• Không có kết quả nào được tìm thấy

PHÂN TÍCH LIÊN KẾT GIỮA HỘ NUÔI VÀ CÁC TÁC NHÂN TRONG CHUỖI CUNG TÔM NUÔI HUYỆN QUẢNG NINH, TỈNH QUẢNG BÌNH

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "PHÂN TÍCH LIÊN KẾT GIỮA HỘ NUÔI VÀ CÁC TÁC NHÂN TRONG CHUỖI CUNG TÔM NUÔI HUYỆN QUẢNG NINH, TỈNH QUẢNG BÌNH"

Copied!
106
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC HUẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

LÊ PHƯƠNG THẢO

PHÂN TÍCH LIÊN KẾT GIỮA HỘ NUÔI VÀ CÁC TÁC NHÂN TRONG CHUỖI CUNG TÔM NUÔI

HUYỆN QUẢNG NINH, TỈNH QUẢNG BÌNH

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ MÃ SỐ: 8 34 04 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ NỮ MINH PHƯƠNG

HUẾ, 2018

Trường Đại học Kinh tế Huế

(2)

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đãđược cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn này đãđược chỉ rõ nguồn gốc.

Tác giả luận văn

Lê Phương Thảo

Trường Đại học Kinh tế Huế

(3)

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, lời cảm ơn đầu tiên đặc biệt và sâu sắc nhất, tôi xin gửi đến thầy TS.Lê Nữ Minh Phương, người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡtôi tận tình trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới quí thầy cô giáo Trường Đại học Kinh tế Huế đã nhiệt tình giúp đỡ tôi về mọi mặt trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Tôi cũng xin bày tỏ sự biết ơn đến các Lãnh đạo, nhân viên các phòng, ban chuyên môn của: Ủy ban nhân dân; Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Quảng Ninh đã nhiệt tình cung cấp số liệu, tư vấn giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu, hoàn thành luận văn.

Và tôi xin cảm ơn gia đình, những người thân và bạn bè đã chia sẽ, động viên, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành khóa học và thực hiện thành công luận văn này.

Luận văn là tổng hợp kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu và sự nỗ lực cố gắng của bản thân. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện luận văn không thể tránh khỏi những khiếm khuyết, tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành của quýthầy (cô) và đồng nghiệp để luận văn này được hoàn thiện hơn.

Tôi xin trân trọng cảm ơn!

Quảng Bình, ngày tháng năm 2018 Tác giả

Lê Phương Thảo

Trường Đại học Kinh tế Huế

(4)

TÓM LƯỢC LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ

Họ và tên học viên:LÊ PHƯƠNG THẢO

Chuyên ngành: Quản lý kinh tế ứng dụng Mã số: 60 34 04 10 Niên khóa: 2016 - 2018

Người hướng dẫn khoa học:TS. LÊ NỮ MINH PHƯƠNG

Tên đề tài: PHÂN TÍCH LIÊN KẾT GIỮA HỘ NUÔI VÀ CÁC TÁC NHÂN TRONG CHUỖI CUNG TÔM NUÔI HUYỆN QUẢNG NINH, TỈNH QUẢNG BÌNH.

1. Tính cấp thiết

Huyện Quảng Ninh là một trong ba huyện, thị thuộc tỉnh Quảng Bình có tỷ trọng nuôi tôm lớn với nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển ngành nuôi tôm. Tuy nhiên, những hộ nuôi tôm nói riêng còn gặp nhiều khó khăn trong nuôi trồng và tiêu thụ sản phẩm và một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình đó là do việc sản xuất, kinh doanh tôm trên địa bàn huyện Quảng Ninh mới chỉ dừng lại ở từng công đoạn đơn lẻ, chưa hình thànhđược mối liên kết giữacác tác nhân trên thị trường sản phẩm tôm nuôi, do đó, khả năng kiểm soát các vấn đề cũng như phân chia lợi ích giữa các tác nhân chưa được công bằng.

2. Phương pháp nghiên cứu

Ngoài số liệu thứ cấp, nghiên cứu còn tiến hành thu thập số liệu sơ cấp bằng cách phỏng vấn 70 Hộ nuôi tôm, 5 nhà cung ứng đầu vào, 1 thu gom lớn và 1 thu gom nhỏ, 1 doanh nghiệp chế biển trên địa bàn huyện Quảng Ninh và dùng phương pháp tổng hợp và phân tích để đưa ra vấn đề và hướng giải quyết.

3. Kết quả nghiên cứu và những đóng góp khoa học của luận văn

Nghiên cứu cho thấy rằng tại huyện Quảng Ninh đã tồn tại mối liên kết ngang giữa các hộ nuôi hình thành nên các HTX, THT, nhóm nuôi tôm tuy nhiên mối liên kết này lại chưa thực sự hiệu quả. Liên kết dọc giữa hộ nuôi và doanh nghiệp chế biến chưa được hình thành. Các liên kết còn lỏng lẻo, hầu hết là hợp đồng miệng hoặc văn bản thỏa thuận chưa có tính pháp lý. Từ đó, tác giả đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm phát triển liên kết giữa hộ nuôi và các tác nhân, giúp ngành tôm nuôi huyện Quảng Ninh phát triển bền vững.

Trường Đại học Kinh tế Huế

(5)

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

HTX : Hợp tác xã THT: Tổ hợp tác

VSATTP: Vệ sinh an toàn thực phẩm

Trường Đại học Kinh tế Huế

(6)

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN... i

LỜI CẢM ƠN...ii

TÓM LƯỢC LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ...iii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT... iv

DANH MỤC HÌNH...viii

DANH MỤC BẢNG... ix

PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ... 1

2. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn... 2

3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn... 2

4. Phương pháp nghiên cứu... 3

5. Kết cấu của luận văn ... 5

PHẦN 2: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ... 6

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄNVỀ LIÊN KẾT GIỮA HỘ NUÔI VÀ CÁC TÁC NHÂN TRONG CHUỖI CUNG TÔM NUÔI... 6

1.1. Một số khái niệm... 6

1.1.1. Liên kết kinh tế và liên kết kinh tế trong nông nghiệp... 6

1.1.2. Nuôi tôm... 9

1.1.3. Chuỗi cung... 10

1.2. Liên kết giữa hộ nuôi và các tác nhân trong chuỗi cung tôm nuôi... 11

1.2.1. Các tác nhân tham gia liên kết... 11

1.2.2. Liên kết ngang... 15

1.2.3. Liên kết dọc... 18

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến các mối liên kết trong nuôi tôm... 22

1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến liên kết ngang... 22

1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến liên kết dọc... 23

1.4. Cơ sở thực tiễn về liên kết giữa hộ nuôi và các tác nhân trong chuỗi cung tôm nuôi tôm nuôi...25

Trường Đại học Kinh tế Huế

(7)

1.4.1. Đặc điểm thị trường tôm nuôi Việt Nam... 25

1.4.2. Các bài học kinh nghiệm về sự liên kết trong nông nghiệp... 27

Tóm tắt chương 1:... 35

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN MỐI LIÊN KẾT GIỮA HỘ NUÔI TÔM VÀ CÁC TÁC NHÂN TRONG CHUỖI CUNG TÔM NUÔI HUYỆN QUẢNG NINH, TỈNH QUẢNG BÌNH...36

2.1. Đặc điểm cơ bản của huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình ... 36

2.1.1. Điều kiện tự nhiên... 36

2.1.2. Điều kiện kinh tế- xã hội... 39

2.2. Tổng quan nuôi trồng thủy sảntại huyện Quảng Ninh... 43

2.2.1. Diện tích nuôi trồng thủy sản... 43

2.2.2. Sản lượng nuôi trồng thủy sản... 43

2.3. Liên kết dọc... 45

2.3.1. Mô hình liên kết trong nuôi tôm huyện Quảng Ninh... 45

2.3.2. Các tác nhân tham gia liên kết... 46

2.3.3. Mức độ lợi ích khi tham gia liên kết dọc... 57

2.4. Liên kết ngang... 60

2.4.1. Thực trạng liên kết ngang giữa các hộ nuôi tôm huyện Quảng Ninh... 60

2.4.2. Lợi ích tham gia liên kết ngang giữa các hộ nuôi tôm huyện Quảng Ninh... 62

2.5. Những vấn đề còn tồn tại trong liên kết ngành hàng tôm nuôi huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình ... 65

Tóm tắt chương 2:... 68

Chương 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN LIÊN KẾT GIỮA HỘ NUÔI VÀ CÁC TÁC NHÂN TRONG CHUỖI CUNG TÔM NUÔI HUYỆN QUẢNG NINH, TỈNH QUẢNG BÌNH...69

3.1. Quan điểm, định hướng phát triển các liên kết giữa hộ nuôi và các tác nhân trong chuỗi cung tôm nuôi tôm nuôi huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình...69

3.1.1. Quan điểm phát triển... 69

tiêu thụ nông sản... 70

Trường Đại học Kinh tế Huế

(8)

