của các ngành công nghiệp hạ nguồn sử dụng sản phẩm màng BOPP. Trên cơ sở xem xét ý kiến hợp lý của các bên liên quan, Bộ Công Thương cũng đã quyết định loại trừ một số sản phẩm màng BOPP đặc biệt khỏi phạm vi áp dụng của biện pháp chống bán phá giá do ngành sản xuất trong nước không sản xuất được những chủng loại sản phẩm này. Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng đã xem xét miễn trừ thuế CBPG cho một số trường hợp theo đúng quy định pháp luật.

- Vụ việc AD08 (sản phẩm thép cán nguội (ép nguội) dạng cuộn hoặc dạng tấm có xuất xứ từ Trung Quốc): kết quả điều tra cho thấy, trong thời kỳ điều tra, lượng nhập khẩu thép cán nguội bị điều tra lên tới 272.073 tấn, chiếm 65,5% tổng lượng nhập khẩu

thép cán nguội vào Việt nam. Số liệu nhập khẩu cho thấy có sự gia tăng tuyệt đối và tương đối đối với lượng nhập khẩu thép cán nguội bị điều tra so với lượng sản xuất tại Việt nam. Sự gia tăng này là nguyên nhân chính gây tác động tiêu cực đối với ngành sản xuất trong nước, đặc biệt là các chỉ số về lợi nhuận, tồn kho và thị phần. Trên cơ sở kết quả điều tra, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định áp dụng thuế CBPG chính thức đối với sản phẩm thép cán nguội từ Trung Quốc với mức thuế từ 4,43% đến 25,22%

nhằm giảm thiểu thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước sau khi cân nhắc hài hòa giữa quyền lợi của ngành sản xuất trong nước, lợi ích của các ngành công nghiệp hạ nguồn sử dụng sản phẩm thép cán nguội.

- Vụ việc AD09 (sản phẩm bột ngọt có xuất xứ từ Trung Quốc và indonesia): trên cơ sở phân tích, tổng hợp ý kiến, thông tin từ các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài, nhà nhập khẩu cũng như nhà sản xuất trong nước, Bộ Công Thương ban hành Quyết định số 1933/

Qđ-BCT ngày 22/7/2020 áp dụng thuế CBPG chính thức của vụ việc. Mức thuế tuyệt đối được áp dụng cho các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài khác nhau từ 3.529.958 đồng/

tấn đến 6.385.289 đồng/tấn thể hiện sự tính toán chi tiết tương ứng với mức độ bán phá giá của từng doanh nghiệp cụ thể của Trung Quốc và indonesia.

2.3. Rà soát các biện pháp PVTM đang có hiệu lực

Theo quy định của WTO cũng như Luật Quản lý ngoại thương, sau khi biện pháp PVTM có hiệu lực, các bên sẽ có cơ hội định kỳ đề nghị thay đổi mức thuế PVTM, phạm vi áp dụng biện pháp PVTM cũng như đề nghị chấm dứt áp dụng PVTM dựa trên cơ sở số liệu và tình hình thực tiễn. điều này đảm bảo cho biện pháp PVTM luôn được cập nhật phù hợp với thực tiễn hoạt động sản xuất trong nước, kinh doanh xuất nhập khẩu.

Trong năm 2020, Bộ Công Thương đã hoàn thành việc rà soát một số biện pháp PVTM đang có hiệu lực, cụ thể như sau:

- Kết thúc việc rà soát lần thứ nhất biện pháp CBPG đối với một số sản phẩm thép mạ có xuất xứ từ Trung Quốc và Hàn Quốc (vụ việc AR01.AD02): ngày 20/11/2020, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 3023/Qđ-BCT về kết quả rà soát với mức thuế CBPG từ 3,17% đến 38,34% tùy từng nhà sản xuất, xuất khẩu cụ thể của Trung Quốc. Các nhà sản xuất, xuất khẩu Hàn Quốc được giữ nguyên mức thuế CBPG là từ 7,02% đến 19%.

- Kết thúc việc rà soát lần thứ nhất biện pháp CBPG một số sản phẩm thép hình chữ H có xuất xứ từ Trung Quốc (vụ việc AR01.AD03): ngày 20/11/2020, Bộ Công Thương ban hành Quyết định số 3204/Qđ-BCT về kết quả rà soát với mức thuế CBPG áp dụng từ 19,30% đến 29,17% tùy từng nhà sản xuất, xuất khẩu cụ thể.

