• Không có kết quả nào được tìm thấy

SKKN- Bảy - Website Trường Tiểu Học Lê Dật - Đại Lộc - Quảng Nam

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "SKKN- Bảy - Website Trường Tiểu Học Lê Dật - Đại Lộc - Quảng Nam"

Copied!
17
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

1. Tên đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 2 THỰC HIỆN TỐT CÁC PHÉP TÍNH CỘNG, TRỪ TRONG PHẠM VI 100 2. Đặt vấn đề:

Cùng với các môn học khác ở tiểu học, môn Toán có một vị trí hết sức quan trọng. Các kiến thức, kĩ năng của môn toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng trong cuộc sống, chúng rất cần thiết cho các môn học khác. Nó góp phần to lớn vào việc phát triển tư duy, trí tụê của con người. Môn toán là ''chìa khoá'' mở của cho tất cả các ngành khoa học, nó là công cụ cần thiết của người lao động trong thời đại mới. Vì vậy, môn toán là bộ môn không thể thiếu được trong nhà trường, đây là những tri thức, kỹ năng vừa đáp ứng cho phát triển trí tuệ, óc thông minh, sáng tạo, vừa đáp ứng cho việc ứng dụng thiết thực trong cuộc sống hàng ngày, để các em trở thành những người có ích cho xã hội. Để thực hiện tốt dạy học môn toán này đòi hỏi người dạy phải thường xuyên trau dồi kiến thức,

biết đổi mới phương pháp dạy học.

Hiện nay trong các trường đã và đang vận dụng phương pháp dạy học theo hướng đổi mới, đó là cách dạy hướng vào người học hay còn gọi là “Lấy học sinh làm trung tâm” người giáo viên là người hướng dẫn, chỉ đạo trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức mới của học sinh. Tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh. Học sinh được khuyến khích đề xuất sáng kiến và cùng các thầy cô giáo thực hiện các giải pháp để việc dạy và học ngày càng có hiệu quả cao hơn. Bên cạnh đó với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học là chú trọng đến đối tượng học sinh cần rèn luyện, học sinh có năng khiếu, phát huy năng lực học tập của các em.

Thực tế cho thấy hiện nay đa số học sinh học yếu vì mất căn bản nội dung chương trình học ở lớp dưới, cấp dưới...Vấn đề này đối với học sinh lớp 2 lại gặp rất nhiều bởi vì kiến thức của môn Tiếng Việt lớp 1 rất khó, đa số giáo viên dạy lớp 1 tập trung đầu tư vào Tiếng Việt để giúp các em đọc, viết cho chắc nên việc đầu tư vào môn toán có phần hạn chế. Đây cũng là điều đòi hỏi mỗi giáo viên phải thật sự trăn trở vì giáo viên là người có vai trò quyết định đến chất lượng giáo dục học sinh.

Chương trình Toán lớp 2 là một bộ phận của Chương trình môn Toán ở Tiểu học và là sự tiếp tục của chương trình Toán lớp 1. Chúng ta biết rằng lớp 1 học sinh được học các số đến 100, thuộc bảng cộng trừ trong phạm vi 10 để thực hiện cộng trừ không nhớ trong phạm vi 100. Ở lớp 1 học sinh chưa thuộc bảng cộng trừ trong phạm vi 10 thì làm sao tính cộng trừ trong phạm vi 100 (không nhớ) cho chắc được. Đến học kì 1 lớp 2 thì học sinh bắt đầu thực hiện cộng trừ có nhớ trong phạm vi 100 và bắt buộc học sinh phải thuộc bảng cộng, trừ trong phạm vi 20. Khi thực hiện tính, học sinh hay lẫn lộn giữa có nhớ và không nhớ.

Thực trạng này của học sinh hiện nay ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học môn Toán. Việc rèn luyện kỹ năng cộng, trừ có nhớ và không nhớ trong phạm vi

1

(2)

100 cho học sinh và học sinh nắm chắc được cách tính này là vấn đề cần thiết khi học sinh học toán ở kì 1 lớp 2. Chính vì thấy được tầm quan trọng của nó, tôi đã đi sâu tìm hiểu, học hỏi và nghiên cứu ra những giải pháp nhằm giúp học sinh lớp 2 thực hiện tính cộng, trừ có nhớ và không nhớ trong phạm vi 100 cho tốt.

Để có cơ sở chia sẻ cùng đồng nghiệp và sự tham gia góp ý của lãnh đạo, tôi xin tổng kết kinh nghiệm của bản thân với đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 thực hiện tốt các phép tính cộng, trừ trong phạm vi 100.”

3/Cở sở lý luận:

Cũng như các môn học khác trong hệ thống chương trình Tiểu học, môn Toán đã thiết thực góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục Tiểu học. Vì vậy, việc hướng dẫn học sinh tự tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức mới có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển tư duy Toán học của học sinh.