3.1.2. Định hướng... 70

3.2. Giải pháp phát triển liên kết... 71

3.2.1. Hoàn thiện khung pháp lý về liên kết trong nuôi tôm đồng thời nâng cao vai trò của chính quyền địa phương... 72

3.2.2. Tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức cho các hộ nuôi tôm cũng như các tác nhân khác trong chuỗi... 73

3.2.3. Quy hoạch vùng nuôi tôm thành những vùng sản xuất quy mô lớn... 74

3.2.4. Hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng... 74

3.2.5. Nâng cao hiệu quả liên kết ngang giữa các hộ nuôi tôm đồng thời khuyến khích thành lập, phát triển liên kết ngang giữa các nhà cungứng đầu vào và giữa các doanh nghiệp chế biến... 75

3.2.6. Phát triển mối liên kết dọc giữa hộ nuôi và các doanh nghiệp chế biến tôm.... 76

Tóm tắt chương 3:... 77

PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ... 78

3.1. Kết luận... 78

3.2. Kiến nghị... 79

TÀI LIỆU THAM KHẢO... 81

PHỤ LỤC... 84 QUYẾT ĐỊNH HỘI ĐỒNG

BIÊN BẢN HỘI ĐỒNG

NHẬN XÉT PHẢN BIỆN 1 + 2 BẢN GIẢI TRÌNH

XÁC NHẬN HOÀN THIỆN LUẬN VĂN

Trường Đại học Kinh tế Huế

(9)

DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1: Mô hình liên kết ngang giữa những hộ nuôi tôm...16

Hình 2.1: Bản đồ hành chính huyện Quảng Ninh...36

Hình 2.2: Sơ đồ chuỗi cung tôm nuôi huyện Quảng Ninh theo chiều dọc...45

Hình 2.3: Sản lượng bán qua các kênh...54

Trường Đại học Kinh tế Huế

(10)

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Cơ cấu giá trị sản xuất của huyện Quảng Ninh giai đoạn 2014-2016..39

Bảng 2.2. Thống kế tình hình sử dụng đất đai năm 2016...40

Bảng 2.3: Dân số và lao động trên địa bàn huyện Quảng Ninh 2014 –2016...41

Bảng 2.4: Diện tích Nuôi trồng thủy sản huyện Quảng Ninh giai đoạn 2014 –2016 ...43

Bảng 2.5: Sản lượng thủy sản của huyện Quảng Ninh giai đoạn 2014 –2016 ....44

Bảng 2.6: Đặc điểm các hộ nuôi tôm huyện Quảng Ninh...46

Bảng 2.7: So sánh chi phí và thu nhập bình quân 1 vụ/1 hồ 3000m2 của hộ nuôi tôm có liên kết và không có liên kết...48

Bảng 2.8: Tình hình mua tôm giống của các hộ nuôi...50

Bảng 2.9: Tình hình mua thức ăn và thuốc, hóa chất của các hộ nuôi...52

Bảng 2.10: Các hình thức liên kết dọc...58

Bảng 2.11: Lợi ích khi tham gia liên kết dọc...59

Bảng 2.12: Tình hình tham gia liên kết ngang của các hộ nuôi...61

Bảng 2.13: Các lợi ích được chia sẻ thông tin khi tham gia liên kết ngang...63

Trường Đại học Kinh tế Huế

(11)

PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài

Liên kết là hoạt động cần thiết, tất yếu nhằm phát huy vai trò, đảm bảo khả năng phát triển và tính hiệu quả của các tác nhân trong chuỗi cung sản phẩm. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 1965/CT-BNN-TT năm 2013 về việc đẩy mạnh liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản theo mô hình cánh đồng mẫu lớn. Thực tiễn đã hình thành một số mô hình liên kết thành công như nuôi bò sữa, trồng và chế biến mía hay mô hình Dalat Hasfarm, một số mô hình liên kết thất bại như công ty CP Mê Kông (Cần Thơ) và dự án liên kết khác.

Hệ thống sản xuất nông nghiệp khu vực Bắc Trung Bộ khá đa dạng, bao gồm đầy đủcác hệ thống nông lâm ngư nghiệp. Tuy nhiên, thực tế sản xuất cho thấy diện tích và quy mô sản xuất của các mô hình sản xuất còn hạn chế. Quy mô sản lượng của các sản phẩm nhỏ và tỷ suất hàng hóa thấp.

Tỉnh Quảng Bình có diện tích nuôi tôm khoảng4.300 ha, chiếm khoảng 20%

tổng diện tích toàn vùng. Huyện Quảng Ninh là một trong ba huyện, thị trong tỉnh Quảng Bình có tỷ trọng nuôi tôm lớn của tỉnh với nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển ngành nuôi tôm như chiều dài đường bờ biển là 25km, diện tích đồngbằng và vùng cát ven biển chiếm 16,2% diện tích toàn huyện. Đây là sản phẩm có tỷ suất hàng hóa cao và chịu nhiều rủi ro thị trường. Vì vậy, sản phẩm tôm nuôi được lựa chọn nghiên cứu trong bài viết này.

Thực tế cho thấy, những hộ nuôi tôm nói riêng con gặp nhiều khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ: thu nhập tuy cao nhưng chưa ổn đinh, chịu tác động của dịch bệnh và nhữn bất lợi thị trường của các yếu tố đầu vào và đầu ra sản phẩm; các mối liên kết giữa hộ nuôi tôm và các tác nhân chưa được hình thành (như mối liên kết giữa hộ nuôi và doanh nghiệp chế biến), hoặc đãđược hình thành (như liên kết giữa các hộ nuôi tôm với nhau) nhưng vai trò của liên kết còn mờ nhạt, chưa thật sự mang lại lợi ích cho các tác nhân. Huyện Quảng Ninh đã đưa ra nhiều chính sách nhằm hỗ trợ và khuyến khích, tạo điềukiện thuận lợi cho hộ nuôi phát triển các mối liên kếtvớicác tác nhân trong chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi. Tuy nhiên, việc xây

Trường Đại học Kinh tế Huế

(12)

dựng chuỗi liên kết sản phẩm tôm nuôi thực sự đang gặp những khó khăn nhất định, mối liên kết giữa các tác nhân tham gia trong chuỗi, khả năng kiểm soát các vấn đề ô nhiễm môi trường,vệ sinh an toàn thực phẩmtrong từng mắt xích còn hạn chế; lợi ích giữa các tác nhân, nhấtlà củahộ nuôi tômcòn chưa được công bằng.

Do đó, tôi chọn đề tài Phân tích liên kết giữa hộ nuôi và các tác nhân trong chuỗi cung tômnuôi huyện Quảng Ninh,tỉnh Quảng Bình”làm đề tài luận văn. Đây thực sự là vấn đề cấp bách hiện nay của tỉnh, qua nghiên cứu tình hình nuôi trồng tôm trên địa bàn, tiến hành đề xuất những giải pháphoàn thiện các liên kết giữa những tác nhân trên thị trường tôm nuôi, giúp phát triển bền vững ngành nuôi tôm huyện Quảng Ninh,tỉnh Quảng Bình.

2. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn 2.1. Mục tiêu chung

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, phân tích thực trạngliên kết giữa hộ nuôi tôm và các tác nhân trong chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình; từ đó xây dựng hệ thống các giải pháp để hoàn thiệncác mối liên liên kếtnày trong thời gian tới.

2.2 . Mục tiêu cụ thể

- Hệ thống hóa cơ sở lí luận và thực tiễn về liên kết giữa hộ nuôi và các tác nhân trong chuỗi cung tôm nuôihuyện Quảng Ninh;

- Khảo sát và đánh giá thực trạng liên kết giữa hộ nuôi và các tác nhân trong chuỗi cung tôm nuôi trên địa bàn huyện Quảng Ninh,tỉnh Quảng Bình;

- Đề xuất các giải pháp nâng cao các mối liên kết giữa hộ nuôi và các tác nhân trong chuỗi cung tôm nuôihuyện Quảng Ninh,tỉnh Quảng Bình.

3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1.Đối tượng nghiên cứu

Trong chuỗi cung tôm nuôi, hộ nuôi tôm là tác nhân sản xuất ra sản phẩm nhưng lại là người yếu thế nhất trong chuỗi cung, vì vậy nghiên cứu này lấy các hộ nuôi tôm làm vị trí trung tâm và nghiên cứu các tác nhân trong thị trường thiết lập mối liên kết với các hộ nuôi tôm

Trường Đại học Kinh tế Huế

(13)

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Không gian nghiên cứu: tập trung vào các mối liên kết giữa hộ nuôi và các tác nhân trong chuỗi cung tôm nuôi trên địa bàn huyện Quảng Ninh,tỉnh Quảng Bình.

- Thời giannghiên cứu: Các số liệu thứ cấp thu thập trong giai đoạn từ 2014 – 2016, các số liệu sơ cấp thu thập tại thời điểm năm 2017 và đề ra các giải pháp nâng cao liên kếttrong những năm tiếp theo.

