• Không có kết quả nào được tìm thấy

Các cơ sở thuộc Phật giáo

Chương 2: ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC XÚC TIẾN DU LỊCH TÂM LINH TẠI

2.1. Khái quát về du lịch ở Thừa Thiên Huế

2.1.3. Tài nguyên du lịch ở Thừa Thiên Huế

2.2.1.1. Các cơ sở thuộc Phật giáo

Thừa Thiên Huế với gần 600 tự viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường, trong đó có nhiều chùa được công nhận là di tích quốc gia như: Chùa Thiên Mụ, chùa Diệu Đế, chùa Thánh Duyên, chùa Hiền Lương… Trong những năm qua, nhiều cơ sở Phật

Trường Đại học Kinh tế Huế

Giác, chùa PhậtẤn, Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã, Tổ đình chùa Từ Đàm, Thánh tích tượng đại Quan Thế Âm… không chỉ đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, hoạt động Phật sự của giáo hội mà còn góp phần tô điểm cảnh quan, thu hút khách đến với Thừa Thiên Huế.

Chùa Huế là một mảng kiến trúc quan trọng đã cùng với quần thểkiến trúc cung đình, kiến trúc dân gian tạo cho Huếdáng vẻriêng biệt mà chẳng nơi nào có được, cái đẹp như tranh họa đồgiữa non nước xanh biếc, thơ mộng, hữu tình. Không thểkể đến các niệm Phật đường, các chùa khuôn hội, hiện nayởHuếcòn lưu giữ được nhiều ngôi chùa cổ, trong đó có hàng chục tổ đình và hầu hết giữ được nét cổkính của kiến trúc Á Đông và Việt Nam.

Các ngôi chùa Huế rải cảkhắp và trong ngoài kinh thành, mỗi ngôi chùa tọa lạc trên khung cảnh thiên nhiên yên tĩnh.

Chùa Thiên M: Khách đến thăm Huế, đa phần đều viếng thăm ngôi chùa nổi tiếng nhất xứ thần kinh này. Chùa Thiên Mụ ra đời gắn với tên tuổi của chúa Nguyễn Hoàng (1525 –1613), vị chúa đầu tiên mở mang bờ cõi, gây dựng cơ nghiệp cho nhà Nguyễn sau này. Chùa Thiên Mụxây dựng vào năm Tân Sửu (1601), tọa lạc trên ngọn đồi Hà Khê, về phía tảngạn sông Hương các kinh thành khoảng 5km theo hướng tây.

Đây được xem là một trong những ngôi quốc tự cổ nhất xứ Huế. Với cảnh đẹp tự nhiên và quy mô được mở rộng ngay từthời đó chùa Thiên Mụ đã trở thành ngôi chùa đẹp nhất xứ Đàng Trong. Chùa Thiên Mụ được xếp vào một trong hai mươi cảnh đẹp nhất xứthần kinh với bài thơThiên Mụchung thanh do vua Thiệu Trị sáng tác và được ghi vào bia đá dựng ở cổng chùa. Chùa Thiên Mụ còn là nơi có nhiều cổ vật quý giá không chỉ về mặt lịch sử mà còn cả vềnghệthuật. Những bức tượng Hộ Pháp, tượng Nhị Thập Thiên Vương… hay những hoành phi câu đối đều ghi dấu ấn thời kì lịch sử vàng son của chùa. Chủa Thiên Mụ là niềm tự hào của người dân xứ Huế và là một ngôi quốc tự nổi tiếng của nước ta. Hòa quyện với phong cảnh miền núi Ngự sông Hương, chùa Thiên Mụ đa đi vào tâm thức của người dân bản xứ, gắn bó với Huế và là bộphận không thểtách rời của Huế.

Huyền Không Sơn Thượng: nằm tại thôn Chầm, phường Hương Hồ, Thị

Trường Đại học Kinh tế Huế

giữa khu rừng thông quanh năm xanh tươi, mát mẻ, chim hót líu lo. Am mây tía là nơi ở, thư phòng, nơi tiếp khách và nơi viết thư pháp của sư trụtrì.Đây cũng là nơi những người yêu thích văn chương thi phú, nghệ thuật thư pháp tìm đến để đàm đạo, bình thơ, luyện bút, khoe chữ…Yên Hà các là nơi đón khách, có đường nét kiến trúc uyển chuyển, mái ngói, cột trụ, nội thất màu cánh gián, giản dị, đầm ấm. Nghinh lương đình, nơi khách thập phương dừng chân nghỉ ngơi, thưởng trà, đàm đạo…