- Quá trình tự tìm tòi, khám phá, ghi nhớ sẽ giúp học sinh rèn luyện tính chủ động, sáng tạo trong học Toán. Học sinh sẽ hiểu sâu hơn, nhớ lâu hơn kiến thức nếu như chính mình tìm ra kiến thức đó hoặc góp phần cùng với các bạn tìm tòi, khám phá, xây dựng kiến thức. Học sinh tự tìm tòi, khám phá sẽ rèn luyện được tính kiên trì, vượt khó và một số phẩm chất tốt của người học Toán như: tự tin, suy luận có cơ sở, coi trọng tính chính xác, tính hệ thống. Như vậy, việc rèn luyện kỹ năng cộng, trừ có nhớ và không nhớ trong phạm vi 100 giúp cho học sinh nắm chắc được cách tính, nhằm tạo điều kiện để cá thể hoá dạy học đồng thời phát triển năng lực, sở trường của từng học sinh trở thành người lao động chủ động, sáng tạo.

- Học sinh tiểu học dễ nắm bắt nội dung học tập bởi các em chưa bị chi phối nhiều về cuộc sống xung quanh nhưng cũng sẽ quên ngay khi chúng không tập trung cao độ và không được luyện tập thường xuyên. Vì vậy, người giáo viên phải nắm được đặc điểm tâm sinh lí đó để luôn tạo ra hứng thú trong học tập và giúp học sinh thường xuyên được tập luyện.

- Trẻ hiếu động, ham hiểu biết cái mới nên dễ gây cảm xúc mới song các em chóng chán. Do vậy, trong dạy học giáo viên phải sử dụng nhiều đồ dùng dạy học, sử dụng nhiều phương pháp, tổ chức các trò chơi xen kẽ…để kích thích trí tưởng tượng của học sinh và củng cố khắc sâu kiến thức.

4/ Cơ sở thực tiễn:

Trong quá trình giảng dạy nhiều năm ở lớp 2 của trường tiểu học Lê Dật, tôi thấy rằng có nhiều học sinh khi làm toán còn tính bằng tay: năm học 2016- 2017 có 19 em, học kì 1 của năm 2017- 2018 có 14 em. nên thực hiện tính rất chậm. Nguyên nhân học sinh tính bằng tay là do các em chưa thuộc bảng cộng, trừ trong phạm vi 10. Nếu tình trạng này cứ tiếp diễn thì đến bảng cộng, trừ trong phạm vi 20 làm sao học sinh tính tay được? Không lẽ học sinh đưa luôn cả các ngón chân để tính? Hơn nữa ở lớp 2 thực hiện tính cộng trừ trong phạm vi 100 là có nhớ nếu học sinh cũng không thuộc bảng cộng trừ trong phạm vi 20 thì không thể nào làm nhanh và đúng các bài tập theo yêu cầu.

2

(3)

Đứng trước tình hình trên của học sinh lớp mà tôi phụ trách, là giáo viên chủ nhiệm lớp, tôi cần phải nêu ra những phương pháp, giải pháp để chấn chỉnh và nâng cao chất lượng cho học sinh lớp mình. Từ đó yêu cầu đặt ra đối với tôi là tìm biện pháp luyện cho học sinh thực hiện tính cho đúng và nhanh.

5/ Nội dung nghiên cứu:

a. Nguyên nhân:

Trong thực tế, qua nhiều năm giảng dạy lớp 2, khi dạy học sinh thực hiện tính cộng, trừ trong phạm vi 100, tôi nhận thấy học sinh hay sai và hay nhầm lẫn giữa có nhớ và không nhớ, nguyên nhân dẫn đến sai đó là:

- Do sau ba tháng nghỉ hè, học sinh không ôn tập nên bảng cộng, trừ trong phạm vi 10 các em nhớ không chắc.

- Kĩ năng tính toán chậm, năng lực tư duy bị hạn chế.

- Do lười học, do phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học tập của con em mình nên không quan tâm nhắc nhở con cái học bài.

- Do học sinh không tích cực, tự giác trong quá trình học tập.

-Do các em học chậm môn Tiếng Việt dẫn đến môn Toán không có hiệu quả.

Từ những nguyên nhân nêu trên, tôi nghiên cứu tìm ra biện pháp để giúp học sinh thực hiện đúng phép cộng, trừ trong phạm vi 100 như sau:

b. Biện pháp thực hiện:

Ngoài các biện pháp mà giáo viên đã dùng, để học sinh thực hiện đúng phép cộng trừ trong phạm vi 100, tôi lần lượt áp dụng một số biện pháp sau:

Biện pháp 1: Từ nắm vững kiến thức cũ đến chắc kiến thức mới.