- Nội dung nghiên cứu: các vấn đề lý luận và thực tiễn trong các mối liên kết này trên địa bàn huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, từ đó đề ra những giải pháp nâng cao sự liên kếtnày.

4. Phương pháp nghiên cứu

4.1.Phương pháp thu thậpdữliệu

- Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp: Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp được sử dụng để thu thập các thông tin, dữ liệu có trong các báo cáo của Ủy ban nhân dân huyện, Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyệncùng một số cơ quan nhà nước, các cơ sở nuôi trồng và doanh nghiệp trên địa bàn huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Ngoài ra, dữ liệu còn được thu thập từ các bài giảng, giáo trình; các trang web, báo điện tử có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.

Bên cạnh đó, nghiên cứu còn tiến hành thu thập dữ liệu thứ cấp từ các cuộc tiếp xúc, phỏng vấn trực tiếp các chuyên gia là cán bộ quản lý, chuyên môn về lĩnh vực thủy sản và ngành hàng tôm đang công tác tại một số cơ quan cấp tỉnh, huyện và cán bộ xã. Thông tin thu thập được là những ý kiến góp ý cho đề tài nghiên cứu, cung cấp số liệu và đưa ra những nhận định ảnh hưởng tới phát triển ngành nuôi tômở địa phương.

- Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp:

Tiếnhành khảo sát cácđối tượng:Hộ nuôi tôm, nhà cungứng đầu vào và nhà thu gom, doanh nghiệp chế biến trênđịa bàn huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.

Hình thức khảo sát: Bằng bảng hỏivà phỏng vấn qua điện thoại Phương pháp chọn mẫu: Ngẫu nhiên

Trường Đại học Kinh tế Huế

(14)

Số lượng khảo sát: 70 Hộ nuôi tôm, 5 nhà cung ứng đầu vào, 1 thu gom lớn và 1 thu gom nhỏ, 1 doanh nghiệp chế biển

- Hộ nuôi tôm: Trên địa bàn huyện Quảng Ninh hiện tại có 168 hộ nuôi tôm lớn và nhỏ, chia làm 2 vùng, nuôi tôm ao cát và nuôi tôm ao đất. Nghiên cứu tiến hành khảo sát 70 hộ nuôi trên địa bàn 2 xã Hải Ninh, Võ Ninh, trong đó khảo sát 40 hộ nuôi tôm ao cát và 30 hộ nuôi tôm ao đất. Số mẫu khảo sát chiếm 42%, đảm bảo ý nghĩa thống kê.

- Nhà cung ứng đầu vào: Cung cấp đầu vào gồm giống, thức ăn và thuốc, hóa chất. Thông thường các nhà cung cấp thức ăn thường cung cấp thuốc. Trên địa bàn huyện Quảng Ninh, hiện nay không có doanh nghiệp chế biến thức ăn, thuốc, hóa chất mà chỉ tồn tại các đại lý cấp 1 và cấp 2. Để tiến hành làm rõ mối liên kết giữa các đại lýcấp 1, cấp 2 với doanh nghiệpchế biến đầu vào; ngoài phỏngvấn hộ nuôi, nghiên cứu còn tiến hành phỏng vấn 2 đại lý cấp 1 và 3 đại lý cấp 2 trên địa bàn.

- Nhà thu gom: Tiến hành phỏng vấn trực tiếp 1 nhà thu gom lớn và 1 nhà thu gom nhỏ trên địa bàn huyện Quảng Ninh.

- Doanh nghiệp chế biến: Trên địa bàn huyện Quảng Ninh hiện nay có 3 doanh nghiệp chế biến quy mô nhỏ. Do đó, nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn 1 doanh nghiệp chế biến bằng hình thức gọi điện thoại nhằm thu thập dữ liệu về những vướng mắc, tồn tại trong mối liên kết với các hộ nuôi nhằm có cái nhìn toàn diện hơn về liên kết giữa hộ nuôi và doanh nghiệp chế biến.

4.2. Phương pháp tổng hợpvà phân tích 4.2.1.Phương pháp thống kê mô tả

Trong quá trình nghiên cứu tác giả xử lý hệ thống số liệu theo phương pháp thống kê trên cơ sở sử dụng bảng tính Excel. Việc thống kê tìm ra những kết quả phản ánh thực tiễn trung thực nhất. Những kết quả thống kê được sử dụng làm cơ sở để phân tích, đánh giá, luận giải qua đó làm rõ hơn hệ thống lý thuyết căn bản.

Phương pháp phân tích mô tả được sử dụng để mô tả hiện trạng liên kết giữa những hộ nuôi tôm, giữa các nhà nuôi tôm và doanh nghiệp – nhà nước – nhà khoa học. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển các liên kết cũng được

Trường Đại học Kinh tế Huế

(15)

mô tả và phân tích làm nền tảng cho việc đề xuất các giải pháp tăng cường liên kết giữa hộ nuôi và các tác nhân trong chuỗi cung tôm nuôicủa huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Hiện trạng về các mối liên kết giữa hộ nuôi và các tác nhân trong chuỗi cung tôm nuôi trên địa bàn huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình sẽ được mô tả sử dụng chủ yếu phương pháp này.

4.2.2.Phương phápphân tích chuỗithời gian

Phương pháp phân tích chuỗi thời gian được sử dụng để so sánh, đánh giá thực trạng liên kết giữa hộ nuôi và các tác nhân trong chuỗi cung sản phẩm tôm nuôi thông việc thu thập các dữ liệu thứ cấp từ năm 2014 – 2016 và các dữ liệu sơ cấp được thu thập trong năm 2017.

5. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận,Luận văn có kết cấu gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về sự liên kết giữa hộ nuôi và các tác nhân trong chuỗi cung tôm nuôi.

Chương 2: Thực trạng liên kết giữa hộ nuôi và các tác nhân trong chuỗi cung tôm nuôitrên địa bàn huyện Quảng Ninh,tỉnh Quảng Bình.

Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả liên kết giữa hộ nuôi và các tác nhân trong chuỗi cung tôm nuôi trên địa bàn huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình thời gian tới.

Trường Đại học Kinh tế Huế

(16)

PHẦN 2: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀLIÊN KẾT GIỮA HỘ NUÔI VÀ CÁC TÁC NHÂN TRONG CHUỖI CUNG TÔM NUÔI

1.1. Một số khái niệm

1.1.1. Liên kết kinh tế và liên kết kinh tếtrong nông nghiệp 1.1.1.1. Liên kết kinh tế

Cùng với xu thế toàn cầu hóa và sự phát triển sâu rộng của chuỗi giá trị toàn cầu, liên kết kinh tế là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu tạo ra sự thành công đối với một quốc gia, địa phương và doanh nghiệp. Chính các mối quan hệ liên kết đã đưa đến cho các chủ thể những cơ hội để nhận được những lợi ích lớn hơn, an toàn hơn và nhân bản hơn.

Xét ở tầm vĩ mô, liên kết kinh tế thể hiện thông qua việc thiết lập các liên minh kinh tế giữa các quốc gia, địa phương hoặc vùng lãnh thổ để hình thành nên các định chế khu vực ở các mức độ khác nhau. Trong khi đó, liên kết ở tầm vi mô được thực hiện thông qua sự thiết lập các mối quan hệ hợp tác kinh doanh giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Việc đẩy mạnh liên kết ở tầm vi mô, đến một mức độ nhất định sẽ tác động ngược lại đối với liên kết vĩ mô, nó thúc đẩy các quan hệ liên kết vĩ mô phát triển, chuyển hóa theo hướng thuận lợi cho liên kết vi mô phát huy tác dụng. Như vậy, liên kết ở tầm vĩ mô là tiền đề tốt để thúc đẩy việcthiết lập và mở rộng các quan hệ liên kết kinhtế ở tầm vi môgiữa các chủ thể sản xuất, kinh doanh tham gia vào quá trình liên kết.Trong phạm vi luận văn sẽ tập trung tìm hiểu mối kết ở tầm vi mô, cụ thể là mối liên hệ giữa hộ nông dân và các chủ thể khác trong nền kinh tế.

Liên kết kinh tế là sự thiết lập các mối quan hệ giữa các chủ thể sản xuất, kinh doanh, có thể giữa các doanh nghiệp thuộc cùng lĩnh vực hoạt động, giữa các đối tác cạnh tranh hoặc giữa các doanh nghiệp có các hoạt động mang tính chất bổ sung, nhằm tiết kiệm thời gian, tiết kiệm chi phí, đạt hiệu quả cao hơn các khả năng, mở ra những thị trường mới.

Trường Đại học Kinh tế Huế

(17)

Trong khi đó, các chuyên gia khácđãđưa ra khái niệm liên kết kinh tế ở tầm khái quát hơn: “Liên kết kinh tế là sự chủ động nhận thức và thực hiện mối liên hệ kinh tế khách quan giữa các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế - xã hội, nhằm thực hiện mối quan hệ phân công và hợp tác lao động để đạt tới lợi ích kinh tế - xã hội chung” hay “Liên kết kinh tế là sự hợp tác của hai hay nhiều bên trong quá trình hoạt động kinh tế, cùng mang lại lợi ích cho các bên tham gia. Mục tiêu của liên kết kinh tế là các bên tìm cách bù đắp thiếu hụt và khắc phục hạn chế của mình từ sự phối hợp hoạt động với đối tác”.

