• Không có kết quả nào được tìm thấy

Phân tích tác phẩm Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "Phân tích tác phẩm Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm"

Copied!
18
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

I- Tìm hiểu chung 1. Tác giả:

- Sinh năm 1943

- Quê: Thừa Thiên - Huế

- Là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ những năm chống Mĩ cứu nước.

- Phong cách nghệ thuật: giàu chất suy tư, chính luận, xúc cảm lắng đọng, thể hiện tâm tư của người tri thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân.

- Tác phẩm chính: Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (1974) 2. Tác phẩm

2.1. Hoàn cảnh ra đời

- Sáng tác 1971, tại chiến khu Trị - Thiên (những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước)

- In lần đầu năm 1974

2.2. Kết cấu, bố cục: gồm 9 chương

2.3. Thể loại: trường ca: là thể loại tác phẩm có sự kết hợp hài hòa hai yếu tố tự sự và trữ tình.

2.4. Đoạn trích

- Xuất xứ: phần đầu chương V của trường ca.

- Chương V có vị trí đặc biệt, hội tụ chủ đề tư tưởng tác phẩm: sự thức tỉnh của thế hệ trẻ các thành thị miền Nam (rộng hơn: sự tự nhận thức của tuổi trẻ Việt Nam) về sứ mệnh và trách nhiệm với dân tộc.

2.5. Bố cục

- Phần 1: Cảm nhận mới mẻ về đất nước: Đất nước có trong đời sống mọi mặt của nhân dân

- Phần 2: Tư tưởng “Đất nước của nhân dân”: Nhân dân làm nên Đất nước II - Đọc hiểu văn bản

1. Phần 1: Đất nước có trong đời sống mọi mặt của nhân dân (Bốn mươi hai dòng thơ đầu)

1.1. Chín dòng thơ đầu: lí giải cội nguồn của đất nước (Đất nước có từ bao giờ?) Nguyễn Khoa Điềm

(2)

Thuvientoan.net

- Không bắt đầu từ một cách trang trọng (mà lại hết sức bình dị, gần gũi).

"Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi

Đất nước có từ trong cái ngày xửa ngày mẹ thường hay kể Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc"

Đất nước là những gì có thể bắt gặp ở ngay trong cuộc sống của mỗi gia đình, mỗi con người.

“Đất nước có trong những cái ngày xửa, ngày xưa...” -> Đất nước có từ rất lâu, rất xa trong lịch sử.

+ Khởi đầu: “Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn” -> nhận thức: khởi thủy Đất nước là văn hóa kết tinh từ tâm hồn Việt (Từ truyện cổ tích đến ca dao, tục ngữ,

“miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật mang tính thẩm mĩ, là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung của tâm hồn dân tộc)

+ Sự trưởng thành: “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” ->

nhận thức về tính cách anh hùng- từ truyền thuyết dân gian đến tác phẩm thơ hiện đại, cây tre trở thành biểu tựơng cho sức mạnh tinh thần quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước, biểu tựợng cho những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam. Đất nước có trong truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chỉ lớn lên, trưởng thành trong chiến đấu. -> Cảm nhận, lí giải cội nguồn đất nước bằng những hình ảnh bình dị, đời thường, khẳng định: đất nước không xa xôi, trừu tượng mà gần gũi, thân quen ngay trong cuộc sống của mỗi con người.

- Giọng thơ: thâm trầm, trang nghiêm làm cho suy tư về cội nguồn đất nước giàu chất triết luận mà vẫn thiết tha, trữ tình. Từ câu chuyện cổ tích của mẹ kể, miếng trầu của bà, hạt gạo ta ăn, ngôi nhà ta ở, tất cả đều là hiện thân, là khởi nguồn của đất nước.

- Để nói về lịch sử trường tồn của đất nước, nhà thơ đã không bắt đầu bằng việc đưa ra các sử liệu mà những gì rất gần gũi, quen thuộc trong đời sống của nhân dân ta, được gợi ra từ những chất liệu của văn hoá dân gian, ca dao, tục ngữ.

+ Những câu thơ mở đầu gợi nhớ đến những truyền thuyết và cổ tích, vào loại xa xưa nhất của dân tộc (truyện Trầu cau, truyền thuyết Thánh Gióng) nền văn minh lúa nước đã hình thành từ thời Âu Lạc xa xưa và những tập quán phong tục lâu đời (tóc mẹ thì bới sau đầu). Đó chính là sự cảm nhận về chiều sâu lịch sử của đất nước.

+ Ở đây có những phát hiện rất bất ngờ. Nó cũng là bình diện về bề dày văn hoá. Một đất nước mà chỉ dừng lại ở lãnh thổ, lịch sử không thôi thì chưa đủ. Một đất nước muốn chứng tỏ sức sống của mình cần phải được đảm bảo bằng văn hoá. Cho nên nói về đất nước, không thể thiếu được bề dày văn hoá của mình.

+ Nguyễn Khoa Điềm điểm lại di sản văn hoá ông cha ta để lại không phải là những công trình, những tác phẩm văn hoá, những đền đài miếu mạo, pho tượng ... mà những

(3)

Thuvientoan.net

giá trị, những vật phẩm văn hoá được nói đến rất rộng rãi. Rất có thể một kiểu để tóc của người Việt Nam cũng là một giá trị văn hoá, hoặc tên gọi cái kèo, cái cột cũng là một giá trị văn hoá, gắn liền với văn hoá Việt Nam hoặc cách yêu nhau được biểu hiện bằng gừng cay muối mặn cũng thuộc về phạm trù văn hoá, hay cách làm ra hạt gạo, hạt lúa, "một nắng hai sương xay giã dần sàng" cũng là một phương diện. Hoặc đơn giản là những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ, huyền thoại còn được lưu truyền trong kí ức cũng chính là tài sản về văn hoá.

* Trong khi nói về văn hoá của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm có những phát hiện rất bất ngờ. Tác giả đã thức dậy trong chúng ta một điều giản dị: đừng coi thường những vật phẩm quen thuộc, bởi trong mỗi vật phẩm quen thuộc có thể chứa đựng những điều hết sức hệ trọng thiêng liêng. Ví như hình ảnh miếng trầu- một sự vật bình thường, nhỏ nhoi, dễ bị quên lãng dưới con mắt của người hiện đại, nhưng Nguyễn Khoa Điềm lại phát hiện trong đó có một phần đất nước. Miếng trầu thuỷ chung với người Việt, chia sẻ mọi vui buồn, mọi thăng trầm với con người Việt Nam suốt mấy nghìn năm qua. Trong miếng trầu của bà ăn hôm nay có 4000 năm tuổi. Có thể nói đây là phát hiện đột xuất, rất bất ngờ và cũng rất sắc sảo của Nguyễn Khoa Điềm. Nó cho ta thấy đất nước này sở dĩ còn được đến bây giờ là bởi sự sống bền bỉ của nó gắn liền với những sự vật tưởng như là rất bình thường nhỏ nhoi.