Bước cần làm đầu tiên trong tuần đầu tiên đó là tôi bắt tay ngay vào việc ôn bảng cộng, trừ trong phạm vi 10 cho học sinh bằng nhiều cách như phân công đôi bạn cùng tiến để bạn kiểm tra thường xuyên ở 15 phút đầu giờ. Bên cạnh đó tôi trực tiếp kiểm tra học sinh ở các tiết tăng cường buổi chiều. Ngoài ra tôi còn tận dụng thời gian các tiết bộ môn để ôn cho các em học yếu, chưa nắm vững các bảng cộng, trừ trong phạm vi 10. Với nhiều cách nêu trên đã giúp cho các em thuộc được bảng cộng trừ trong phạm vi 10.

Sau khi các em thuộc bảng cộng, trừ trong phạm vi 10, tôi tiếp tục cho các em ôn phép tính cộng, trừ không nhớ trong phạm vi 100. Khi thực hiện đặt tính bao giờ tôi cũng yêu cầu các em nêu chữ số từng hàng (chục, đơn vị) để các em xác định và đặt tính cho đúng. Khi tính thì yêu cầu các em cần phải chú ý thực hiện tính từ hàng đơn vị trước có nghĩa là từ phải sang trái, nếu học sinh quên thì tôi yêu cầu các em chỉ vào tay phải của mình trước mỗi khi tính để các em nhớ.

Trong hai tuần đầu tiên của năm học cần phải củng cố nhiều để học sinh nắm vững cách thực hiện tính cộng, trừ không nhớ trong 100 đã được học ở lớp 1.

Bước sang tuần thứ ba thì học sinh bắt đầu học cộng, trừ có nhớ, trong từng tiết học khi cung cấp kiến thức mới, khi nêu cách tính cần để học sinh nhận

3

(4)

65 2342

65 1847

34 6228

20 6848

32 5624

xét, khi cộng chữ số của hàng đơn vị kết quả là số có mấy chữ số. Cần cho các em thấy rõ cộng không nhớ khi cộng chữ số của hàng đơn vị kết quả là số có một chữ số thôi. Khi luyện tập thực hành cũng thường xuyên nhắc nhở đối với những em hay sai để các em thực hiện cho đúng.

Để các em nắm chắc hơn thì trong các tiết tăng cường buổi chiều, tôi cần phải cho các em luyện tập xen kẽ giữa tính có nhớ và không nhớ. Tôi hướng dẫn cho các em khi tính hãy nhẩm là “Một không” có nghĩa là nếu như cộng chữ số của hàng đơn vị kết quả là số có một chữ số để các em biết là không nhớ.

Ví dụ:

3 cộng 2 bằng 5 ; 5 là kết quả của chữ số hàng đơn vị cộng lại là số có một chữ số.

“Hai có” có nghĩa là cộng chữ số của hàng đơn vị kết quả là số có hai chữ số để các em biết là có nhớ.

7 cộng 8 bằng 15 ; 15 là kết quả của chữ số Ví dụ: hàng đơn vị cộng lại là số có hai chữ số Tương tự như thế khi học phép tính trừ có nhớ thì tôi yêu cầu học sinh nhẩm là

“ Nhỏ có” có nghĩa là chữ số hàng đơn vị số bị trừ nhỏ hơn chữ số hàng đơn vị số trừ là trừ có nhớ.

2 nhỏ hơn 8 ; nên 2 không trừ được 8, lấy Ví dụ: 12 trừ 8 bằng 4, viết 4 nhớ 1.

2 thêm 1 bằng 3, 6 trừ 3 bằng 3 viết 3.

“Bằng – lớn không” có nghĩa là chữ số hàng đơn vị số bị trừ lớn hơn hoặc bằng chữ số hàng đơn vị số trừ là trừ không nhớ.

Đây là trường hợp Ví dụ: “Bằng – lớn không”

Lặp đi lặp lại cách này nhiều lần sẽ giúp cho các em khắc sâu được kiến thức và nó sẽ trở thành kĩ năng, kĩ xảo cho các em.

Học sinh muốn làm toán đúng và nhanh cần phải thuộc các bảng cộng trừ đã được học, chỉ có giáo viên nhắc nhở các em học không thì chưa đủ cần có thêm sự hỗ trợ của phụ huynh học sinh, cách hỗ trợ như thế nào sang biện pháp 2.