- Kết thúc việc rà soát cuối kỳ áp dụng biện pháp tự vệ và chống lẩn tránh biện pháp tự vệ đối với sản phẩm phôi thép và thép dài nhập khẩu vào Việt nam (Vụ việc SR01-SG04):

ngày 20/3/2020, Bộ Công Thương ban hành Quyết định số 918/Qđ-BCT về việc gia hạn áp dụng biện pháp tự vệ đối với sản phẩm phôi thép và thép dài. Theo đó, thời hạn gia hạn của biện pháp là 03 năm (đến ngày 21/3/2023). Cùng với đó, ngày 20/3/2020, Bộ Công Thương ban hành Quyết định số 920/Qđ-BCT về việc gia hạn áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp PVTM đối với sản phẩm thép cuộn, thép dây nhập khẩu vào Việt nam với thời gian gia hạn tương tự biện pháp tự vệ.

- Kết thúc việc rà soát cuối kỳ việc áp dụng biện pháp tự vệ đối với sản phẩm phân bón DAP/MAP (SR01-SG06): ngày 03/3/2020, Bộ Công Thương ban hành Quyết định số 715/

Qđ-BCT gia hạn áp dụng biện pháp tự vệ đối với sản phẩm phân bón DAP/MAP. Theo đó, biện pháp tự vệ đối với sản phẩm phân bón DAP/MAP được gia hạn đến hết ngày 06/9/2022.

Cũng trong năm 2020, Bộ Công Thương đã ban hành một số quyết định rà soát các biện pháp PVTM đang có hiệu lực, cụ thể như sau:

- Rà soát nhà xuất khẩu mới trong vụ việc điều tra áp dụng biện pháp CBPG đối với một số sản phẩm thép phủ màu có xuất xứ từ Trung Quốc và Hàn Quốc (vụ việc nR01.AD04);

- Rà soát lần thứ nhất biện pháp CBPG đối với một số sản phẩm thép phủ màu có xuất xứ từ Trung Quốc (vụ việc AR01.AD04);

- Rà soát lần thứ nhất biện pháp CBPG đối với một số sản phẩm nhôm có xuất xứ từ Trung Quốc (vụ việc AR01.AD05).

Các vụ việc này dự kiến sẽ hoàn thành rà soát trong năm 2021.

2.4. Đánh giá

như vậy, cho đến nay Việt nam đã tiến hành khởi xướng điều tra tất cả các biện pháp PVTM khác nhau (chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ, chống lẩn tránh biện pháp PVTM). điều này cho thấy hệ thống pháp luật về PVTM của ta đã dần được hoàn thiện;

nhận thức, năng lực về PVTM của các cơ quan quản lý nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp đã được nâng cao đáng kể, đặc biệt từ khi Luật Quản lý ngoại thương có hiệu lực

và Cơ quan điều tra PVTM được thành lập. Trong năm 2020, đặc điểm nổi bật trong lĩnh vực PVTM do Việt nam điều tra, áp dụng thể hiện như sau:

- Số lượng vụ việc điều tra mới tăng lên: nếu như giai đoạn trước đây (từ 2009 đến 2015) trung bình mỗi năm Việt nam chỉ khởi xướng từ 1-2 vụ việc thì trong giai đoạn gần đây (2016-2020) mỗi năm trung bình khởi xướng 4-5 vụ. năm 2020, Việt nam khởi xướng điều tra 06 vụ việc mới, là mức cao nhất kể từ khi các quy định về PVTM được ban hành (năm 2002) cho tới nay.

- Lần đầu tiên Việt nam điều tra chống trợ cấp: trong ba biện pháp PVTM, chống trợ cấp được coi là biện pháp khó sử dụng nhất do yêu cầu nguyên đơn và cơ quan điều tra phải tìm hiểu về chính sách và thực tiễn hoạt động trợ cấp của các cơ quan chính phủ nước ngoài. Chính vì vậy, từ trước đến nay biện pháp này chủ yếu do các nước phát triển sử dụng như Hoa Kỳ, Eu, Australia, Canada,... Trong ASEAn, Việt nam là nước đầu tiên tiến hành điều tra một vụ việc chống trợ cấp (đối với mặt hàng đường mía) nhằm loại bỏ các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng cho hàng hóa sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu từ các nguồn khác nhau.

- Giảm dần việc áp dụng biện pháp tự vệ: nếu trong gần 10 năm đầu tiên điều tra PVTM, các vụ việc tự vệ chiếm khoảng 50% số vụ việc điều tra thì trong 3 năm gần đây Việt nam không điều tra thêm vụ việc tự vệ nào nữa.