Thin vin trúc lâm Bch Mã: Thiền viện tọa lạc trên một sơn đảo giữa lòng hồ Truồi, thuộc Vườn Quốc Gia Bạch Mã, xã Lộc Hòa, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên -Huế. Thiền viện là nơi chuyên tu, cần nơi yên tĩnh, không quá gần chốn đời thực vì có thểnhiễu tiếng ồn, nhưng cũng không thể quá xa để giúp đở nhân dân địa phương nơi đây. Ở đây, chư Tăng – Ni chưa bao giờ mua đồ ăn, họ tự cung tự cấp, không tiền riêng, không điện thoại riêng, không Internet, không TV. Không đi ra ngoài với bất cứ lý do gì (trừ việc chữa bệnh), không giảng đạo, truyền đạo, ngoại giao. Trên đường vào Nội viện, cây cối hay bên đường đi xanh tốt, hoa lá đua nhau khoe sắc điểm xuyến là những pho tượng nhỏ bên đường, như nhắc nhở mỗi người hãy tĩnh tâm lại, chậm lại một chút để thấy thoải mái hơn, thanh tịnh hơn trong tâm hồn.Hoạt động chủ yếu khi đến với thiền viện là tham quan viếng cảnh, trải nghiệm thiền hoặc có thểtham gia khóa tu thiền tại đây.

Chùa Đông Thiền: do ngài TếVĩ, đệtửcủa ngài Liễu Quán, lập ra vào thếkỷ18 ở làng Dương Xuân, nay thuộc xã Thủy Xuân, bên phía trái đoạn đường đi từ chùa Châu Lâm lên chùa Từ Hiếu toạ lạc tại 65/2 Lê Ngô Cát thuộc làng Dương xuân -Thuỷ Xuân - kế cận kinh thành Huế. Sau này, đầu thế kỷ19 có một công chúa, con vua Gia Long xuất gia tại đây là Công Chúa Ngọc Cơ nên chùa được trùng kiến. Dưới thời vua Minh Mạng, Thiệu Trị chùa tiếp tục được tôn tạo. Hiện còn bia ghi việc trùng tu này. Từnhững năm 30 của thếkỷ20 chùa thiếu sư thường trú nên rơi vào cảnh điêu tàn mãi cho đến sau năm 1975 sư bà Diệu Không mới đứng ra nhận chức vụtrụtrì và giao cho Ni cô Diệu Đạt phụtrách phục hồi sinh hoạt ở đây. Vềkiến trúc chùa vẫn giữ được đường nét xưa, còn lưu giữchiếc khánh đồng có từthời ngài TếVĩ, tấm biển sơn son thếp vàng thời Thiệu Trị, bia bằng đá thanh thời Minh Mạng, khám, tượng thờ cổ và chiếc trống được cho là lớn nhất Huế, nổi danh qua câu truyền tụng dân gian Trống

Trường Đại học Kinh tế Huế

Chùa Từ Đàm: Chùa tọa lạc trên một khoảnh đất cao, rộng, bằng phẳng thuộc địa phận phường Trường An, cách trung tâm thành phốHuế2 km về hướng nam. Mặt chùa hướng đông nam, trước có núi Kim Phụng làm án, bên phải giáp đường Điện Biên Phủ, bên trái có chùa Linh Quang và nhà thờ cụPhan Bội Châu, phía sau có chùa Thiên Minh. Mặc dầu không phải là ngôi chùa vào loại cổ nhất Việt Nam, nhưng Từ Đàm đã được nhiều người ở khắp đất nước biết đến do vai trò quan trọng của chùa trong công cuộc chấn hưng và phát triển của Phật giáo Việt Nam thời kỳ cận đại và cuộc đấu tranh vì hòa bình và tự do tín ngưỡng. Hiện nay chùa Từ Đàm là trụ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Thừa Thiên - Huế. Cấu trúc chung của chùa được gọi là "kiểu chùa Hội" phối hợp giữa đường nét nghệthuật kiến trúc mới và cũ với yêu cầu rộng rãi, cao ráo, cổ kính nhưng đơn giản. Chùa Từ Đàm có ba bộphận quan trọng là tam quan, chùa chính và nhà Hội. Chùa Từ Đàm do Hòa thượng Minh Hoàng Tử Dung sáng lập vào khoảng sau năm 1695. Ngài Minh Hoàng quê ở Trung quốc, thuộc dòng Thiền, phái Lâm Tếthứ34, là bậc cao Tăng đã truyền pháp vàấn chứng cho Hòa thượng Liễu Quán vịTổ sư Thiền tông Việt Nam đầu tiên khai đạoở Đàng trong. Năm 1703, Chúa Nguyễn Phúc Chu ban cho chùa tấm biển Sắc tứ ấn tôn tự, từ đó, chùa có tên làấn Tôn. Năm Thiệu Trị nguyên niên (1841) đổi tên là chùa Từ Đàm. Năm 1936, chùa Từ Đàm là trụ sở hoạt động của An Nam Phật học hội. Những ngày Cách mạng Tháng Tám Từ Đàm là trung tâm hoạt động sôi nổi của Phật giáo cứu quốc. Năm 1951, 51 đại biểu Phật giáo, cả ba miền bắc - trung - nam mở đại hội đầu tiên ở Từ Đàm, đặt nền móng sơ khởi cho công cuộc thống nhất Giáo hội Phật giáo Việt nam.