Biện pháp 2: Phối hợp với phụ huynh học sinh:

Để cho việc rèn luyện của học sinh đạt kết quả như mong muốn thì phải có sự ủng hộ tích cực của phụ huynh. Bởi giáo dục là sự kết hợp giữa gia đình và nhà trường mà ở đây trực tiếp là giáo viên đứng lớp. Trong quá trình dạy, giữa giáo viên và phụ huynh phải thường xuyên có sự trao đổi để biết được tình hình học tập và rèn luyện của con em mình mà có kế hoạch phối hợp với nhau

4

(5)

nên ngay từ cuộc họp phụ huynh đầu năm học, tôi đã thông qua kế hoạch nhiệm vụ năm học, tình hình của lớp, mục đích yêu cầu của môn Toán, chất lượng khảo

sát đầu năm. Tôi đưa ra một số biện pháp và đề nghị phụ huynh cùng phối hợp để thực hiện như sau:

- Phải mua đầy đủ đồ dùng học tập như sách, vở, que tính, bảng con, phấn….

để phục vụ tốt cho các hoạt động học tập ở trên lớp.

- Phải nhắc nhở và kiểm tra học sinh khi có nội dung bài yêu cầu học thuộc . - Tôi còn yêu cầu phụ huynh nếu học sinh lười đọc bài thì phải cho chép nhiều lần cho nhớ. Ví dụ như ở trường học bảng cộng “9 cộng với một số”

*Bảng cộng như sau: 9 + 2 = 11 9 + 3 = 12 9 + 4 = 13 9 + 5 = 14 9 + 6 = 15 9 + 7 = 16 9 + 8 = 17 9 + 9 = 18

Yêu cầu đọc cho thuộc bảng cộng mà không đọc thì phải chép bảng cộng đó nhiều lần cho nhớ.

- Tránh tình trạng trong tiết học có em ngồi chơi vì thiếu đồ dùng học tập.

Tôi phải bàn với ban đại diện cha mẹ học sinh của lớp mua một số đồ dùng như bảng con, bút chì, phấn, vở để trên lớp, khi các em quên mang, tôi sẽ cho các em mượn dùng để theo kịp với bài học.

Biện pháp 3: Bám vào chuẩn kiến thức kĩ năng.

Trong mỗi tiết học để học sinh đạt được yêu cầu của Chuẩn và có thể làm được các bài tập theo yêu cầu tối thiểu của Chuẩn đề ra, bên cạnh đó để có thể nâng cao thêm cho đối tượng học sinh khá giỏi, tôi luôn chú ý khai thác sách giáo khoa để phát huy hết tác dụng sách. Làm điều đó một phần để học sinh khá giỏi có thể làm được nhiều bài tập, và học sinh yếu không phải mất thời gian ghi lại đề bài mà dành nhiều thời gian cho luyện tập. Khi chữa bài, tôi thường xuyên gọi các em học yếu, những em làm bài chưa chắc để các em có cơ hội luyện tập nhiều lần mà khắc sâu kiến thức hơn.

Biện pháp 4: Trò chơi học tập:

Do độ tuổi của học sinh Tiểu học, cơ thể của trẻ đang trong thời kỳ phát triển nên tính hiếu động cao, khả năng tập trung cho hoạt động chú ý hạn chế, dễ mệt, nhất là hoạt động quá lâu. Do vậy, giáo viên cần tổ chức trò chơi học tập để

5

(6)

làm thay đổi hình thức hoạt động của học sinh. Giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự giác, tích cực, rèn luyện củng cố kiến thức đồng thời phát triển vốn kinh nghiệm được tích luỹ qua hoạt động chơi.

Củng cố kiến thức và khắc sâu kiến thức đã học một cách nhẹ nhàng thoải mái tránh sự căn thẳng tạo cho các em ham học, ham tìm hiểu qua những câu đố vui, những trò chơi hấp dẫn Việc sử dụng các bài tập đố vui và trò chơi học tập dạy học toán lớp 2 nhằm thu hút các em tham gia vào hoạt động học một cách tích cực, tự nhiên, thoải mái, tạo tiết học vui, nhẹ nhàng, hoạt động học tập có hiệu quả hơn.

Tạo điệu kiện cho các em "học mà vui - vui mà học ", Tổ chức mang tính sắc thái tình cảm đi kèm cảm giác thoả mãn khi đã được tham gia vào trò chơi nhất là những em học sinh yếu, ít hoạt động trong học tập qua đó :

- Kích thích lòng say mê toán học. rèn luyện tính chăm chỉ, tự tin, cẩn thận ham hiểu biết và hứng thú trong giờ học toán.

- Khơi dậy trong trẻ óc tưởng tượng, khả năng phán đoán tính hài hước, vui tươi, dí dảm cần thiết trong học tập và trong cuộc sống, bước đầu hoà đồng với tập thể và giao tiếp với bạn và người xung quanh.

Trò chơi học tập còn có tác dụng rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, thúc đẩy hoạt động trí tuệ phát triển. Nhờ sử dụng trò chơi học tập mà quá trình dạy học trở thành một hoạt động vui và hấp dẫn hơn, cơ hội học tập đa dạng hơn.