+ Câu thơ còn có một nghịch lí bởi chữ "bắt đầu". Tại sao miếng trầu hôm nay lại là khởi nguồn của đất nước 4000 năm trước? Ý niệm về thời gian đã bị xáo trộn làm cho người đọc chúng ta có thể thấy rằng: cái của 4000 năm trước nó vẫn đang hiện diện với chúng ta hôm nay, và sự hiện diện của nó hôm nay luôn luôn nhắc ta nhớ về 4000 năm trước. Phát hiện như thế không chỉ có chiều sâu về mặt nghệ thuật mà còn có chiều sâu về mặt tư tưởng, gắn với tư tưởng chung bao trùm lên toàn bộ bài thơ. Câu thơ gợi cho ta nhớ đến cùng một lúc ba tài sản về văn hoá tinh thần:

+ Những câu ca dao, thành ngữ quen thuộc

+ Truyện cổ tích Trầu cau => Miếng trầu là một vật phẩm rất điển hình cho văn hoá dân gian làm nên bộ mặt của văn hoá Việt Nam

+ Tập tục cổ truyền của người Việt

- Tiếp đó là sự cảm nhận về đất nước trong sự thống nhất của các phương diện địa lí và lịch sử, không gian và thời gian.

Ý nghĩa về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là Đất, Nước và những liên tưởng gợi ra từ đó.

Trong bài thơ, tác giả nói đến đất nước khi thì như là một chữ khi thì như hai chữ. Khi thì nó liền lại thành Đất nước, khi thì nó tách ra thành Đất và Nước. Đất và Nước như là hai tế bào gốc, hai nguyên tố chính của đất nước này. Cho nên ban đầu nói về thời kì sơ khai, Đất và Nước tách nhau như hai nguyên tố riêng rẽ nhưng khi nó trở thành Đất nước thì Đất và Nước liền lại với nhau. Đất nước trong sự toàn vẹn của tổ tiên, Đất nước trong tình yêu của cá nhân.

(4)

Thuvientoan.net

Sự sinh thành của Đất và Nước là gắn liền với tình yêu. Tiếng nói tư duy trữ tình rất thống nhất với tư tưởng triết học: Đất như là một nguyên tố thuộc dương; Nước như là một nguyên tố thuộc âm. Cả hai nguyên tố đó hoà hợp với nhau tạo thành sự sống. Khi anh và em hò hẹn thì Đất và Nước không tách rời nữa mà nó liền lại. Nó liền lại bởi tình yêu và đó chính là cơ sở, cội nguồn sinh sôi nên đất nước Việt Nam suốt mấy nghìn năm qua. Đất nước được bảo tồn bởi tình yêu của con người.

- Đoạn thơ chín câu, tám lăm chữ mà không hề có một từ Hán Việt. Ngôn từ bình dị, cách nói biểu cảm thân mật. Hiện diện trong đoạn thơ là: ta, dân mình, bà, cha, mẹ. Có miếng trầu, cây tre, tóc mẹ,… Có "gừng cay muối mặn", cái kèo, cái cột, hạt gạo, v.v… Thật là thân thuộc và gần gũi, sâu xa và thấm thía, rung động. Tưởng tượng thì phong phú, liên tưởng thì bao la. Đoạn thơ đã "nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp" để ta yêu thêm Đất Nước và tự hào về Đất Nước. Cấu trúc đoạn thơ: "tổng – phân – hợp";

mở đầu là câu "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi", khép lại đoạn thơ là câu "Đất Nước có từ ngày đó". Tính chính luận đã làm sáng đẹp chất trí tuệ kết hợp hài hòa với chất trữ tình đậm đà. Đoạn thơ mang vẻ đẹp độc đáo nói về cội nguồn Đất Nước thân yêu.

1.2. Hai mươi dòng thơ tiếp theo: Định nghĩa Đất Nước (trả lời cho câu hỏi: Đất Nước là gì?)

- Cấu trúc: Đất là.... Định nghĩa Đất Nước bằng cách tách - ghép hai từ Nước là...

Đất Nước là... Đất Nước -> lối tư duy “chiết tự”, gợi chiều sâu suy tưởng. Đất Nước là sự hài hòa giữa nhiều yếu tố, trong đó có sự thống nhất của yếu tố không gian địa lí và thời gian lịch sử

- Không gian địa lí:

+ là nơi sinh sống của mỗi con người (nơi anh đến trường, nơi em tắm,..)

+ là nơi tình yêu lứa đôi nảy nở (nơi ta hò hẹn, nơi em đánh rơi chiếc khăn...) -> không gian hẹp

+ là núi, sông, rừng bể (hòn núi bạc, nước biển khơi,...)

+ là không gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ (những ai đã khuất,…

dặn dò con cháu...)

-> không gian rộng lớn, mênh mông.

- Thời gian lịch sử: Thời gian ở đây được đo bằng những hình tượng huyền thoại lấy từ truyền thuyết: Lạc Long Quân, Âu Cơ, truyền thuyết Hùng Vương, ngày giỗ Tổ.

Không gian thấm đẫm tính nguồn cội, hướng người đọc về với cội nguồn dân tộc, nhắc nhở các thế hệ nhớ về lịch sử dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng sáng tạo các yếu tố ca dao, truyền thuyết dân gian để tạo nên được những hình tượng nghệ thuật vừa gần gũi, vừa mới mẻ về đất nước trên cả bề rộng vè không gian địa lí và cả chiều dài thời gian lịch sử.

(5)

Thuvientoan.net

1.3. Mười ba dòng thơ tiếp: Đất Nước hóa thân trong mỗi con người Trong anh và em hôm nay

...làm nên Đất Nước muôn đời

- Đất nước không phải là một khái niệm trừu tượng, xa xôi mà là sự hóa thân, kết tinh trong mỗi con người. Bởi lẽ mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng một phần di sản vật chất và tinh thần của dân tộc.

- Mạch thơ dẫn đến suy ngẫm về trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước. Đó cũng là thông điệp mà tác giả muốn gửi đến mỗi chúng ta. Mặc dù viết với mục đích tuyên truyền, cổ động nhưng lời thơ của tác giả lại rất đỗi trữ tình, chỉ như một lời tự dặn mình chân thành, tha thiết.

Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên đất nước muôn đời…”

- Nhà thơ đã khéo léo tạo ra nhân vật “em” là đối tượng để gửi thông điệp. Qua hình thức đối thoại trò chuyện, tâm tình, lời thơ như lời của đôi lứa yêu nhau nên ý thơ dễ đi vào lòng người và có sức lan truyền mạnh mẽ.

* Nét đặc sắc, mới mẻ trong cách cảm nhận về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm:

Cảm nhận Đất Nước trên nhiều phương diện:

- từ chiều sâu của đời sống văn hoá, phong tục, truyền thống - từ chiều rộng của không gian địa lí

- từ chiều dài của thời gian lịch sử.

-> Đất nước hiện ra vừa thiêng liêng, sâu xa, lớn lao, vừa gần gũi, thân thiết với mọi người.