Nhìn chung, liên kết kinh tế là một trong những hình thức hợp tác ở trìnhđộ cao của con người trong quá trình sản xuất kinh doanh, bao gồm các hoạt động hợp tác và phối hợp thường xuyên do các đơn vị kinh tế tự nguyện tiến hành để cùng đưa ra và thực hiện các chủ trương, biện pháp có liên quan đến công việc sản xuất, kinh doanh của các bên tham gia nhằm thúc đẩysản xuất, kinh doanh phát triển theo hướng có lợi nhất. Nguyên tắc thực hiện liên kết phải dựa trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, các bên cùng có lợi. Những cơ sở này phải được thống nhất, thể hiện trên văn bản hợp đồng ký kết giữa các bên tham gia và phù hợp với khuôn khổ pháp luật của các quốc gia. [7,8]

Dù phát triển ở hình thức nào, các mối quan hệ liên kết kinh tế đều hướng đến những mục tiêu chung là tạo ra mối quan hệ kinh tế ổn định. Thông qua các hợp đồng kinh tế hoặc các quy chế hoạt động để tiến hành phân công sản xuất chuyên môn hoá và hợp tác hoá, nhằm khai thác tốt tiềm năng, thế mạnh của từng đơn vị tham gia liên kết. Hoặc để cùng nhau tạo thị trường chung, phân định hạn mức sản lượng cho từng đơn vị thành viên, giá cả cho từng loại sản phẩm nhằm bảo vệ lợi ích của nhau và giảm thiểu, dàn trải các rủi ro nếu có.

1.1.1.2 Liên kết kinh tế trong nông nghiệp

Trong nền nông nghiệp mới, sự liên kết kinh tế là rất cần thiết. Sự liên kết kinh tế trong nông nghiệp được hiểu là liên kết giữa các vùng sảnxuất nông nghiệp trong những ngành hàng liên vùng, giữa nông nghiệp với công nghiệp,dịch vụvà

Trường Đại học Kinh tế Huế

(18)

giữa chính nông dân với nhau để tăng quy mô sản xuất kinh doanh, giảm chi phí giao dịch, tăng cạnh tranh.

Trong phạm vi luận văn, khái niệm liên kết kinh tế trong nông nghiệp sẽ được hiểu sự hợp tác của các đối tác trên chuỗi ngành hàng nông sản để đưa nông sản từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ nhằm tìm kiếm những cơ hội đem lại lợi nhuận từ sự liên kết này,cô đọng trong mối quan hệ liên kết kinh tế giữa nông dânvới một hoặc nhiều chủ thể kinh tế khác tại địa bàn huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.

Đó là mối liên kết ngạng giữa chính nông dân; mối liên kết dọc giữanông dân với các doanh nghiệp trên địa bàn; ngoài ra luận văn còn đề cập qua về các mối liên kết giữa nông dân với nhà nước, chính quyền địa phương, các nhà khoa học, trường học, viện nghiên cứu.

Một hình thức liên kết kinh tế trong nông nghiệp được xem là tiến bộ khi nó đạt được các tiêu chí: i) Liên kết đó đảm bảo tôn trọng tính độc lập của các đơn vị sản xuất nông nghiệp đối với sở hữu tư liệu sản xuất và sản phẩm sản xuất ra; ii) liên kết đó phải tăng khả năng cạnh canh của nông sản sản xuất ra như về chi phí, mẫu mã, an toàn thực phẩm;iii) liên kết đó phải bền vững và đảm bảo phân chia lợi ích phù hợp giữa các đối tác, đặc biệt đối với nông hộ; iv) liên kết đó đảm bảo nông sản đáp ứng được nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế.[5,13]

Tổ chức Hợp tác phát triển Đức (GTZ) có nhiều nghiên cứu về liên kết kinh tế nông nghiệp thông qua mô hình chuỗi giá trị tại một số tỉnh thành ở Việt Nam.

Kết quả của các nghiên cứu này cho thấy rằng mặc dù có rất nhiều tiềm năng đã được khám phá trong chuỗi giá trị ở một số ngành như cà phê, bơ, rau sạch…Tuy nhiên, việc liên kết này vẫn bộc lộ nhiều thiếu sót và trở ngại chính trong quá trình thực hiện như:

- Mối liên hệ và hợp tác lỏng lẻo của các tác nhân dọc theo chuỗi;

- Người sản xuất thường không chú ý đến thị trường và các yêu cầu của thị trường;

- Cơ cấu hỗ trợ đào tạo, nghiên cứu và phát triển còn lạc hậu;

- Chưa có một cơ chế liên kết rõ ràng;

Trường Đại học Kinh tế Huế

(19)

- Hoạt động tự phát và không có chiến lược, mục tiêu dài hạn…

Do vậy, để triển khai và nhân rộng mô hình này được thành công và bền vững, các bên tham gia cần hiểu rõ vai trò, trách nhiệm của mình trong liên kết chuỗi, việc phân chia lợi ích, chia sẻ rủi ro phải rõ ràng và phải có một chương trình hành động cụ thể, xác định mục tiêu dài hạn mong muốn đạt tới với sự tham gia của tất các bên là điều cần thiết.

1.1.2. Nuôi tôm

Tôm là loài chân khớp có thể trạng nhỏ, thân mềm nên công tác nuôi tôm phức tạp đòi hỏi kỹ thuật cao hơn và khó khăn hơn nhiều so với cá bao gồm các khâu cho tôm ăn, kiểm tra môi trường nước, theo dõi sức khỏe tôm, sử dụng thuốc, hóa chất, xử lý môi trường….

Có nhiều loại tôm tại Việt Nam, tuy nhiên luận văn chỉ tập trung nghiên cứu 2 loại tôm phổ biến tại địa bàn khảo sát là tôm sú và tôm thẻ chân trắng.Thời gian nuôi tôm sú mất khoảng 5 tháng trong khi đó tôm thẻ chân trắng chỉ mất 3 tháng.

Có 4 hình thức nuôi tôm (1) Nuôi tôm quảng canh (2) Quảng canh cải tiến (3) Hình thức nuôi tôm bán thâm canh (4) Hình thức nuôi tôm thâm canh. Các hộ nuôi khảo sát chỉ tập trung chủ yếu 2 hình thức nuôi là thâm canh và bán thâm canh.

Cả hai hình thức này sử dụng giống và thức ăn công nghiệp và đầu tư cơ sở hạ tầng đầy đủ. Nuôi tôm theo hình thức thâm canh và bán thâm canh đòi hỏi các yêu cầu về kỹthuật, môi trường nước và lượng oxy hòa tan … Hình thức nuôi này đòi hỏi người nuôi phải có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn cao, trang thiết bị, cơ cở vật chất kỹ thuật hiện đại và nguồn vốn đầu tư lớn. Tuy nhiên, hầu hết người nuôi tôm đều không qua trường lớp đào tạo tập huấn chuyên môn về kỹ thuật nuôi tôm mà chủ yếu tham gia nuôi và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.

Nếu phân theo vùng nuôi được chia làm 2 vùng nuôi vùng ven sông nước lợ nuôi ao đất và vùng ven biển nuôi ao cát, hàng ngày nước được thải qua ao xử lý môi trường và xả ra biển hoặc sông. Vì thực tế nguồn nước thải ra môi trường tự nhiên không được xử lý do đó nguồn nước ngày càng bị ô nhiễm nghiêm trọng và nguy cơ lây lan dịch bệnh lớn.

Trường Đại học Kinh tế Huế

(20)

Những hộ chủ yếu nuôi thâm canh trên cát, được tiến hành bằng cách xây dựng hồ nhân tạo trên những bãi cát ven biển, chống thấm bằng lớp vải kỹ thuật ở đáy và ven bờ rồi phủ một lớp cát lên trên. Hình thức này gọi là hình thức nuôi tôm công nghiệp cao triều. Mặc dù trên lý thuyết 2 hình thức nuôi này không bị ảnh hưởng bởi thủy triều, các yếu tố ngoại lai ở trong môi trường nước tự nhiên thâm nhập và tránh được các mầm bệnh thủy sinh mang lại nhưng trên thực tế nuôi trồng thủy sản và đặc biệt nuôi tôm vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro như tùy theo nguồn lực của hộ để xây dựng hệ thống ao hồ, tùy theo trình độ kỹ thuật của hộ và ý thức của hộ đối với bảo vệ môi trường nước.