Nắm được tâm lý trẻ và tác dụng của trò chơi nên trong các tiết học, tôi phải thay đổi phương pháp và hình thức tổ chức để thu hút các em tham gia tích cực vào giờ học. Khi tổ chức trò chơi đó là lúc các em tham gia tích cực nhất, trò chơi cũng phải thường xuyên thay đổi để tránh nhàm chán ở học sinh.

Ví dụ như trò chơi: Ai nhanh ai đúng, thỏ ăn cà rốt, khỉ ăn chuối, thả cá vào ao, trò chơi leo núi,… Những trò chơi này giúp củng cố các bảng cộng, trừ trong phạm vi 10 và phạm vi 20 cũng như các phép tính cộng, trừ có nhớ và không nhớ trong phạm vi 100 rất hiệu quả.

*Ví dụ :

1.Trò chơi “ Ai nhanh ai đúng” :

- Đồ dùng: Giáo viên chuẩn bị cho mỗi học sinh một phiếu như bên dưới và viên phấn:

(Mỗi học sinh một phiếu và phép tính như nhau nhưng được đổi chỗ các phép tính)

- Cách chơi: Giáo viên nêu bất kì

một số nào:

7 + 8 8 + 3 4 + 9

6 + 8 2 + 9 5 + 8

5 + 9 7 + 5 7 + 9

6

(7)

- Ví dụ : GV hô: 15 (11 ; 16)

Học sinh phải nhẩm nhanh xem phép tính nào có kết quả là 15 (11 ; 16) thì đánh dấu x vào phép tính đó; sau khi giáo viên nêu em nào chọn đúng kết quả thì được tuyên dương. Dưới đây là kết quả trên bảng các em được tuyên dương :

Học sinh A:

Học sinh B:

Học sinh C

Trò chơi này giúp các em củng cố các bảng cộng, trừ đã học. (Nếu sang kì 2 thì củng cố các bảng nhân, chia)

2. Trò chơi “Thỏ ăn cà rốt”:

Ví dụ: Khi dạy bài Bảng trừ, Trang 69, với bài tập 1, sử dụng trò chơi này, GV làm như sau:

Chia lớp thành 4 nhóm. Mỗi nhóm phát cho một chú Thỏ và các củ cà rốt (Mỗi HS 1 củ).

Luật chơi:

7+8 x

8+2

5+8 2+9

x

6+8 4+9

7+9 x

7+5 5+9

8+7 x

8+3 x

9+ 7 x 7+6 3+9 5+8

5+9 7+5 4+9

9+6 x

8+2 4+9

6+8 2+9 x

5+8

5+9

7+5 7+9 x

7

(8)

Khi giáo viên hô: “Chú Thỏ chỉ ăn những củ cà rốt mang phép tính có kết quả bằng 5” Thì HS phải nhanh chóng tìm ra các phép tính có kết quả bằng 5.

(Chẳng hạn: 11 - 6 = 5 ; 12 - 7 = 5 ; 13 - 8 = 5 ; …) và đính lên bảng. Trong thời gian 3 phút, nhóm nào xong trước thì nhóm đó thắng cuộc và được thưởng tràn pháo tay.

3. Trò chơi “Leo núi”:

Ví dụ: Khi dạy bài Luyện tập chung, trang 75, với bài tập 2: Đặt tính rồi tính a). 32 - 25 ; 44 - 8 b). 53 - 29 ; 30 - 6

Áp dụng trò chơi “Leo núi”, GV làm như sau:

Chia lớp thành 2 đội: Đội A và Đội B. Nữa lớp bên phải Đội A, nữa lớp bên trái Đội B. Mỗi HS có 1 bảng con. Mỗi đội cử 1 bạn làm ban giám khảo. Hai học sinh này đổi vị trí cho nhau. Em Đội A làm ban giám khảo Đội B và ngược lại.

Luật chơi:

Học sinh làm theo lệnh của giáo viên:

Giáo viên đọc phép tính, học sinh ghi bảng con và tính. Giáo viên gõ thước, cả lớp cùng giơ bảng. Ban giám khảo quan sát và kiểm tra kết quả. Nếu đội nào có kết quả đúng hết 100% thì được leo lên một đỉnh núi. Đội nào có người sai thì không leo lên được đỉnh núi. Cứ như vậy cho đến hết bài. Đội thắng cuộc là đội chinh phục được đỉnh núi. Nếu cả hai đội cùng chinh phục được đỉnh núi thì kết quả học tập càng đạt hiệu quả cao.

Các trò chơi này được áp dụng trong nhiều bài dạy, giáo viên lựa chọn phù hợp theo nội dung của từng bài mà tổ chức cho học sinh vui chơi để đem lại hiệu quả cao trong tiết dạy.