=> am hiểu -> tự hào -> biểu hiện của lòng yêu nước

2. Phần 2 - Bốn mươi bảy câu còn lại (Trả lời cho câu hỏi: Ai đã làm ra Đất Nước?)

2.2. Mười hai dòng thơ đầu: Nhân Dân làm ra vóc hình tổ quốc (Những người vợ nhớ chồng…những cuộc đời đã hóa núi sông ta)

- Tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân” trước hết được thể hiện qua sự biết ơn sâu nặng của nhà thơ đối với nhân dân đã “góp” cuộc đời mình, tuổi tên của mình, số phận mình để hóa thân thành những địa danh, thắng cảnh. Những địa danh, thắng cảnh ấy gắn với cuộc sống, số phận, tính cách của nhân dân:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

(6)

Thuvientoan.net

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình cho đất tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm…”

- Tám câu đầu, ta thấy nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật liệt kê (liệt kê những địa danh), sử dụng động từ “góp” để diễn tả hình ảnh của nhân dân hóa thân thành những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp cho Đất Nước. Các danh thắng ấy được nhà thơ liệt kê từ Bắc đến Nam, đâu đâu cũng mang bóng dáng nhân dân.

+ Ở miền Bắc, danh thắng ấy hiện lên với núi Vọng Phu, hòn Trống Mái biểu tượng cho vẻ đẹp của tình yêu thủy chung bền vững. Hòn Vọng Phu nay vẫn còn ở Lạng Sơn gắn liền với tích nàng Tô Thị bồng con chờ chồng hóa đá. Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, Thanh Hóa, tương truyền do hai vợ chồng yêu nhau hóa thân thành. Thời gian trôi qua, những vẻ đẹp thủy chung, nghĩa tình đã bất tử.

+ Đó còn là vẻ đẹp người anh hùng làng Gióng với chứng tích “ao đầm” hình móng chân ngựa mọc đầy quanh chân núi Sóc Sơn (Hà Nội). Đó là quần thể núi non hùng vĩ

“chín mươi chín con voi” bao quanh núi Hi Cương (Phú Thọ) nơi đền thờ vua Hùng ngự trị. Đó là “con cóc con gà quê hương góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”. Tất cả nhằm nhắc nhở chúng ta nhớ về truyền thống đánh giặc giữ nước, công cuộc xây dựng, kiến thiết đất nước của cha ông.

+ Ở miền Trung, nhà thơ đưa ta về với vùng đất Quảng Ngãi để chiêm ngưỡng “núi Bút, non Nghiên” do cậu học trò nghèo dựng nên. Đó là biểu tượng của truyền thống hiếu học của nhân dân đã góp cho đất nước bao tên tuổi.

+ Ở miền Nam, danh thắng là con sông Cửu Long hiền hòa, tươi đẹp: “Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”. Là những người dân hiền lành, chăm chỉ góp nên “tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân”. Đó là “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”.

- Bốn câu thơ cuối nâng ý thơ lên tầm khái quát: sự hóa thân của Nhân Dân vào bóng hình Đất Nước. Nhân Dân chính là người đã tạo dựng, đã đặt tên, ghi dấu ấn cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, khắp mọi miền đất nước này:

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha Ôi! Đất Nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”

+ Hai câu đầu trong bốn câu thơ trên khẳng định dáng hình của Nhân Dân trong không gian Đất Nước “trên khắp ruộng đồng gò bãi”. Bóng hình ấy của nhân dân không chỉ

(7)

Thuvientoan.net

làm cho đất nước thêm phần tươi đẹp mà còn mang “một ao ước, một lối sống cha ông”. Nghĩa là nhân dân không chỉ góp danh lam thắng cảnh, mà còn góp vào đó những giá trị tinh thần, là phong tục, tập quán, là truyền thống văn hóa lưu dấu tới mai sau.

+ Ở hai câu cuối, hình tượng thơ được nâng dần lên và chốt lại bằng một câu đầy trí tuệ: “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”. “Núi sông ta” sỡ dĩ có được là nhờ “những cuộc đời” đã hóa thân để góp nên. Nhân Dân không chỉ góp tuổi, góp tên mà còn góp cả cuộc đời và số phận mình. Ý thơ giản dị mà sâu sắc khiến ta hình dung Đất Nước thật gần gũi và thân thuộc.

- Tổng kết nghệ thuật: Đoạn thơ có kết cấu chặt chẽ, tự nhiên được viết theo thể thơ tự do. Câu thơ mở rộng kéo dài, biến hóa linh hoạt tạo cho đoạn thờ giàu sức gợi cảm và khái quát cao. Thủ pháp liệt kê địa danh, nhà thơ luôn viết hoa hai chữ Đất Nước thể hiện sự thành kính thiêng liêng. Động từ “góp” được nhắc lại nhiều lần. Tất cả làm nên đoạn thơ hay về đất nước.

2.3. Ba mươi lăm câu cuối: Nhân dân làm ra lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa (Em ơi em hãy nhìn rất xa… đến hết)

- Nhà thơ chuyển từ bút pháp sử thi sang giọng điệu trữ tình, nhà thơ tâm tình với

“em” mà tìm sự đồng cảm của hết thảy chúng ta: “Em ơi em Hãy nhìn rất xa/ Vào bốn nghìn năm Đất Nước Năm tháng nào cũng người người lớp lớp/ Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta / Cần cù làm lụng Khi có giặc người con trai ra trận/ Người con gái trở về nuôi cái cùng con…”. Càng nhìn sâu vào “bốn nghìn năm Đất Nước”, nhà thơ càng thấm thía với công lao xây dựng, vun đắp, bảo vệ đất nước. Đặc biệt là lớp người tuổi trẻ, những “con gái, con trai bằng tuổi chúng ta” đã làm cho nhà thơ xúc động mãnh liệt. Có lẽ đây là trực cảm của nhà thơ đối với lớp thanh niên trong thời kì chống Mĩ cứu nước - “Có biết bao người con gái, con trai/ Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi/ Họ đã sống và chết/ Giản dị và bình tâm/ Không ai nhớ mặt đặt tên/ Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”. Chính những người anh hùng vô danh ấy đã “giữ và truyền”

cho ta từ hạt lúa đến ngọn lửa, từ ngôn ngữ đến hành động: “Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm/ Có nội thù thì vùng lên đánh bại/ Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân”

- Như vậy là theo mạch chính luận và suy tưởng, tác giả đã dẫn dắt đến chiều sâu chủ đề khúc trường ca. Nhưng tác giả không dừng ở phát hiện “Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân” mà còn muốn cho khái niệm này ngân vang lên trong thần thoại, trong cổ tích, trong ca dao dân ca. Khúc trường ca không bị khô khan trong triết lí mà trở nên hồn nhiên, tươi mát, huyền ảo: “Đất Nước của Nhân Dân/ Đất Nước của ca dao thần thoại/ Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”/ Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội/ Biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ Đi trả thù mà không sợ dài lâu…”

“Đất nước” là một trích đoạn hay trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm. Bằng hình thức trữ tình – chính luận, tác giả đã khéo léo dẫn dắt

(8)

Thuvientoan.net

đến chủ đề sâu sắc là Đất Nước Nhân Dân. Xúc cảm trực tiếp, mãnh liệt từ cuộc chiến đấu sinh tử của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mĩ đã giúp tác giả huy động tình cảm, trí tuệ, kiến thức về địa lí, lịch sử, văn học, đặc biệt là văn học dân gian để diễn tả sức mạnh thần kì của Nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Một “Đất Nước Nhân Dân” tươi đẹp và thần kì như thế sẽ chiến thắng bất kì kẻ thù xâm lược nào.