Những năm sáu mươi, Từ Đàm là nơi xuất phát của các cuộc đấu tranh chống chế độ độc tài Ngô Đình Diệm do chư Tăng và Phật tử kính đạo, yêu nước đứng lên góp sức mình vào sựnghiệp đấu tranh chung của dân tộc.

Chùa Diệu Đế: Nhắc đến chùa Diệu Đế, ai cũng biết đây là một trong ba ngôi Quốc tự dưới triều Nguyễn còn lại trên mảnh đất Huế. Sựbiến thiên của lịch sử đã lấy đi ít nhiều vẻ hoành tráng của ngôi tự này nhưng vị trí và vai trò của ngôi cổ Tự vẫn không hề thay đổi. Năm 1844, vua Thiệu Trị đã cho xây dựng một ngôi chùa trên nền đất cũ nơi mình được sinh ra. Ông mong muốn “Vua quan ngày ngày chiêm ngưỡng, càng tăng thêm màu sắc tươi thắm của chốn phồn hoa; xe qua thuyền ghé tấp nập,

Trường Đại học Kinh tế Huế

lấy điều thiện làm căn bản”. Ngôi chùa này được ông đặt tên là Diệu Đế vì: “... đó là nơi hun đúc và thể hiện nét văn hoá vô cùng tuyệt diệu, tận nguồn cội thâm uyên đều được hiển bày qua chân như mật đế, cũng vì vậy cho nên gọi là chùa Diệu Đế”.

Chùa Thánh Duyên: Chùa Thánh Duyên được xây dựng trên núi Túy Vân - một hòn núi nhỏ gần cửa Tư Hiền, nay thuộc xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc. Chùa được xây dựng vào nửa sau thếkỷ XVII, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần với quy mô nhỏ.

Đến năm Nhâm Thân (1692) chúa Nguyễn Phúc Chu đã cho tu sửa lại chùa. Năm 1825, vua Minh Mạng cho xây dựng lại trên nền cũ đặt tên là chùa Thuý Ba. Năm 1836 vua Minh Mạng cho sửa lại, xây thêm Ðại TừCác và Tháp Ðiều Ngự đặt tên là chùa Thánh Duyên. Chùa Thánh Duyên được xây dựng theo phong cách kiến trúc Nguyễn đặc trưng "trùng thiềm điệp ốc", với bố cục chùa (Thánh Duyên) - Các (Ðại từ) - Tháp (Ðiều Ngự), là điều khác lạ so với các chùa thông thường là: tháp – chùa, phải chăng đây là thể hiện tư tưởng Tam giáo đồng nguyên trong kiến trúc Phật giáo.

Quy mô chùa Thánh Duyên gồm: Chùa ba gian hai chái, có la thành. Phía sau chùa là Đại TừCác, cấu trúc ba gian có nghi môn và la thành bao quanh. Ở đỉnh núi là Tháp Điều Ngự3 tầng, cao khoảng 12m. Sau tháp có một ngôi đình nhỏ, trước đình có bình phong long mã, xung quanh có la thành. Chùa chính có 3 án thờ và 2 án tòng sự thờ Phật Tam Thế, Quan Âm, 18 vị La Hán…, đặc biệt là tượng 18 vị La Hán đầu bằng đồng. Từ năm 1836 vua Minh Mạng đã ban sắc chùa Thánh Duyên lên hàng Quốc tự với nhiều vị cao tăng có tên tuổi được cử làm trụ trì. Di tích đã được xếp hạng cấp quốc gia theo Quyết định số310QÐ/BT ngày 13-2-1996.