Biện pháp 5: Tuyên dương, khen thưởng.

Tuyên dương khen thưởng là một biện pháp không thể thiếu nếu muốn học sinh có tiến bộ trong học tập. Bởi lẽ điều đó sẽ giúp cho các em có động lực để phấn đấu. Các hình thức khen thưởng như sau:

- Đối với những học sinh tích cực giơ tay phát biểu trong giờ học được tặng 01 bông hoa học tốt cắm lên bảng.

- Những em có nhiều nhận xét tốt trong vở thì được tặng 01 bông hoa cuối mỗi tiết học và được cắm vào lọ hoa của mình.

- Những em có nhận xét tốt trong vở tốt liên tục trong tuần được tuyên dương trước lớp và được tặng một phần quà như viết hoặc vở vào tiết sinh hoạt lớp cuối tuần.

- Cuối học kì I và cuối năm, tôi tổng kết hoa điểm tốt. Chọn 5 em có số hoa điểm tốt nhiều nhất phát thưởng. Phần thưởng này được đưa ra thảo luận ở cuộc họp phụ huynh và do phụ huynh quyết định và tôi sẽ mời ban đại diện cha mẹ học sinh phát thưởng cho các em.

8

(9)

- Ngoài việc khen thưởng cho cá nhân học sinh, tôi còn yêu cầu thi đua giữa các tổ học tập, nếu tổ nào trong tuần đạt được nhiều bông hoa điểm tốt sẽ được miễn cho việc lao động dọn vệ sinh cuối tuần hoặc miễn cho việc chăm sóc bồn hoa, … Nếu tổ nào được nhiều nhất 4 tuần liên tục thì được thưởng cho mỗi em trong tổ một đồ dùng học tập mà em thích. Điều này sẽ giúp cho các thành viên trong tổ tự giác giúp đỡ lẫn nhau trong học tập.

Qua nhiều lần khen thưởng, tôi thấy các em có nhiều cố gắng hơn, tiến bộ cũng nhiều hơn. Các em rất vui khi nhận được hoa điểm tốt hoặc lời khen hay tiếng vỗ tay của các bạn. Mặc dầu phần thưởng chỉ là vài quyển vở hoặc cây bút nhưng đó cũng là điều khích lệ để các em phấn đấu.

Biện pháp 6: Chấm chữa bài của giáo viên.

Tăng cường chấm bài cũng là biện pháp để kiểm tra đánh giá mức độ tiếp thu, khả năng luyện tập của các em, qua chấm bài, giáo viên có thể phát hiện được các em chưa vững chỗ nào, sửa sai ngay để các em biết và có hướng khắc phục. Đồng thời qua việc chấm bài sẽ dần xóa đi tính lười biếng học của một số em, nếu giáo viên không chấm bài, các em sẽ bỏ qua việc hoàn thành bài tập mà giáo viên giao.

Biện pháp 7: Luyện đọc đối với học sinh cần rèn luyện.

Đối với các em học sinh cần rèn luyện, ngoài việc chú trọng rèn luyện môn Toán, tôi còn phải chú trọng đến việc rèn luyện đọc cho các em, bởi vì các em đọc chậm nên mất nhiều thời gian cho đọc bài dẫn đến thời gian làm bài ít chính vì vậy mà các em không hoàn thành được bài tập khi giáo viên giao.

6/ Kết quả thực hiện:

Với các biện pháp đã áp dụng trên đây, qua theo dõi, tôi thấy các em đã tiến bộ và thi đua lẫn nhau để học tốt. Nhiều em được khen rất vui và tỏ ra ham thích học môn Toán. Trong mỗi tiết học, thái độ học tập của các em rất tốt. Các em tích cực, chăm chú vào hoạt động học, hứng thú khi tham gia các trò chơi.

Đồng hành với tinh thần học tập tốt còn góp phần hình thành nhân cách cho học sinh: như tinh thần đồng đội , ý chí phấn đấu , lòng say mê yêu toán học.

Đặc biệt qua các trò chơi toán học còn hình thành kĩ năng sống cho mỗi học sinh: kĩ năng suy nghĩ (kĩ năng tư duy cao), kĩ năng ra quyết định, kĩ năng hợp tác nhóm…

Qua thời gian thực hiện kết quả đạt được năm học 2016- 2017 như sau: tỉ lệ HS được hoàn thành ( tốt, hoàn thành ) và chưa hoàn thành, cụ thể :

+Cuối năm học 2016- 2017:

TSHS Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành

27 20 7 0

+ Năm học 2017- 2018:

Học kì 1:

9

(10)

Tháng Tháng 9 Tháng 10 Tháng 11 Tháng 12 TSHS

25

HTT HT CHT HTT HT CHT HTT HT CHT HTT HT CHT

4 12 9 6 15 4 10 14 1 13 12 0

Từ các biện pháp nêu trên đây, tôi nhận thấy kết quả học tập của học sinh lớp tôi có nhiều tiến bộ, đồng nghiệp trong khối cũng nhận thấy cách thực hiện của tôi là hay và có hiệu quả.