3. Những nét độc đáo trong nghệ thuật biểu hiện của đoạn trích Đất Nước

3.1. Lối thơ tự do, gần như văn xuôi, hướng sâu đến trí tuệ, vận động bằng chiều sâu của trí tuệ (không véo von trong cảm xúc). Có những đoạn giãn ra đến mười hai chữ, có chỗ thắt lại trong ba chữ; lối gieo vần hỗn hợp với nhiều khúc biến tấu: vần chéo, vần lưng, không vần, nhạc điệu bên trong… có nhiều âm sắc lạ…

3.2. Giọng trữ tình có sự đan xen triết luận và chính luận tạo nên sức mạnh cảm hoá và thuyết phục. Mượn hình thức trữ tình để lí giải các vấn đề triết luận về đất nước. Hình thức trữ tình trò chuyện lứa đôi - vốn để trao gửi những tình cảm riêng tư, cá nhân, ở đây lại dùng để gửi gắm những tình cảm chung, lớn lao, thiêng liêng: tình yêu đất nước, tình cảm với nhân dân. Đất nước nhờ tình yêu của anh và em mà mênh mông thăm thẳm như một nỗi nhớ thầm…

- Ý nghĩa: sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận:

• Tạo giọng thơ trữ tình, thủ thỉ, thiết tha, đằm thắm- dấu ấn thi pháp thơ trữ tình chính trị (liên hệ với Việt Bắc - Tố Hữu).

• Làm cho những lí giải mang tầm triết học về đất nước trở nên dung dị, dễ hiểu, thấm thía.

(Nói thêm: Hình thức lời tâm tình trò chuyện của anh và em- mang tính giãi bày, bộc bạch, như lời tự nói, một kiểu tùy bút thơ độc đáo, bộc lộ suy cảm rất sâu về tổ quốc, lồng vào đó suy nghĩ về trách nhiệm và nghĩa vụ của thế hệ mình. Chất tư duy logic và chất thơ (chất hình tượng sinh động, chất xúc cảm của thơ) được kết hợp khá nhuần nhuyễn làm nên chất trữ tình- chính luận của thơ.

3.3. Sự cảm nhận về Đất nước một cách toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện

+ Trong chiều dài thời gian lịch sử (Lạc Long Quân, Âu Cơ, vua Hùng, thời trung đại, hiện đại - quá khứ - hiện tại - tương lai)

+ Trong chiều rộng không gian địa lí (Trung – Nam - Bắc, vùng núi, đồng bằng, miền biển; không gian sinh hoạt, không gian riêng tư của tình yêu lứa đôi, không gian hùng vĩ của núi cao sông dài biển rừng vàng biển bạc… Văn của Eren bua cũng nói đến dòng suối đổ vào sông… tình yêu nước bắt đầu từ cái cây trồng trước nhà, con phố đổ ra bờ sông, mùi cỏ thảo nguyên, hơi rượu mạnh, từ cụ thể đến khái quát, từ gần gũi thân thuộc đến thiêng liêng)

+ Trong bề dày của văn hoá - phong tục, lối sống, tâm hồn và tính cách dân tộc.

(9)

Thuvientoan.net

=> Ba phương diện này được thể hiện trong sự gắn bó, thống nhất. Bất kì ở đâu, thời nào, đất nước cũng là của nhân dân, nhân dân cũng làm nên đất nước, trên bất cứ phương diện nào thì tư tưởng cốt lõi cũng là quan niệm "Đất nước của Nhân dân". Đó cũng chính là hệ quy chiếu mọi cảm xúc và suy tưởng. Nhờ đó mà tác giả đã có những phát hiện mới mẻ, đặc sắc, làm sâu sắc thêm ý niệm về đất nước của thơ ca thời kì chống Mĩ, làm nổi bật tư tưởng Đất nước của nhân dân: Đất nước có trong đời sống của nhân dân, do nhân dân làm ra, trường tồn bất diệt cùng nhân dân, được nói bằng tiếng nói của nhân dân...

- Từ Nguyễn Trãi (có lật thuyền mới thấy dân như nước); Lê-nin (Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng); Nguyễn Đình Chiểu (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc); Phan Bội Châu (dân là dân nước nước là nước dân) đến Nguyễn Đình Thi (Trời xanh đây là của chúng ta)… các nhà cách mạng, các nhà thơ nhấn mạnh vào quyền sở hữu, quyền làm chủ, đối lập với thời đại trước đó (Đất nước chưa thuộc quyền làm chủ của nhân dân, nhân dân chưa có đất nước, coi nước là của Vua (Sông núi nước Nam vua Nam ở);

hay Trần Quốc Tuấn trong Hịch tướng sĩ (nói những vấn đề liên quan đến thái ấp của ta, bổng lộc các ngươi). Nguyễn Khoa Điềm nhìn ra vai trò to lớn của nhân dân.

3.4. Vận dụng sáng tạo chất liệu văn hoá, văn học dân gian

Tư tưởng bao trùm "Đất nước của Nhân Dân" khiến cho chất liệu mà Nguyễn Khoa Điềm lựa chọn để diễn tả phải là chất liệu phù hợp mà trong trường hợp này chất liệu ấy không thể là gì khác hơn là vốn văn hoá dân gian. Trong trích đoạn thơ, tác giả sử dụng rất nhuần nhị, sáng tạo vốn ca dao, tục ngữ, thành ngữ, những câu chuyện về cổ tích thần thoại, huyền thoại, thậm chí phong tục, tập quán… gắn bó lâu đời với người Việt => Tư tưởng đất nước của Nhân Dân được nói dựa trên chất liệu, kho kiến thức, vốn văn hoá nên có sức thuyết phục hơn.

- Sử dụng các chất liệu văn hóa dân gian một cách sáng tạo, không trích nguyên văn, không kể lể dài dòng mà chỉ nắm bắt lấy rất nhạy cái hồn của văn hóa dân gian để gợi liên tưởng, suy ngẫm cho độc giả, tạo cảm giác vừa quen vừa lạ. Quen vì tự thuở ấu thơ, ta đã nằm trong tiếng hát đưa nôi, hồn dân tộc Việt trong mỗi người đã đắm trong những câu ca dao, tục ngữ; cổ tích, truyền thuyết, tâm hồn ta đã căng sẵn một sợi dây đàn, chỉ cần một rung động nhỏ là tâm hồn ấy sẽ ngân rung bao hồi ức, bao rung động;

lạ vì từ những chất liệu văn hóa dân gian rất gần gũi ấy, tác giả đã thâu tóm được nhiều ý tưởng bất ngờ và rất thơ, làm cho người đọc hiểu sâu hơn đất nước nhân dân mình.