1.1.3. Chuỗi cung

Khái niệm chuỗi cung ứng (supply chain) xuất hiện từ những năm 60 của thế kỉ XX. Chuỗi cung ứng là sự liên kết các công ty nhằm đưa sản phẩm hay dich vụ vào thị trường (Lambert và Cooper, 2000). Như vậy, chuỗi cung ứng bao gồm mọi công đoạn có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến việc đáp ứng nhu cầu khách hàng. Chuỗi cung ứng là một mạng lưới các lựa chọn sản xuất và phân phối nhằm thực hiện các chức năng thu mua nguyên liệu, chuyển đổi nguyên liệu thành bán sản phẩm và thành phẩm, phân phối chúng cho khách hàng. Hay chuỗi cung ứng không chỉ gồm nhà sản xuất hay nhà cung cấp, mà còn nhà vận chuyển, kho, người bán lẻ và bản thân khách hàng. [3,25]

Theo khái niệm của từ điển Wikipedia [24], chuỗi cung là “Hệ thống của cách thức tổ chức, con người, công nghệ, hoạt động, thông tin và các nguồn lực liên quan trong việc đưa sản phẩm hay dịch vụ từ người sản xuất đến người tiêu dùng.

Các họat động của chuỗi cung chuyển đổi nguồn tài nguyên tự nhiên, nguyên liệu thô và các thành phần thành những sản phẩm hoàn chỉnh và tổ chức đưa sản phẩm đến người tiêu dùng cuối cùng”.Đây không phải là một khái niệm quá mới vì theo Chen và Paulraj (2004), khái niệm này đãđược sử dụng một cách rộng rãi trong các lĩnh vực khác nhau như quản lý hoạt động, marketing, quản lý chiến lược, lý thuyết tổ chức và hệ thống thông tin quản lý. Tuy nhiên, việc áp dụng khái niệm này trong

Trường Đại học Kinh tế Huế

(21)

phân tích những sản phẩm nông nghiệp hay phát triển nông thôn hầu như còn khá mới mẽ và hạn chế.

Về cơ bản một chuỗi cung ứng bao gồm một hành trình liên kết giữa các nhân tố trong đó có 3 hoạt động cơ bản nhất, gồm:

- Cung cấp: tập trung vào các hoạt động mua nguyên liệu như thế nào? Mua từ đâu và khi nào nguyên liệu được cung cấp nhằm phục vụ hiệu quả quá trình sản xuất.

- Sản xuất: là quá trình chuyển đổi các nguyên liệu thành sản phẩm cuối cùng.

- Phân phối: là quá trìnhđảm bảo các sản phẩm sẽ được phân phối đến khách hàng cuối cùng thông qua mạng lưới phân phối, kho bãi, bán lẻ một cách kịp thời và hiệu quả.

Trên cơ sở nghiên cứu một số khái niệm về chuỗi cung ứng, có thể kết luận rằng chuỗi cung ứng bao gồm các hoạt động của mọi đối tượng có liên quan từ mua nguyên liệu, sản xuất rasản phẩm cho đến cung cấp cho khách hàng cuối cùng. Nói cách khác, chuỗi cung ứng của một mặt hàng là một quá trình bắt đầu từ nguyên liệu thô cho tới khi tạo thành sản phẩm cuối cùng và được phân phối tới tay người tiêu dùng nhằm đạt được hai mục tiêu cơ bản, đó là: tạo mối liên kết với nhà cung cấp của các nhà cung ứng và khách hàng của khách hàng vì họ có tác động đến kết quả và hiệu quả của chuỗi cung ứng; hữu hiệu và hiệu quả trên toàn hệ thống.

1.2. Liên kết giữa hộ nuôi và các tác nhân trong chuỗi cung tôm nuôi 1.2.1. Các tác nhân tham gia liên kết

1.2.1.1. Hộ nuôi tôm

Là chủ thể chính tham gia vào quá trình sản xuất tôm nên vai trò của hộ nuôi tôm gắn kết chặt chẽ với vai trò của ngành thủy sản trong nền kinh tế.Hộ nuôi tôm bao gồm các hộ gia đình, cá nhân, các tổ chức, doanh nghiệp tham gia trong hoạt động nuôi tôm.

Thông thường những hộ nông dân này tự tìm hiểm kỹ thuật và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau chứ không được đào tạo qua trường lớp chính quy. Mô hình nuôi chủ yếu theo mô hình thâm canh, một năm có 2 mùa chính và 1 mùa phụ. Để vụ

Trường Đại học Kinh tế Huế

(22)

nuôi thu hoạch được hiệu quả, đòi hỏi hộ nông dân cần tuân thủ chặt chẽ các yếu tố kỹ thuật theo tiêu chuẩn của ngành, sử dụng hợp lý các chi phí trong quá trình nuôi để mang lại lợi ích kinh tế. Mô hình nuôi được các hộ áp dụng là nuôi thâm canh theo quy trình, kỹ thuật kết hợp với kinh nghiệm dân gian của nghề nuôi tôm. Tôm sau thu hoạch sẽ được bán trực tiếp cho các đại lý thu mua hoặc bán ra ngoài cho thị trường bán lẻ.

1.2.1.2. Các doanh nghiệp

Tùy từng điềukiện, nhà doanh nghiệp cung cấp giống, vật tư, kỹ thuật hỗ trợ nông dân sản xuất hàng hóa. Đồng thời,doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm đầu ra cho nồng dân.Các doanh nghiệp có thể là nhà cung ứng đầu vào, nhà thu gom, doanh nghiệp chế biến…

- Nhà cung ứng đầu vào có thể là doanh nghiệp/cá nhân cung cấp tất cả các loại vật tư đầu vào cho nuôi tôm (giống, thức ăn, thuốc thú y thủy sản, hóa chất…) nhưng cũng có thể là doanh nghiệp/cá nhân chỉ chuyên cung cấp 1 loại vật tư đầu vào cụ thể. Các doanh nghiệp/cá nhân này cũng có thể là người sản xuất trực tiếp các loại vật tư đầu vào cung cấp cho nuôi tôm nhưng phần lớn là các đại lí cho các đơn vị sản xuất các loại vật tư đầu vào này và cung cấp lại cho hộ nuôi tôm. Hiện nay, hệ thống cung cấp vật tư đầu vào cho nuôi tôm được hình thành tương đối tự phát gắn với sự phát triển của các vùng nuôi tôm. Bên cạnh chức năng cung cấp vật tư, hệ thống này thường kiêm luôn chức năng tư vấn cho hộ nuôi tôm về cách thức sử dụng thuốc, hóa chất, thức ăn… trong quá trình sản xuất do hệ thống tư vấn kĩ thuật về thủy sản (như khuyến ngư) hiện nay chưa đáp ứng được hết yêu cầu của hoạt động sản xuất. Mặt khác, hệ thống này cũng có thể có vai trò tương tự như một nguồn cung cấp tín dụng bằng hiện vật cho hộ nuôi tômkhi cần thiết (thường được gọi làứng trước vật tư).

- Nhà thu gom: Do đặc thù của ngành thuỷ sản là phải thu gom tận nơi nuôi trồng nên từ xưa đến nay, đội ngũ nhà thu gom luôn đồng hành với hoạt động sản xuất và làm ăn của các ngư dân và doanh nghiệp thuỷ sản. Có những nhóm nhà thu gom chuyên thu gom hàng cho các doanh nghiệp chế biến. Những người này đóng

Trường Đại học Kinh tế Huế

(23)

vai trò trung gian giữa ngư dân và nhà máy. Họ thường không quản ngại đường xá đi đến tận vùng xa xôi để thu gom hàng cho nhà máy. Họ cũng là những người mà bất kể đêm hay ngày, nắng hay mưa...sẵn sàng tới nơi đánh bắt thuỷ sản để chọn mua hàng. Nhà thu gom cũng chính là cầu nối giữa doanh nghiệp chế biến và ngư dân trong việc phổ biến các chính sách liên quan đến hàng hoá. Nếu có một yêu cầu gì cụ thể về chất lượng, tiêu chuẩn hàng hoá, doanh nghiệp chế biếnchỉ cần nói với nhà thu gom và những người này sẽ ngay lập tức thông báo tới tất cả các hộ nuôi trồng. Những nhà thu gom không gom hàng cho các doanh nghiệp thì chuyên gom hàng để giao cho các chợ đầu mối, hay các nhà hàng, khách sạn... Đối với các ngư dân, do tập quán làm ăn nhỏ lẻ nên họ cũng rất thích mua bán với các nhà thu gom.

Trong con mắt của hộ nuôi tôm, nhà thu gom là những người mua bán rất nhanh gọn, giao tiền ngay sau khi gom hàng. Điều này khác hoàn toàn với việc bán cho doanh nghiệp. Nếu các doanh nghiệp xuống tận nơi thu mua thì họ không thanh toán ngay mà yêu cầu ngư dân phải lên công ty thanh toán, do việc chi trả của doanh nghiệp đòi hỏi phải có hoá đơn.