Biểu đồ 7: Số lượng vụ việc PVTM theo loại hình

0 1 2 3 4 5 6

2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 Chống bán phá giá Chống trợ cấp Tự vệ

Nguồn: Cục Phòng vệ thương mại - Sản phẩm bị điều tra đa dạng hơn: trước đây, các mặt hàng bị điều tra PVTM chủ yếu là sắt thép các loại. Tuy nhiên, năm nay các sản phẩm bị điều tra đã đa dạng hơn, gồm cả các sản phẩm công nghiệp nhẹ như sợi, đường, hóa chất sorbitol. như vậy, công cụ PVTM

không chỉ giới hạn trong các doanh nghiệp sản xuất sắt thép mà đã được các ngành sản xuất khác biết và sử dụng nhiều hơn.

- Doanh nghiệp Việt nam tham gia nhiều hơn vào các vụ việc PVTM: nếu như trước đây, nhiều vụ việc PVTM do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò chính thì gần đây, các doanh nghiệp, hiệp hội trong nước đã chủ động, tích cực tham gia, đóng vai trò dẫn dắt nhiều hơn.

2.5. Tác động của các biện pháp PVTM

Thực tế cho thấy các biện pháp PVTM đã được áp dụng trong thời gian qua đều đem lại hiệu quả tích cực cho các ngành sản xuất trong nước, giúp khắc phục thiệt hại do sự gia tăng của hàng nhập khẩu gây ra, giữ vững và từng bước phát triển các ngành sản xuất trong nước. Các biện pháp PVTM vừa là để bảo vệ sản xuất và việc làm trong nước đồng thời giảm mức độ phụ thuộc vào hàng hoá nhập khẩu (đặc biệt đối với các hàng hóa thiết yếu của nền kinh tế như sắt thép, phân bón, v.v), góp phần thực hiện chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần ổn định giá đầu vào cho một số ngành sản xuất trong nước. Các biện pháp này đã góp phần bảo vệ công ăn việc làm của hơn 150.000 người lao động thuộc nhiều lĩnh vực sản xuất, góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước với mức thuế thu được ước tính lên tới hàng nghìn tỷ đồng, cũng như bảo vệ cho hoạt động sản xuất của các ngành công nghiệp trong nước trong các vụ việc chống bán phá giá, với ước tính chiếm khoảng 5,12%

tổng GDP Việt nam năm 2019.

nhờ công cụ PVTM, nhiều doanh nghiệp thuộc một số ngành kinh tế đã cải thiện đáng kể tình hình sản xuất kinh doanh, thoát khỏi thua lỗ và từng bước ổn định sản xuất. Trong quá trình áp dụng các biện pháp PVTM, những quan ngại về việc khan hiếm hàng hóa, hàng hóa tăng giá do thuế hay việc giảm động lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước cũng được Bộ Công Thương theo dõi, xử lý thông qua giám sát diễn biến giá và rà soát định kỳ để điều chỉnh biện pháp cho phù hợp thực tiễn. Thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp sản xuất trong nước đã tăng cường xuất khẩu sau khi biện pháp PVTM được áp dụng (như Công ty Thép Hòa Phát, Tôn Hoa Sen, Tôn đông Á, DAP-Vinachem…) cho thấy năng lực cạnh tranh quốc tế của các doanh nghiệp trong nước vẫn được bảo đảm. Trên thực tế, các biện pháp PVTM này (cả chống bán phá giá và tự vệ) đều chỉ áp dụng với một số quốc gia và vùng lãnh thổ nhất định, do đó, hàng hóa có xuất xứ từ các nước/vùng lãnh thổ còn lại vẫn có thể nhập khẩu vào Việt nam không phải chịu thuế PVTM và cạnh tranh bình đẳng với hàng hóa sản xuất trong nước.

Xét một cách tổng thể, các biện pháp PVTM kịp thời do Bộ Công Thương áp dụng đã góp phần ngăn chặn những tác động tiêu cực của hàng nhập khẩu ồ ạt, cạnh tranh không lành mạnh với hàng hóa trong nước và bảo đảm giữ vững sản xuất trong nước cũng như năng lực cạnh tranh. Các nỗ lực của Bộ Công Thương về PVTM đã góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của các ngành sản xuất, xuất khẩu, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu do Quốc hội đề ra.

3. Các vụ việc do nước ngoài điều tra, áp dụng với hàng hóa

Trong tài liệu Địa ý 5 - Bài: thương mại và du lịch (Trang 151-157)