- Ngoài ra, việc thể hiện sâu tư tưởng Đất nước của nhân dân (Sau này, trong trường ca “Đất nước hình tia chớp”, Nhà thơ Trần Mạnh Hảo viết năm 1976-1977, cũng sử dụng rất nhiều chất liệu văn hóa dân gian trong chương V/10 chương - Thương nhau cởi áo cho nhau) còn có tác dụng:

+ Tạo thành bầu khí quyển bao bọc cả bài thơ, cuốn ta vào không khí của ân tình, hoài niệm

(10)

Thuvientoan.net

+ Nét mới mẻ (so với các nhà thơ khác) là những chất liệu lấy trong đời sống dân gian:

có chất văn hóa nghệ thuật gợi ca dao cổ tích, mang tính chất sang trọng, phù hợp với đối tượng thuyết phục là những người trí thức trẻ, có trình độ văn hóa, phải chinh phục bằng văn hóa. Bản thân người đọc cũng phải được tiếp nhận bằng học vấn, phải liên tưởng tìm tòi, đồng sáng tạo cùng tác giả.

3.5. Tư duy nghệ thuật hiện đại: mượn những nghịch lí để diễn đạt logic những khám phá, tư tuởng mới mẻ của mình. Nhà thơ không chuộng sáng tạo những từ ngữ mới lạ, mà tạo ra quan hệ mới lạ của những từ ngữ thân quen. Những câu đẳng thức gồm hai vế đồng nhất hóa hai đại lượng trái ngược: bên này là cái nhỏ bé, bên kia là cái lớn lao, phát hiện vẻ đẹp của chân lí dưới những điều nghịch lí, điều đó xui khiến người đọc phải đập vỡ cái phi lí để đi tìm chân lí (Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn; Em ơi em hãy nhìn rất xa... Đất Nước là nơi ta hò hẹn...)

3.6. Ngôn ngữ

- Tác giả viết hoa từ Đất Nước thể hiện thái độ trân trọng, tôn kính.

- Việc tách hai thành tố Đất và Nước như soi chiếu trong nhiều quan hệ để cảm nhận sâu sắc hơn, tách ra rồi lại nhập vào: đất là, nước là, đất nước là, ba lần như thể hát ru đất nước lớn dần lên, từ nơi hò hẹn đến nơi dân mình đoàn tụ, để rồi đẻ ra đồng bào ta, Đất và Nước đã thắm lại thành xương và máu trong mỗi cơ thể chúng ta, trong thơ Nguyễn Khoa Điềm. Từ ta, anh, em đến đồng bào ta, máu xương của mình, con ta,v.v… xuất, nhập, xuất, nhập, cứ thế, hình tượng Đất Nước lớn dần lên, rồi lại nhỏ lại để nằm trong máu thịt ta, bồi hồi trong bao niềm rung cảm mà vẫn rất giàu chất trí tuệ giàu suy luận triết lí hơn…(so với hình ảnh quê hương trong bài thơ Bài học đầu cho con của nhà thơ Đỗ Trung Quân: quê hương là chùm khế ngọt… hình ảnh bình dị mà tao nhã, gắn liền với kỉ niệm tuổi thơ)

- Ngôn ngữ mang vẻ thô phác nhưng cũng đầy mãnh liệt gợi về nguồn cội xa xăm: yêu nhau và sinh con đẻ cái…đẻ ra đồng bào ta…, đàn bà cũng đánh; nhớ ngày giỗ Tổ: mở rộng khái niệm từ “tổ”- giống nòi, tổ tiên - cội nguồn, nơi cưu mang chở che - xứ sở (ba nghĩa); hóa thân: quan niệm nhà Phật- sự hi sinh cho Tổ quốc: có phải thịt da em hóa thành mây trắng (Lâm Thị Mĩ Dạ); từ dáng đứng của anh trên đường băng Tân Sơn Nhất - Dáng đứng Việt Nam - Lê Anh Xuân; Em sẽ là hoa trên đỉnh núi – Núi đôi - Vũ Cao). Con sẽ mang Đất Nước đi xa (tôi dang tay ôm nước vào lòng - Tế Hanh;

ôm đất nước những người áo vải- Nguyễn Đình Thi)

- Giọng điệu: lúc tha thiết bồi hồi, lúc trang nghiêm lắng đọng, lúc trầm lắng trong chính luận suy tư: Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông: chất chứa suy tư…lúc nhắn nhủ âm thầm mà tha thiết: những ai đã khuất, những ai bây giờ…cúi đầu:

thiêng liêng, sâu nặng, thành kính, ngưỡng vọng tổ tiên (và đến lượt mình, ta cũng muốn cúi đầu xin nhận nợ tháng năm xa)

* Tóm lại, qua đoạn trích, tác giả đã đem đến cho ta cái nhìn mới mẻ, mang tính phát hiện về Đất Nước:

(11)

Thuvientoan.net

+ Đất nước gắn liền với những gì bình dị, thân thiết;

+ Đất nước gắn với cội nguồn

+ Đất nước không chỉ ở quanh ta mà còn ở trong tra, hiện hữu trong mỗi con người, làm nên sự sống thiêng liêng, cao đẹp,

+ Đất nước là sự gắn bó hài hòa giữa cái riêng và cái chung (hai đứa cầm tay là kết hợp bền chặt, tạo nên sự sống và thắm tình; cầm tay mọi người là sự liên kết với cộng đồng, có sức mạnh, có tầm vóc)

+ Đất nước là cuộc chạy tiếp sức giữa các thế hệ (những ai đã khuất, những ai bây giờ, yêu nhau và sinh con đẻ cái…) (hình tượng lực lưỡng) - đến TƯƠNG LAI TƯƠI ĐẸP HUY HOÀNG (những ngày ta từng mơ mộng)

+ Nhà thơ cảm nhận đất nước từ nhiều bình diện để làm nổi bật tư tưởng, tình cảm và trách nhiệm với hiện tại.

Trong nền thơ Việt Nam không hiếm những bài thơ hay về đất nước. Mỗi bài thơ có một vẻ đẹp riêng, bổ sung một góc nhìn làm cho hình ảnh đất nước hiện lên thêm đa dạng, đẹp đẽ: “Những định nghĩa cao sang xin dành cho người khác/ Dân tộc tôi khi đứng dậy làm người/ Là đứng theo dáng hình của mẹ/ Đòn gánh tre chín dạn hai vai”

- “Và cứ thế nhân dân thường ít nói Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời

Và cứ thế nhân dân cao vời vợi

Hơn cả những ngôi sao cô độc trên đời”

(Thanh Thảo - Những người đi tới biển)

- “Thầy đã giảng cho con về đất nước nhân dân Để khi mặc lành không quên người áo vá

Ăn miếng ngon nhớ bàn tay trồng khoai dỡ củ Câu ca dao đau đáu một đời”

(Thăm thầy giáo cũ- Nguyễn Bùi Vợi)

- “Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu” - Tạ Hữu Yên - Hơi ấm ổ rơm, Tre Việt Nam (Nguyễn Duy)

Điều các nhà thơ suy ngẫm, điều họ rung cảm trong nỗi niềm thổn thức xót xa có lẽ cũng là nỗi lòng chung của mỗi chúng ta, những người con nước Việt biết yêu tổ quốc mình. Hai tiếng Đất Nước thiêng liêng đã đi vào nhịp đập trái tim mỗi người và trở thành nguồn xúc cảm nghệ thuật cho nhiều thế hệ. Trong đó, trích đoạn Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm cũng có những đóng góp riêng, độc đáo, trở thành một sáng tác có giá trị, được bạn đọc yêu mến và trân trọng ngay từ khi mới ra đời.