7/ Kết luận:

Đề tài Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 thực hiện tốt các phép tính cộng, trừ trong phạm vi 100 không chỉ giúp học sinh thực hiện tốt phép tính cộng trừ không nhớ và có nhớ trong phạm vi 100 mà còn là giúp các em hứng thú, tự giác trong học tập. Với tôi, sau khi áp dụng các biện pháp dạy học trên vào lớp mình, tôi thấy đạt được kết quả như mong muốn. Học sinh đã có sự tiến bộ rõ rệt đó là món quà rất quý đối với tôi. Nó làm cho tôi càng thêm yêu nghề, yêu trẻ nhiều hơn. Tôi suy nghĩ rằng nếu tất cả các cô giáo (thầy giáo) đều áp dụng các biện pháp dạy học như tôi nêu ra ở trên thì chất lượng học tập của học sinh lớp mình đảm nhiệm sẽ được nâng lên, sẽ có nhiều học sinh hoàn thành tốt và giảm đi số lượng học sinh chưa hoàn thành.Tôi tin rằng, nếu mỗi cô giáo (thầy giáo) luôn có ý thức rèn luyện và tận tâm dạy bảo thì chắc chắn các em sẽ có tiến bộ. Sau này, lên các lớp trên, các em sẽ tiếp tục học tốt. Đó cũng là đà tiến bước, là nền tảng cho quá trình học Toán sau này của mỗi cá nhân học sinh.

* Bài học kinh nghiệm:

Qua thực tiển giảng dạy môn Toán, tôi rút ra được những kinh nghiệm để giúp các em học tốt như sau:

Một là: Giáo viên phải tìm hiểu khả năng và phân loại học sinh ngay từ đầu năm học, đồng thời chủ động phối hợp với phụ huynh học sinh. Bản thân giáo viên phải tận tâm, kiên trì giúp đỡ học sinh cần rèn luyện và bồi dưỡng học sinh năng khiếu trong mỗi tiết học.

Hai là: Giáo viên cần kết hợp sử dụng, khai thác tối đa các phương pháp giảng dạy môn Toán nhất là phương pháp dạy học tích cực do Phòng tập huấn, đồng thời khai thác sử dụng có hiệu quả kênh hình và các bài tập vận dụng trực tiếp ở sách giáo khoa Toán 2 trong việc đổi mới phương pháp dạy học.

Ba là: Cần chú trọng ôn luyện cho học sinh trong 15 phút đầu giờ. Trong các tiết tăng cường, giáo viên chấm chữa bài thường xuyên để phát hiện và sửa sai kịp thời cho học sinh biết… Phải có nhiều hình thức tuyên dương, khen thưởng thường xuyên nhất là học sinh trung bình yếu (dù chỉ là sự tiến bộ nhỏ) để các em thấy ham thích khi học môn Toán.

Bốn là: Hình thành cho các em đức tính cẩn thận, tự giác, kiên trì nhẫn nại trong học tập.

Năm là: Hình thành cho các em nhiều kĩ năng sống: kĩ năng suy nghĩ

10

(11)

(kĩ năng tư duy cao) , kĩ năng ra quyết định , kĩ năng hợp tác nhóm.

Đặc biệt luyện trí nhớ bền vững cho các em.

8/ Đề nghị:

Để nâng cao chất lượng học tập cho học sinh, tôi xin có đề xuất sau:

-Đối với học sinh: phải có đầy đủ dụng cụ học tập.

-Đối với phụ huynh: tham gia đầy đủ các buổi họp phụ huynh của lớp, phối hợp chặt chẽ cùng với nhà trường để nắm tình hình học tập của em, mua sắm đầy đủ dụng cụ học tập tạo điều kiện thuận lợi cho các em đến trường.

-Đối với giáo viên: phải luôn luôn tìm tòi học hỏi, trau dồi kinh nghiệm để nâng cao trình độ nghiệp vụ. Giáo viên phải luôn đổi mới phương pháp dạy bằng nhiều hình thức như: trò chơi, đố vui học tập, ... phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình đảm nhiệm: “Lấy học sinh làm trung tâm hướng các em vào hoạt động học, thầy chỉ là người hướng dẫn, tổ chức, trò chủ động trong việc nhận thức và lĩnh hội kiến thức.”