- Doanh nghiệp chế biến: chủ yếu là các doanh nghiệp tư nhân ở nhiều quy mô khác nhau. Các doanh nghiệp này là cầu nối quan trọng để đưa sản phẩm tôm đến với người tiêu dùng sau các công đoạn chế biến. Các doanh nghiệp chế biến tôm thường cóhai chức năng chính là chế biến tôm và kinh doanh tôm. Tuy nhiên, gần đây do tình hình biến động thị trường và sự thiếu ổn định về nguyên liệu nên nhiều doanh nghiệp chế biến tôm đã chủ động trực tiếp nuôi tôm để đảm bảo nguồn nguyên liệu- tạo rathêm chức năngthứba cho các doanh nghiệp chế biến này. Trên thực tế cũng có một số những hộ nuôi tôm sau một thời gian dài nuôi tôm thành công, tích lũy đủ nguồn lực đầu tư phát triển sang lĩnh vực chế biến và tạo dựng nên các doanh nghiệp chế biến tôm và các doanh nghiệp này thường có liên kết tựnhiên và rất chặt chẽ với khâu nuôi tôm vốn có từ trước. Hình thức liên kết này thường khá bền vững do được điều hành thống nhất bởi cùng một chủ chủ sở hữu như đã mô tả ở trên và đượcgọi là liên kết trong nội bộ.

Trường Đại học Kinh tế Huế

(24)

1.2.1.3. HTX, THT

HTX là một tổ chức kinh doanh thuộc sở hữu và được điều hành bởi một nhóm các cá nhân vì lợi ích chung của họ. HTX được Liên minh quốc tế hợp tác xã địnhnghĩa là "Một hiệp hội tự trị của những người đoàn kết tự nguyện để đáp ứng nhu cầu chung của kinh tế, xã hội và văn hóa và nguyện vọng thông qua các doanh nghiệp đồng sở hữu và kiểm soát dân chủ".Hợp tác xã cũng có thể được định nghĩa là một doanh nghiệp thuộc sở hữu và thuộc quyền kiểm soát của những người sử dụngdịch vụ do hợp tác xã cung cấp hoặccủa những người làm việc ở đó.[25]

THTở Việt Nam tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau như tổ hợp vốn, tổ hợp sức lao động để thực hiện các hoạt động sản xuất mà từng hộ nông dân không thể thực hiện được hoặc tự mình thực hiện không hiệu quả. THT hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện tham gia của các thành viên có cùng nhu cầu chung để đạt được hiệu quả kinh tế cao hơn. Ngoài ra, THT còn có vai trò quan trọng khác gồm hỗ trợ sản xuất, kinh doanh của các hộ thành viên, tạoviệc làm và tăng thu nhập cho một bộ phận người lao động. Về mặt tổ chức hoạt động, các THT có quy mô tương đối nhỏ từ 10-13 hộ. Nội dung hoạt động thiết thực phục vụ nhu cầu của người tham gia hỗ trợ lẫn nhau công lao động, hỗ trợ lẫn nhau về vốn hay hỗ trợ lẫn nhau nguyên vật liệu đầu vào. Tuy nhiên hình thức hợp tác này mang tính chất ngắn hạn, các liên kết còn lỏng lẻo theo từng sự vụ. THT là nền tảng để hình thành HTX dựa trên cơ sở các thành viên hợp tác với nhau một cách tự nguyện, tự chủ.

THT khác với HTX về mặt pháp lý, HTX với tư cách là doanh nghiệp. Động lực tham gia hợp tác của nông dân rất đa dạng, bao trùm tất cả các khía cạnh kinh tế, xã hội, môi trường, sức khỏe. Mặc dù kinh tế vẫn là động lực hàng đầu nhưng người nông dân vẫn quan tâm đến các nhu cầu khác lần lượt bao gồm kỹ thuật sản xuất, tham gia tương trợ tăng cường gắn kết cộng đồng và giảm thiểu ô nhiễm môi trường (Đặng Đình Long và cs (2015).

1.2.1.4. Các nhóm hỗ trợ

- Chính phủ, chính quyền địa phương: tạo ra môi trường thuận lợicho cả sản xuất và kinh doanh liên quan đến tôm nuôi. Các chính sách về giống, thức ăn, tín

Trường Đại học Kinh tế Huế

(25)

dụng, quản lí thị trường, môi trường… có tác động rất lớn đối với sự tồn tại và phát triển cũng như kết quả của cả ngành này. Thực tế, các tác động tiêu cực có quy mô lớn sẽ không thể được giải quyết chỉ với nỗ lực của những người sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực này mà cần có các sự can thiệp, hỗ trợ kịp thời của Nhà nước.

Mặt khác, các chính sách của Nhà nước sẽ có vai trò hướn sự phát triển của ngành đến mục tiêu hiệu quả và bền vữn trong dài hạn.

- Nhà khoa học, trường học, viện nghiên cứu:Nhà khoa học ngoài lợi ích cục bộ thì họ phải hướng đến vai trò của họ là giải quyết vấn đề gì để giúp cho ngành tôm, hộ nuôi tômphát triển;chính sự phát triển này đảm bảosự tồn tại và phát triển của các nhà khoa học nói chung. Nhà khoa học có nhiệm vụ và nghĩa vụ phổ biến, hướng dẫn cho người nuôivề các kỹ thuật nuôi trồng; hỗ trợ cho doanh nghiệp ứng dụng khoa học kỹ thuật nhằm mục đích tăng số lượng và chất lượng sản phẩm.

1.2.2. Liên kết ngang 1.2.2.1. Khái niệm

Liên kết ngang là hình thức tổ chức màtrong đó mỗi bên tham gia là một chủ thể, đơn vị riêng biệt nhưng có mối quan hệ ngang với nhau trong cùng luồng hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết quả của liên kết ngang hình thành nên những tổ chức liên kết nhưHTX, THT...[7,8]

Liên kết ngang trongngàng nuôi tôm cũng có khái niệm cơ bản tương tự như các liên kết ngang nói chung trong đó nhiều hộ nuôi tôm hoặc nhiều doanh nghiệp có thể thiết lập các quan hệ với nhau về quyền lợi và trách nhiệm theo chiều ngang nhằm tăngquy mô sản xuất cho hộ nuôi tôm hướng tới hiệu quả cao hơn trong nuôi tôm hoặc nhằm tăng khả năng thu hút nguyên liệu cho các nhà máy chế biến, tăng cường năng lực cho các doanh nghiệpchế biến tôm khi tham gia thị trường.

Về bản chất, liên kết giữa những hộ nuôi tôm với nhau là một liên kết ngang dựa trên sự tự nguyện của những hộ nuôi tôm cùng hợp tác trong sản xuất [17]. Các liên kết ngang này thường hình thành nên các HTX, THT hoặc đơn giản là các nhóm, câu lạc bộ… mang tính chất tự phát. Sự đảm bảo của liên kết này chủ yếu dựa trên các thỏa thuận không chính thức (không hợp đồng bằng văn bản,

Trường Đại học Kinh tế Huế

(26)

không có công chứng…) giữa chính những người tham gia, ngoại trừ các HTX, THTthường được chính quyền địa phương ra quyết định thành lập. Điểm khác biệt lớn nhất ở đây là yêu cầu các diện tích đất sản xuất được đưa vào hợp tác, liên kết trong nuôi tôm cần phải có vị trí gần nhau, tổ chức sản xuất phải theo lịch thời vụ thống nhất, giải pháp kĩ thuật trong sản xuất phải theo một hướng dẫn chung để có khả năng tạo được sản lượng đủ lớn và tập trung trong mộtthời điểm, đồng nhất về tiêu chuẩn, chất lượng với chi phí sản xuất thấp nhất. Nói cách khác, các nội dung liên kết nàytương đối phức tạp, gắn với nhiều lĩnh vực trong sản xuất. Mặc dù vậy, trừ trường hợp liên kết hình thành HTX, THT, các hình thức liên kết khác thường không được thểhiện bằng các hợp đồng hoặc các loại hình cam kết được cơ quan có

thẩm quyền chứng thực. Do vậy, liên kết ngang giữa những hộ nuôi tôm dễ thành lập nhưng cũng dễ tan rã khi gặp những cản trở hoặc bất lợi trong quá trình hoạt động.(Hình 1.1)

Hình 1.1: Mô hình liên kết ngang giữa những hộ nuôi tôm

Về hình thức, liên kết ngang giữa những hộ nuôi tôm là hình thức liên kết giữa những hộ nuôi tôm trong cùng một địa bàn (các ao nuôi tôm có vị trí ở gần nhau) nhằm tăng quy mô sản xuất và có thể sử dụng chung một số dịch vụ hỗ

Hộ nuôi tôm

Hộ nuôi tôm

Hộ nuôi tôm

HỢP TÁC XÃ, TỔ HỢP TÁC….

- Vị trí - Diện tích - Thời vụ -Cơ sở hạ tầng

Trường Đại học Kinh tế Huế

(27)

trợ nhất là về cơ sở hạ tầng để giảm chi phí sản xuất. Liên kết nhằm tập trung sản lượng của nhữnghộ nuôi tôm vào cùng một thời điểm. Việc thống nhất lịch thời vụ cũng giúp phòng tránh dịch bệnh tốt hơn và quy mô lớn hơn sẽ tăng khả năng tiếp cận tín dụng hay ứng trướcvật tư tạo điều kiện thuận lợi.