Có được thành công đó là do tác giả đã nhập cuộc hết mình vào cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, đã tận mắt chứng kiến những đóng góp to lớn và những hi sinh không

(12)

Thuvientoan.net

kể xiết của nhân dân nên đã nói bằng tất cả sự trải nghiệm và xúc động thật của lòng mình, truyền được cảm xúc cho bạn đọc. Không thực sự xúc động và tin tưởng, không thể đồng hóa được vào cách nói, cách nghĩ của nhân dân. Chất chính luận ở bề mặt, chất trữ tình rất sâu, rọi cái nhìn khám phá lên bản đồ đất nước và bản đồ của tình yêu nước trong mỗi con người.

(13)

Thuvientoan.net

HƯỚNG DẪN HỌC BÀI - LUYỆN TẬP MỘT SỐ DẠNG ĐỀ CƠ BẢN

Phần I: Định hướng kiến thức cơ bản

1. Những điểm cơ bản về nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm

- Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

Ông sinh trưởng trong một gia đình trí thức cách mạng.

- Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ thơ trẻ những năm chống Mĩ. Thơ giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân. Tác phẩm chính: Đất ngoại ô (1972); Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974); Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986)…

2. Hoàn cảnh và mục đích sáng tác bản trường ca “Mặt đường khát vọng”

- Hoàn cảnh sáng tác: Trường ca “Mặt đường khát vọng” viết năm 1971, tại chiến khu Trị- Thiên, giữa không khí sục sôi chống Mĩ của cả dân tộc.

- Mục đích: Bản trường ca ra đời nhằm thức tỉnh tuổi trẻ thành thị ở các vùng tạm chiếm ở miền Nam nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân, đất nước. Từ đó, kêu gọi, khích lệ mọi người đứng lên, xuống đường đấu tranh hoà nhịp với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.

3. Vị trí và nội dung đoạn trích “Đất nước”

- Đoạn trích “Đất nước” được trích ở phần đầu chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”.

- Đoạn thơ là những cảm nhận mới mẻ của nhà thơ về đất nước trên nhiều bình diện (chiều dài của lịch sử, chiều rộng của địa lý, bề dày của văn hoá, phong tục…). Qua đó, nhà thơ khẳng định tư tưởng lớn: Đất nước là của Nhân dân, và Nhân dân chính là người đã làm ra Đất nước.

4. Mạch vận động của tư tưởng và cảm xúc của đoạn thơ “Đất Nước”

- Đoạn trích gồm hai phần:

+ 42 câu đầu – Đất nước có trong đời sống mọi mặt của nhân dân, hay sự cảm nhận về đất nước trong tính toàn vẹn ở các phương diện nhiều mặt: địa lý, lịch sử, văn hoá, tâm hồn và lối sống. Từ đó nhà thơ khơi gợi ý thức trách nhiệm của mỗi người với đất nước.

+ 47 dòng còn lại – Nhân dân làm nên đất nước, hay những suy tư và nhận thức về đất nước: Đất Nước của nhân dân.

- Giữa hai phần của đoạn trích không có sự tách biệt rành mạch về nội dung. Phần nào cũng thể hiện sự cảm nhận về đất nước qua các phương diện địa lý, lịch sử, tâm hồn và lối sống…

(14)

Thuvientoan.net

- Tuy nhiên, nếu chú ý, ta sẽ thấy mỗi phần có những trọng tâm khác nhau trong nội dung tư tưởng và cảm xúc:

+ Phần 1 của đoạn trích, Đất Nước được cảm từ những gì gần gũi, bình dị trong cuộc sống hằng ngày, rồi mở rộng ra với “Thời gian đằng đẵng –Không gian mênh mông”

trong những truyết thuyết về thời gian xây dựng và bảo vệ đất nước. Sau đó, nhà thơ khơi gợi ý thức trách nhiệm đối với Đất Nước với mỗi người.

+ Phần 2, cảm nhận về Đất Nước cũng mở ra theo các bình diện không gian địa lý, thời gian lịch sử, chiều sâu văn hoá và tâm hồn dân tộc, nhưng tất cả các bình diện ấy đều được nhìn nhận và phát hiện từ một tư tưởng nhất quán, bao trùm: Đất Nước của nhân dân, chính nhân dân đã làm nên đất nước. Sự cảm nhận ấy được gợi ra từ bao thắng cảnh thiên nhiên, bao địa danh gắn với tên người bình dị (“Ông Đốc…..bà Điểm..). Sau đó, nhà thơ hướng đến lịch sử bốn nghìn năm với những lớp người

“không ai nhớ mặt đặt tên”, “giản dị và bình tâm” – chính họ đã làm nên đất nước...

Phần II: Luyện tập một số dạng đề cơ bản Dạng 1: Phân tích, cảm nhận về một đoạn trích

Phân tích đoạn thơ sau đây trong đọan trích “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm:

“Trong anh và em hôm nay,

………

Làm nên Đất Nước muôn đời”.

Hướng dẫn làm bài I/ Mở bài

- Nguyễn Khoa Điềm là... “Đất nước” là... Đọan thơ sau đây là những lời nhắn nhủ tâm tình về sự gắn bó và trách nhiệm của mỗi người với đất nước...

II/ Thân bài

- Sau những cảm nhận mới mẻ và sâu sắc của nhà thơ về đất nước qua những phương diện không gian- địa lý, thời gian- lịch sử, phong tục- văn hóa …, Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến khẳng định:

“Trong anh và em hôm nay, Đều có một phần Đất Nước”

+ Đất nước đã hóa thân vào mỗi con người, bởi chúng ta đều là con Rồng, cháu Tiên, đều sinh ra và lớn lên trên đất nước này. Mỗi người Việt Nam đều đã và đang thừa hưởng những giá trị vật chất, tinh thần của đất nước, đất nước thành máu thịt, tâm hồn, nếp cảm, nếp nghĩ và cách sống của ta.