Từ kinh nghiệm của bản thân đã được thực hiện tại trường tiểu học Lê Dật trong thời gian qua. tôi rất mong nhận được sự góp ý của các cấp lãnh đạo và của đồng nghiệp, tôi xin chân thành cảm ơn !

Đại Chánh, ngày 12 tháng 3 năm 2019 Người viết

Đỗ Thị Bảy Xác nhận của Hiệu trưởng

11

(12)

9/Tài liệu tham khảo:

STT Tên tài liệu Nhà xuất bản Năm xuất bản

1 Sách giáo khoa toán 2 Nhà xuất bản

Giáo dục

Năm 2009

2 Sách giáo viên toán 2 Nhà xuất bản

Giáo dục Năm 2009

3 Một số trò chơi toán học dành cho HS tiểu học

Nhà xuất bản Đại học sư phạm

4 Một số phương pháp dạy học toán ở tiểu học

Nhà xuất bản Giáo dục

Năm 2009

5 Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kỹ năng các môn học ở tiểu học

Nhà xuất bản Giáo dục

Năm 2009

6 Đổi mới phương pháp dạy toán 2 ở tiểu học

Nhà xuất bản Giáo dục

Năm 2009

[[

7 Tâm lí học Nhà xuất bản

Giáo dục

12

(13)

10/ Phụ lục

Nội dung Trang

1/Tên đề tài 1

2/ Lý do chọn đề tài 1

3/ Cơ sở lí luận 2

4/ Cơ sở thực tiễn 2

5/ Nội dung nghiên cứu 3

a/ Nguyên nhân 3

b/ Biện pháp thực hiện 3

Biện pháp 1 3

Biện pháp 2 4

Biện pháp 3 4

Biện pháp 4 5

Biện pháp 5 8

Biện pháp 6 9

Biện pháp 7 9

6/ Kết quả thực hiện 9

7/ Kết luận 10

8/ Đề xuất 11

13

(14)

14

(15)

Căn cứ số điểm đạt được, đề tài trên được xếp loại :

Người đánh giá xếp loại đề tài

(Người thứ nhất, ký và ghi rõ họ tên

15

(16)

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

PHIẾU ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Năm học: 2017 - 2018

I. Đánh giá xếp loại của HĐKH

trường: ...

1. Tên đề tài :

……….

.

……….

.

2. Họ và

tên:...

3. Chức

vụ: ...

4. Nhận xét của Chủ tịch HĐKH về đề tài SKKN:

a) Ưu

điểm:...

...

...

...

...

...

...

...

...

b) Hạn

chế:...

...

...

...

...

...

...

...

5. Đánh giá, xếp loại:

Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên, HĐKH Trường : ...

...

Thống nhất xếp loại:...

Những người thẩm định: Chủ tịch HĐKH

16

(17)

(Ký, nghi rõ họ tên) (Ký, đóng dấu, nghi rõ họ tên)

...

II. Đánh giá, xếp loại của HĐKH

phòngGD&ĐT...

Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên, HĐKH Phòng GD&ĐT...

Thống nhất xếp loại: ...

Những người thẩm định: Chủ tịch HĐKH (Ký, ghi rõ họ tên) ( ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên)

17

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

VI. Hơn nữa các em chưa có ý thức được các việc trong lớp, cũng như nội quy ra vào lớp, nội quy của nhà trường đề ra. Nên để ổn định và đi vào nề nếp theo quỹ đạo của mình

“la” (la hét). Từ quan sát tranh, HS nghe GV phát âm kết hợp với nhìn động tác từ miệng của GV để nhận ra cách đọc và làm theo mẫu. Nhất là khi phát âm những âm có

+ Đối với trường hợp câu: Quét sân giúp mẹ. Tôi chỉ cho các em thấy câu văn của em chưa đúng về mặt cấu tạo câu. Muốn nó đúng về cấu tạo câu thì em hãy trả lời cho cô

Tôi nhận thấy rằng trước một bài tập đọc nhạc, ghi chép nhạc, để các em hiểu, nắm được và thực hiện tốt yêu cầu của bài người giáo viên cần có một phương pháp truyền

Ý 3: Chú hề đã mang đến một mặt trăng như mong muốn của công chúa. Ý2: Mặt trăng trong suy nghĩ của nàng

Bình minh, mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối chiếu xuống mặt biển, nước biển nhuộm màu hồng

phong phú và đa dạng. Hình thức phải xây dựng phù hợp với nội dung và đối tượng học sinh. Hình thức phù hợp thì tạo nên tiết học sinh động, đạt hiệu quả cao và phát huy

Tại trường tôi được phân công sinh hoạt cùng tổ khối một, trong những lần họp tổ chuyên môn có những khó khăn, vướng mắc gì trong giảng dạy môn âm nhạc, tôi chia sẻ