1.2.2.2. Lợi ích của liên kết ngang và khó khăn trong quá trình xây dựng liên kết ngang

Khác với liên kết dọc phát triển theo hướng chuyên môn hóa sản xuất, phân khúc sản xuất theo chuỗi thì liên kết ngang là phát triển theo hướng tập trung hóa cả trong sản xuất và tiêu thụ. Liên kết ngang là loại hình liên kết phù hợp vớimục tiêu hỗ trợ nâng caokhả năng cạnh tranh cho những lĩnh vực sản xuất như nông nghiệp với chủ thể chính là các hộ gia đình nông dân sản xuất ở quy mô nhỏ lẻ. Liên kết ngang cũng có thể sử dụng để giải quyết mâu thuẫn, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp tham gia vào thị trường lớn, nơi tập trung nhiều doanh nghiệp có tiềm lực mạnh, thị phần lớn.

Nhìn chung, hình thức liên kết này mang lại khá nhiều lợi ích cho những người tham gia. Tuy nhiên, trên thực tế hình thức liên kết này cũng gặp nhiều cản trở trong quá trình hình thành và phát triển do những nguyên nhân khá đặc thù của ngành: i) thứ nhất, do đặc tính “tư hữu” và “cá thể” của hộ nuôi tôm nên khả năng làm việc theo nhóm rất hạn chế; ii) thứ hai, do những thành viên tham gia liên kết cần phải có diện tích đất nuôi tôm nằm cạnh nhau nên thường rất khó tổ chức liên kết do đặc tính manh mún và phân tán của hoạt động này; iii) thứ ba, mức độ rủi ro trong nuôi tôm là rất lớn nhưng lại có thể rất không đồng đều theo địa bàn và thời điểm nên rất khó thuyết phục hộ nuôi tôm chia sẻ rủi ro với nhau trong dài hạn. Giải quyết được những vướng mắc này một cách hợp lí sẽ tăng cường được các liên kết ngang giữa những hộ nuôi tôm và qua đó nâng cao được lợi ích cuối cùng cho chính nhóm người sản xuất này.

Trường Đại học Kinh tế Huế

(28)

1.2.3. Liên kết dọc 1.2.3.1 Khái niệm

Liên kết dọc là quan hệ tấtyếu hình thành trong quá trình phát triển các chuỗi giá trị nông sản. Liên kết dọc kết hợp các khâu như sản xuất, phân phối, mua bán hoặc các hoạt động sản xuất kinh doanh khác trong một chuỗi duy nhất. Liên kết dọc trong nông nghiệp hình thành từ hai áp lực chính: một là đòi hỏi ngày càng khắt khe của thị trường về chất lượng sản phẩm và an toàn thực phẩm và hai là sự ổn định nguyên liệu và giá nguyên liệu cho chế biến. Đồng thời, liên kết dọc phát sinh do yêu cầu thích ứng với thị truờng hiện đại dẫn dến việc hình thành các chuỗi giá trị nông sản thực phẩm. [4]

Liên kết dọc chú trọng đến cả quá trình sản xuất và phân phối và do đó các tác động trong mối quan hệ này cũng nhắm đến phạm vi của cả chuỗi hơn là chỉ nhằm điều tiết một đầu vào cụ thể nào đó của quá trình sản xuất. Nói cách khác, mỗi tác nhân tham gia trong liên kết dọc sẽ phải tự chịu trách nhiệm với phân khúc của mình trong mối liên hệ với các phân khúc phía sau - đảm bảo số lượng, chất lượng và tiến độ để cả chuỗi sản xuất tiêu thụ luôn được thông suốt. Như vậy, liên kết dọc có thể được coi là một hình thức tổ chức sản xuất được tạo ra để xác định mối quan hệ của các giai đoạn sản xuất kế tiếp nhau. Như vậy, liên kết dọc đượchiểu là là mối liên kết giữa các tác nhân ở các mắt xích liên tiếp trong sản xuất của một chuỗi ngành hàng nhằm quản trị bền vững các giai đoạn sản xuất khác nhau, tạo ra và phân phối giá trị gia tăng hợp lý giữa các tác nhân trong chuỗi ngành hàng đó.

Trong phạm vi luận văn, liên kết dọc trong ngành nuôi tôm được hiểulà liên kết giữahộ nuôi tômvớicác nhà cung ứng đầu vào, nhà thu gom, các doanh nghiệp chế biến –xuất khẩunhằm tạo ra hiệu quả, kết quả sản xuất kinh doanh tốt hơn cho các tác nhân này thông qua các nội dungliên kết nhằm phân bổ giá trị gia tăng hợp lí. Với nhu cầu phát triển và đòi hỏi chất lượng ngày càng cao, hoạt động của ngành nuôi tôm cần có sự tham gia của chính quyền, các nhà khoa học, các tổ chức tài chính… điều này đã làm mối quan hệ giữa các chủ thể trong ngành ngày càng chặt chẽ hơn.

Trường Đại học Kinh tế Huế

(29)

1.2.3.2. Lợi ích của liên kết dọc

Ngày nay, khái niệm chuyên môn hóa sản xuất ngày càng trở nên phổ biến nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm ở từng chi tiết riêng lẻ. Quá trình chuyên môn hóa có thể được tổ chức ở trong cùng một doanh nghiệp, tập đoàn nhưng cũng có thể được tổ chức theo dạng liên kết dọc giữa các nhà sản xuất, trong đó nhà sản xuất ở khâu tiếp sau sẽ là người sử dụng/tiêu thụ sản phẩm của nhà sản xuất ở khâu phía trước. Như vậy, liên kết dọc cho phép các sản phẩm và dịch vụ được xâu chuỗi lại với nhau từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng. Việc tổchức sản xuất kinh doanh như vậy đã dần hình thành nên khái niệm “liên kết dọc” như ngày nay - được thực hiện theo trật tự các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh theo dòng vận động của sản phẩm.

Kiểu liên kết theo chiều dọc toàn diện nhất bao gồm tất cả các giai đoạn từ cung ứng đầu vào, sản xuất, chế biến nguyên liệu đến đóng gói, phân phối thành phẩm. Trong mối liên kết này, các chủ thể ở giữa chuỗi ngành hàng đều có vai trò là khách hàng của chủ thể ở khâu trước đó đồng thời là người cung cấp sản phẩm cho các khâu tiếp theo. Kết quảcủa liên kết dọc là hình thành nên một chuỗi giá trị của một ngành hàng cụ thể và có thể làm giảm đáng kể các chi phí trung gian. Vấn đề phân bổ giá trị và chia sẻ rủi ro giữa các tác nhân tham gia trong chuỗi liên kết là một trong những nội dung chính của hầu hết các liên kết đã và đang được xây dựng trong sản xuất nông nghiệp của Việt Nam nói chung. Giải quyết được hài hòa yêu cầu này sẽ đảm bảo tính hiệu quả và bền vững của các liên kết.

1.2.3.3. Mức độ liên kết

Có ba mức độ liên kết dọc như sau:

* Hình thức liên kết ở mức thấp: là liên kết giữa người sản xuất – nhà chế biến – nhà bán lẻ dưới dạng quan hệ thời điểm, không có hợp đồng sản xuất – tiêu thụ, chủ yếu là mua đứt bán đoạn. Hình thức liên kết này cũng không bảo đảm chất lượng sản phẩm và an toàn thực phẩm vì không bị ràng buộc chặt chẽ trong quan hệ giao dịch. Rủi ro về biến động giá và cung ứng nguyên liệu rất cao, vì sản lượng nguyên liệu đầu vào cho chế biến không được kiểm soát chặt chẽ. Thiệt hại nhiều

Trường Đại học Kinh tế Huế

(30)

nhất đến với người sản xuất vì dễ bị ép giá, hoặc không được trả tiền khi nhà chế biến gặp rủi ro. Nhà chế biến lại lệ thuộc vào nhà bán lẻ.[28]

* Hình thức liên kết dưới dạng sản xuất theo hợp đồng: có hợp đồng sản xuất – bao tiêu sản phẩm giữa người sản xuất và nhà chế biến; và giữa nhà chế biến và nhà bán lẻ. Hợp đồng quy định rõ số lượng, chất lượng, quy trình sản xuất của sản phẩm, cơ chế thưởng phạt giữa hai bên. Tuy nhiên, dạng liên kết này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro khi người sản xuất hoặc nhà chế biến không tuân thủ hợp đồng vì lợi ích riêng của mình khi có biến động thị trường.

Một hình thức đặc biệt của sản xuất theo hợp đồng là sản xuất gia công.