(15)

Thuvientoan.net

- Từ việc khẳng định đất nước hóa thân và kết tinh trong cuộc sống của mỗi người, nhà thơ nói về mối quan hệ gắn bó sâu sắc của mỗi người với đất nước bằng những câu thơ giàu chất chính luận:

“Khi hai đứa cầm tay... Đất Nước vẹn tròn, to lớn”

- Với những cảm nhận tinh tế, mới mẻ về sự hòa quyện giữa cái riêng và cái chung, giữa tình yêu và niềm tin, đồng thời kết hợp sử dụng các tính từ “hài hòa, nồng thắm”;

“vẹn tròn, to lớn” đi liền nhau; đặc biệt là kiểu câu cấu tạo theo hai cặp đối xứng về ngôn từ (“Khi/ Khi; Đất Nước/ Đất Nước), nhà thơ muốn gửi đến cho người đọc bức thông điệp: đất nước là sự thống nhất hài hòa giữa tình yêu đôi lứa với tình yêu Tổ quốc, giữa cá nhân với cộng đồng.

- Không chỉ khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa Đất nước và nhân dân, giữa tình yêu cá nhân với tình yêu lớn của đất nước; nhà thơ còn thể hiện niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng: “Mai này con ta lớn lên... Đến những tháng ngày mơ mộng”.

Thế hệ sau “con ta lớn lên... sẽ mang Đất Nước đi xa- Đến những tháng ngày mơ mộng”. Đất nước sẽ đẹp hơn, những tháng ngày mơ mộng ở hiện tại sẽ trở thành hiện thực ở ngày mai.

- Khi đã hiểu hết ý nghĩa thiêng liêng của đất nước, nhà thơ muốn nhắn gửi với mọi người: “Em ơi em đất nước là máu xương của mình/ Phải biết gắn bó và san sẻ...Làm nên Đất Nước muôn đời…”

Bằng giọng văn trữ tình kết hợp với chính luận; bằng cách sử dụng câu cầu khiến, điệp ngữ “phải biết - phải biết” nhắc lại hai lần cùng các động từ mạnh “gắn bó, san sẻ, hóa thân” …nhà thơ như nhắn nhủ mình, nhưng cũng là nhắn nhủ với mọi người (nhất là thế hệ trẻ) về trách nhiệm thiêng liêng của mình với đất nước. Cái hay là lời nhắn nhủ mang tính chính luận nhưng lại không giáo huấn mà vẫn rất trữ tình, tha thiết như lời tự dặn mình - dặn người của nhà thơ.

III/ Kết bài

- Tóm lại, đây là một trong những đọan thơ hay và sâu sắc trong “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Bởi lẽ, qua đọan thơ, nhà thơ đã giúp cho chúng ta hiểu hơn về sự gắn bó giữa mỗi người với đất nước. Từ đó, ý thức hơn về trách nhiệm của mỗi người với đất nước quê hương.

- Đồng thời, đọan thơ cũng giúp ta thấy được vẻ đẹp trong phong cách thơ trữ tình- chính luận của nhà thơ.

Dạng 2: Phân tích trong sự so sánh, liên kết

Cách trình bày kiểu bài so sánh thông thường có hai cách là nối tiếp và song song.

Thứ nhất, nối tiếp là lần lượt phân tích từng đối tượng sau đó chỉ ra cái giống và khác nhau. Cách này dễ làm nhưng khó hay, nhiều khi trùng lặp ý và sắc thái so sánh bị

(16)

Thuvientoan.net

chìm. Tuy nhiên, vì yêu cầu cho đại trà nên đáp án đại học những năm qua thường gợi ý theo cách này.

Thứ hai là song song tức là song hành so sánh trên mọi bình diện của hai đối tượng.

Cách này hay nhưng khó, đòi hỏi khả năng tư duy chặt chẽ, lô gic, sự tinh nhạy trong phát hiện vấn đề.

Ví dụ 1: Khi so sánh bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và trích đo ạn Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, có thể song song so sánh để nhận ra điểm tương đồng và điểm khác biệt trên các bình diện: Xuất xứ - dụng ý nghệ thuật - hình tượng - chất liệu và giọng điệu trữ tình. Về xuất xứ, hoàn cảnh ra đời: Đất nước của Nguyễn Đình Thi là một chỉnh thể sáng tạo tổng hợp từ hai bài thơ trước đó và nó có dáng dấp như một trường ca thu nhỏ. Trong khi đó, Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm là một mảnh nhỏ vỡ ra từ chỉnh thể trường ca lớn. Một bài là tác phẩm tiêu biểu thời kháng chiến chống Pháp, một bài là tác phẩm xuất sắc thời chống Mĩ. Về dụng ý nghệ thuật, Nguyễn Đình Thi muốn khái quát hình tượng đất nước trong suốt chiều dài cuộc kháng chiến chống Pháp, qua đó gửi gắm những suy tư, tâm niệm về sức sống diệu kì của dân tộc Việt Nam anh hùng còn Nguyễn Khoa Điềm muốn làm sáng lên tư tưởng: đất nước của nhân dân qua việc cắt nghĩa lí giải các câu hỏi: Đất nước có tự bao giờ? Đất nước là gì? Mối quan hệ giữa con người và đất nước?... Về hình tượng, Nguyễn Đình Thi khắc họa hình ảnh của giang sơn tổ quốc là đất và trời thì Nguyễn Khoa Điềm hướng đến đất và nước như hai yếu tố khởi thủy hợp lại. Với Nguyễn Đình Thi, nhân dân là những con người trong một cuộc hành trình trường chinh máu lửa vươn vai như những thiên thần còn với Nguyễn Khoa Điềm là đám đông vô danh bốn nghìn thế hệ, hòa nhập vào nhau để hóa thành đất nước trong hình tượng mang màu sắc huyền thoại. Về chất liệu, Nguyễn Đình Thi sử dụng chất liệu thi ca từ chi tiết đờ i sống bằng vốn sống và ấn tượng chủ quan trực tiếp còn Nguyễn Khoa Điềm nhào nặn tài tình vốn văn hóa dân gian trong ca dao, truyền thuyết, cổ tích… Về giọng điệu, bài thơ của Nguyễn Đình Thi có giọng tráng ca hào sảng dõng dạc. Với Nguyễn Khoa Điềm, đó là giọng trữ tình của một chàng trai trong lời tâm tình với người yêu, thân mật mà nghiêm trang, cảm xúc đan cài suy tư, triết lí làm nên giọng triết luận tâm tình.

Ví dụ 2: Cảm nhận của anh chị về vai trò của nhân dân trong đời sống cá nhân và lịch sử qua hai đoạn thơ sau:

- “Con gặp lại Nhân dân...cánh tay đưa”

- “Không ai nhớ mặt đặt tên...Đất Nước Nhân dân”

Bước 1. Giới thiệu: Đoạn thơ thứ nhất thuộc khổ thứ 5 của bài thơ “Tiếng hát con tàu”, nói lên niềm biết ơn, tình yêu, sự gắn bó sâu sắc với nhân dân...Đoạn thơ thứ hai thuộc phần cuối trích đoạn “Đất nước” trong chương V trường ca “Mặt đường khát vọng”, l àm rõ tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, nhấn mạnh vai trò sáng tạo và làm nên lịch sử của những người lao động bình thường.

Bước 2. Cảm nhận hai đoạn thơ

(17)

Thuvientoan.net

Bước 3: Điểm tương đồng và khác biệt

- Tương đồng: Cả hai đoạn đều lấy nhân dân làm đối tượng miêu tả nhận thức về vai trò...đều thể hiện tình cảm ngợi ca, trân trọng, tôn vinh qua ngôn từ giàu tính thẩm mĩ của nghệ thuật thi ca.

- Khác biệt: Đoạn thơ thứ nhất là sự thức tỉnh, chuyển biến tư tưởng của nhà thơ khi thấy ngọn nguồn nuôi dưỡng và chân trời nghệ thuật mới của mình ở đời sống nhân dân và đất nước. Vì thế, lời thơ cất lên tiếng nói biết ơn sâu nặng... Cách thể hiện mang đậm phong cách của Chế Lan Viên là sáng tạo hình ảnh phong phú. Đoạn thơ thứ hai, hình tượng nhân dân được khắc họa trực tiếp trong tình cảm ngợi ca và sự tôn vinh, nhận thức sâu sắc về vai trò làm nên đất nước của nhân dân. Phong cách nổi bật của NKĐ là sự kết hợp hài hòa gi ữa chính luận và trữ tình, suy tưởng và cảm xúc...

Bước 4: Đánh giá chung: hai đoạn trích đều là những đoạn thơ hay trong mạch thơ về đất nước nhân dân của thơ ca hiện đại Việt Nam, góp phần thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm và tài năng của các tác giả.

Dạng 3: Tích hợp với Nghị luận xã hội

Đề minh họa (5,0 điểm): Trong trích đoạn thơ “Đất nước” (Trích trường ca: “Mặt đường khát vọng”), nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có viết: “Trong anh và em hôm nay/

Đều có một phần Đất Nước”. Tại sao nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có thể nói như vậy?

Đoạn thơ đã đem đến cho anh/chị những gì để làm phong phú thêm “phần Đất Nước”

ấy?

Hướng dẫn

1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vấn đề cần phân tích.

2. Qua sự phân tích cụ thể (dựa vào hiểu biết xã hội và kiến thức văn học đã học từ đoạn thơ), lí giải vì sao nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có thể nói như vậy.

- Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm đem đến cho ta cảm nhận về Đất Nước thiêng liêng nhưng cũng rất gần gũi. Nó không chỉ ở quanh ta mà còn ở trong ta, trở thành một phần hòa chảy cùng dòng máu nóng trong cơ thể thành những nhịp đập trong trái tim, từ đó trong mỗi chúng ta đều có một phần Đất Nước.

- “Đất Nước” trong ta là phong tục tập quán, là bản sắc văn hóa, là truyền thống muôn đời của cha ông được hòa quyện trong dòng máu thắm đỏ Lạc Hồng:

+ Khi ta cất tiếng chào đời, mẹ cha ta đã dành cho ta tình yêu thương vô hạn, Đất Nước hiện hình trong ta qua những cái “ngày xửa ngày xưa” từ giọng kể của mẹ, của bà. những lời ru “ầu ơ” ngọt ngào bên cánh võng.

+ Ta dần lớn lên, chập chững những bước đi đầu tiên trên mặt đất và bập bẹ hai tiếng

“mẹ, cha” ngọng nghịu. Tiếng nói đầu tiên của ta cũng là tiếng nói của đất nước, của

(18)

Thuvientoan.net

cha ông. “Hồn thiêng sông núi” đã bắt đầu hình thành mạch ngầm trong huyết quản của ta.

+ Ta lớn lên, tự khám phá cuộc sống, “phần Đất Nước” cũng lớn dần lên trong mỗi chặng đường đường ta đi. Nó không chỉ là thiên nhiên có quanh ta, mà còn là bầu khí quyển xã hội nuôi lớn tâm hồn ta: những bài giảng lịch sử, văn học... của thầy cô, những hiếu biết về những giá trị văn hóa của cha ông để lại; phần “Đất nước” trong ta không ngừng lớn lên từ sự quan sát và cảm hiểu thiên nhiên, lịch sứ, truyền thống đất nước, từ sự rung động đẹp đẽ trước một tác phẩm văn học dân tộc.

- Với chương V - Đất nước Nguyễn Khoa Điềm cho ta gặp gỡ “phần Đất Nước” trong ông và trong chính chúng ta, giúp ta hiểu thêm về một đất nước kiên cường, bất khuất mà cũng nhân ái, chan hòa; thấm thía hơn một chân lí “Đất nước này là đất nước Nhân dân”. “Phần Đất Nước” trong ta có thêm lòng biết ơn Nhân Dân vĩ đại.

3. Bình luận, đánh giá

- Đoạn trích đã mang đến cho ta những nhận thức và tình cảm mới mẻ về Đất Nước.

Không chỉ thế, đoạn trích còn chỉ rõ cho tôi và bạn - thế hệ hôm nay - phải làm gì cho đất nước, non sông. để cho mỗi người Việt Nam có “một phần Đất Nước” cho riêng mình thật phong phú, đa dạng mà cũng thật giản dị, gần gũi.

- Pautopski đã từng nói: Niềm vui của nhà thơ chân chính là niềm vui của người mở đường đến sứ xở của cái đẹp”. Nguyễn khoa Điềm đã có được niềm vui ấy- niềm vui của người mở đường đến với Đất nước Nhân Dân để ta nhận ra phần Đất Nước trong ta thiêng liêng, gắn bó sâu sắc đến mức nào.

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Dựa vào khổ thơ thứ hai của đoạn thơ trên, hãy viết một đoạn văn theo cách diễn dịch, độ dài khoảng 12 câu trình bày cảm nhận của em về tình huống nhân vật trữ tình bất

Trong bài nghị luận phân tích, đánh giá về một tác phẩm thơ, thực chất của việc phân tích chủ đề là việc phân tích, nêu cảm nhận của bản thân về giá trị nội dung và

Khác với những nhà thơ trung đại gắn bó với những thể thơ truyền thống, dân tộc quen thuộc thì trong tác phẩm Bảo kính cảnh giới của mình tác giả Nguyễn Trãi đã thể

- Trong bài nghị luận phân tích, đánh giá về một tác phẩm thơ, thực chất của việc phân tích chủ đề là việc phân tích, nêu cảm nhận của bản thân về giá trị nội dung và

Những tưởng rằng đất nước là những gì cao siêu, xa vời, khác thường, nhưng không, đối với Nguyễn Khoa Điềm không gian đất nước lại được tái hiện hết sức bình dị, gần

Bài thơ là khúc hát về lòng biết ơn, thể hiện tình yêu và sự gắn bó, khát vọng và niềm hân hoan khi trở về với nhân dân, đất nước của một tâm hồn thơ đã tìm thấy ngọn

Chi tiết kết thúc phần một của vở kịch là hấp dẫn nhất vì đẩy mâu thuẩn kịch lên đỉnh điểm (thắt nút)... * Thi đọc diễm cảm

Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là trình bày nhận xét, đánh giá của mình về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ ấy.. -