Theo hình thức này, người sản xuất tự đầu tư đất đai, nhà xưởng, trang thiết bị sản xuất. Nhà chế biến đầu tư một phần vốn sản xuất dưới dạng phân bón, thức ăn gia súc, con giống, và hỗ trợ kỹ thuật. Người sản xuất cung cấp sản phẩm theo hợp đồng theo mức giá thỏa thuận, và giảm rủi ro về thị trường tiêu thụ, ổn định thị trường và giá bán, có thể tính toán trước doanh thu, lợi nhuận, và giảm một phần vốn sản xuất. Ngược lại, nhà chế biến có vùng nguyên liệu gia công, bảo đảm ổn định nguyên liệu chế biến, ổn định giá, ít lệ thuộc vào biến động thị trường. Mô hình này ràng buộc trách nhiệm chặt chẽ hơn và thường có sự tham gia của ngân hàng. Người sản xuất được cho vay vốn đầu tư khi có hợp đồng gia công vì bảo đảm được đầu ra. Nhà chếbiến cũng được vay dễ dàng hơn vì có nguồn nguyên liệu chắc chắn. Ngân hàng mạnh tay cho vay vì giảm được rủi ro trong hoạt động cho vay, giảm rủi ro mất khả năng chi trả do biến động thị trường. Mô hình này rất phổ biến ở Hoa Kỳ. Ở Việt Nam có mô hình hợp đồng nuôi gia công của Công ty cổ phần Chăn nuôi CP Việt Nam trong lĩnh vực chăn nuôi gà

* Mô hình sản xuất –chế biến –bán lẻ mang tính tổng hợp: Mô hình này là mô hình thể hiện sự hội tụ tất cả các hoạt động từ sản xuất đến chế biến và bán lẻ sản phẩm trong phạm vi của một doanh nghiệp, thậm chí cả hoạt động sản xuất nguyên liệu đầu vào cho sản xuất. Mô hình này cho phép doanh nghiệp kiểm soát chặt chẽ chất lượng sản phẩm và thu được toàn bộ lợi nhuận ở tất các các công đoạn sản xuất – chế biến và thương mại hóa sản phẩm, đồng thời hạn chế được rủi ro về

Trường Đại học Kinh tế Huế

(31)

nguồn nguyên liệu và chủ động được thị trường đầu ra. Tuy nhiên, mô hình này chỉ có khả năng áp dụng khi doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh mẽ, và có bộ phận chuyên trách ở công đoạn sản xuất. Tuy nhiên, mô hình này đòi hỏi doanh nghiệp tăng vốn đầu tư vào cả đất đai, chi phí sản xuất, mà trên thực tế, chi phí mua hoặc thuê đất đai và đầu tư kiến thiết cơ bản ao đầm, chi phí nuôi cũng rất lớn. Ảnh hưởng tiêu cực của mô hình này chính là việc loại bỏ người sản xuất ra khỏi chuỗi giá trị. Doanh nghiệp chỉ bảo vệ lợi ích riêng của mình, thể hiện sự thiếu trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp khi không quan tâm đến sự phát triển chung của toàn ngành. Một khi người sản xuất không tham gia sản xuất nữa, doanh nghiệp không còn nguồn nguyên liệu nào khác để dựa vào, và dĩ nhiên là dẫn đến rủi ro thiếu nguyên liệu khi không tự đáp ứng được cầu trên thị trường.

Một hình thức liên kết dọc khác đáng quan tâm có thể khắc phục được mô hình khép kín trên là mô hìnhđồng sở hữu, trong đó người sản xuất đồng thời cũng là cổ đông của nhà chế biến. Người sản xuất có thể tham gia đồng sở hữu bằng cách mua cổ phần, hoặc nhà chế biến chia xẻ cổ phần cho người sản xuất; hoặc người sản xuất góp vốn dưới hình thức quyền sử dụng đất nông nghiệp, trang thiết bị sản xuất.

Hình thức đồng sở hữu này có các lợi ích sau: i) Gắn lợi ích của người sản xuất vào lợi ích của nhà chế biến và ngược lại, vì vậy làm tăng tính liên kết; ii) Giúp người sản xuất có thể chia xẻ thêm lợi ích từ hoạt động chế biến; iii) Giúp nhà chế biến giảm chi phí đầu tư cho vùng nguyên liệu, chi phí sản xuất nguyên liệu, và giảm áp lực tiền mặt để mua nguyên liệu; iv) Giúp cả hai bên mở rộng quy mô sản xuất khi cần vì có thể kêu gọi đầu tư góp vốn; v) kiểm soát chặt chẽ chất lượng sản phẩm và an toàn thực phẩm trong toàn bộ chuỗi giá trị. Hình thức này được cho là phù hợp nhất với ngành nuôi tôm. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất trong việc thực thi mô hình này là thái độ của nhà chế biến. Nhà chế biến phải đóng vai trò đi đầu trong phát triển các mối liên kết dọc với người sản xuất nguyên liệu, và phải có nhận thức đúng đắn về trách nhiệm xã hội gắn liền với lợi ích của doanh nghiệp. [28]

Theo đánh giá của nhiều chuyên gia trong ngành thủy sản, từ trước đến nay chúng ta thường khuyến khích và tổ chức nhiều mô hình liên kết ngang hơn là liên

Trường Đại học Kinh tế Huế

(32)

kết dọc, ví dụ thành lập các HTX, các THT,... Tuy nhiên, để sản xuất hiệu quả và thủy sản của chúng ta có thể cạnh tranh được với các nước thì cần mở rộng hình thức liên kết dọc. Cáchình thức này sẽ phân bố hài hòa lợi ích và rủi ro giữa các tác nhân.

1.3. Các yếutố ảnh hưởng đến các mối liên kếttrong nuôi tôm 1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến liên kết ngang

- Trình độ và nhận thức của các bên tham gia cần có sự đồng đều, nhất quán ở mức độ tương đối nhằm đảm bảo các bên tham gia trong liên kết có thể cùng chia sẻ quyền lợi và trách nhiệm một cách hợp lí nhất. Điều này là một trong những yếu tố đảm bảo sự tồn tại của liên kết. Yếu tố này càng đặc biệt quan trọng khi trong thực tế trình độ và nhất là nhận thức của phần lớn người nuôi tôm và kể cả các doanh nghiệp chế biến tôm về liên kết còn khá hạn chế, truyền thống làm ăn cá thể vẫn còn ngự trị phổ biến trong sản xuất và chế biến tôm.

- Về đất đai, vị trí ao nuôi có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hình thành liên kết ngang giữa những người nuôi tôm. Như đã phân tích, chỉ có các ao nuôicó vị trí không quá xa cách mới có thể tham gia vào cùng 1 đơn vị hợp tác, thống nhất lịch thời vụ, sử dụng chung hệ thống cơ sở hạ tầng để tạo nên vùng sản xuất tập trung.

Các ao nuôi có vị trí quá cách biệt, dù muốn, cũng không thể tổ chức thành các liên kết ngang được.

- Các cơ sở hạ tầng chung trong khu vực hệ thống thủy lợi và điện cần được thiết kế hoặc chỉnh sửa để tất cả những tác nhân tham gia trong liên kết ngang đều có thể sử dụng được một cách thuận tiện và thống nhất theo sự điều hành của người điều phối nhằm đảm bảo tối đa hóa hiệu quả sản xuất và khả năng phòng chốngdịch bệnh. Trong khi đó, hệ thống giao thôngcông cộng lại có ảnh hưởng đáng kể đến sự kết nối của khu vực sản xuất (các ao nuôi tôm) đến với các nhà máy chế biến, các nơi cung cấp giống, vật tư cũng như nơi bán sản phẩm. Để hình thànhđược liên kết ngang, các cơ sở hạ tầng này đềucần được phát triển đến một mức độ nhất định.

- Các chính sách hỗ trợ phát triển liên kết có ảnh hưởng quan trọng đối với sự hình thành và tồn tại của các liên kết, đặc biệt là trong việc hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng, thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nông thôn hoặc ban

Trường Đại học Kinh tế Huế

(33)

hành các chính sách ưu đãi cho phát triển sản xuất quy mô lớn như cánh đồng lớn hay hỗ trợ phát triển sảnxuất kinh doanh theo chuỗi giátrị. Với xuất phát điểm thấp (diện tích nhỏ, nguồn lực hạn chế, trình độ sản xuấtthấp) thì các chính sách hỗ trợ này sẽ là vô cùng hữu ích để có thể nâng cấp được các đơn vị sản xuất quy mô nhỏ lẻ, manh mún tạo nên những liên minh, liên kếtthành quy mô lớn trước khi tiến đến phát triển liên kết dọc thành chuỗi giá trị cho cả ngành hàng. Các HTX, THT…

chắc chắn sẽ không thể hình thành nếu thiếu những hỗ trợ về vốn, đất đai hay cơ sở hạ tầng ban đầu.

1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến liên kết dọc

- Sự nhận thức về thế giới giúp con người có được định hướng phát triển những mối quan hệ có lợi và hạn chế hoặc triệt tiêu những mối quan hệ có hại. Do đó, để phát triển mối liên kết giữa hộ nuôi tôm với các chủ thể khác, yếu tố nhận thức của các chủ thể có ảnh hưởng quan trọng hàng đầu, mà trước hết là nhận thức một cách đầy đ

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan