• Không có kết quả nào được tìm thấy

(0,5 điểm): Sự khác nhau trong quyết định của người nông dân

Phần II – Câu 2:

Câu 4 (0,5 điểm): Sự khác nhau trong quyết định của người nông dân

-Người nông dân nhanh chóng buông xuôi và bỏ cuộc.

-Con lừa khôn ngoan, dùng chính những xẻng đất muốn vùi lấp nó để tự giúp mình lên khỏi giếng.

II. LÀM VĂN (7,0 điểm):

Câu 1 (2,0 điểm):

STUDY TIP

Với câu hỏi này, các em cần định hướng được ngay mình cần triển khai những ý chính sau:

- Những thử thách trong cuộc sống mà con người gặp phải là gì?

-Trước những thử thách ấy ta cán có thái độ và hành động như thế nào?

-Liên hệ, phê phán những người thiếu nghị lực và lòng dũng cảm không dám đối diện với những thử thách ấy.

1. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn (0,25 điểm)

Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng - phân - hợp, móc xích hoặc song hành.

2. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận(0,25 điểm):

Con người cần đối diện như thế nào trước những thử thách trong cuộc sống?

3. Triển khai vấn đề nghị luận (1,0 điểm):

Thí sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề cần nghị luận nhưng cần làm rõ thái độ và cách ứng xử của con người trước những thử thách trong cuộc sống. Có thể theo hướng sau:

- Những khó khăn thử thách trong cuộc sống: những điều không may mắn, bệnh tật hiểm nghèo, thất bại trong công việc, đổ vỡ trong tình cảm, hôn nhân... là những điều khó tránh khỏi. Chúng ta có thể gặp phải những thử thách ấy bất cứ lúc nào.

- Điều quan trọng là trước những thử thách ấy chúng ta phải:

+ Dũng cảm đối mặt, không vội buông xuôi, đầu hàng, tìm cách vươn lên. Con người phải biết dựa vào chính mình, đó là sức mạnh tinh thần giúp con người vượt qua được những giới hạn của cuộc sống.

+ Nhạy bén, sáng tạo, thông minh... để tìm cách vượt qua

- Phê phán những người trông chờ, ỷ nại vào người khác, không dám đối diện với khó khăn thử thách của cuộc sống.

4. Chính tả, dùng từ, đặt câu (0,25 điểm):

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp, ngữ nghĩa Tiếng Việt.

5. Sáng tạo (0,25 điểm):

Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.

Câu 2 (5,0 điểm)

STUDY TIP

Với câu hỏi này, các em cần bám sát vào đoạn văn được trích dẫn để phân tích vẻ đẹp của sông Hương.

Sau đó đối sánh với cảm nhận của Hàn Mặc Tử trong đoạn thứ 2 bài Đây thô Vĩ Dạ để thấy được khám phá riêng của mỗi nghệ sĩ.

1. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận (0,25 điểm):

Có đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài. Mở bài giới thiệu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề.

2. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0,5 điểm):

Vẻ đẹp của sông Hương đoạn chảy qua thành phố Huế, liên hệ với đoạn thơ của Hàn Mặc Tử để thấy được những khám phá riêng của mỗi nhà văn, nhà thơ khi viết về dòng sông xứ Huế.

3.Triển khai vấn đề nghị luận:

Vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng a.Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, đoạn trích và vấn đề cần nghị luận (0,5 điểm):

-Huế, khúc ruột miền Trung của đất nước từ bao đời đã trở thành mảnh đất của thi ca, nhạc họa.

Người dân Huế tự hào vì có những đền đài cổ kính và những miệt vườn xanh mướt vùng ngoại ô Vĩ Dạ...

Nhưng có lẽ, Huế đẹp nhất là bởi vì có sông Hương. Sông Hương đến với Huế như một đặc ân mà tạo hóa đã ban tặng cho mảnh đất này. Từ cuộc đời, sông Hương đã chảy vào bao áng thơ ca và bắt lên những giai điệu ngọt ngào, say đắm. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” (Hoàng Phú Ngọc Tường) và “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử) là những tác phẩm xuất sắc viết về vẻ đẹp của sông Hương và Huế.

-Tuy nhiên, trong cảm nhận của mỗi tác giả, sông Hương lại hiện lên với một vẻ đẹp riêng. Đoạn sông Hương chảy giữa lòng thành phố Huế (trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông?) và khổ thứ 2 bài “Đây thôn Vĩ Dạ” đã thể hiện rõ những khám phá riêng ấy.

b.Cảm nhận về vẻ đẹp của sông Hương trong đoạn văn (2,0 điểm) CHÚ Ý

Vẻ đẹp của sông Hương:

- Mới về đến Huế: vui tươi, háo hức

- Đi giữa lòng thành phố: mang vẻ đẹp tâm hồn đặc trưng của Huế + Tinh tứ, nhẹ nhàng (qua lưu tốc của dòng nước)

+ Chất chứa nỗi niềm tâm sự thầm kín (người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya)

-Mới về đến Huế:

+ Sông Hương vui tươi hẳn lên như một người con xa quê đã tìm được đúng đường về. Nếu trước khi

về đến Huế, sông Hương phải đổi dòng một cách liên tục như một cuộc tìm kiếm có ý thức thì giờ đây, khi đã đi giữa lòng thành phố, dòng sông kéo một nét thẳng thực yên tâm  Câu văn miêu tả dòng chảy của dòng sông mà gợi lên được cái yên bình của tâm hồn người con gái đã tìm được người tình mà nó hằng mong đợi.

+ Khi giáp mặt thành phố sông Hương uốn một cánh cung thật nhẹ khiến dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. “Vâng” là đã thuận tình nhưng chưa dám nói ra vì ngượng ngùng, e lệ. Cách so sánh độc đáo này đã biến sông Hương trở thành một cô gái Huế vừa e lệ, kín đáo vừa dịu dàng, duyên dáng biết bao!

- Đi giữa lòng thành phố thân yêu, sông Hương mang vẻ đẹp đặc trưng của tâm hồn Huế:

+ Lưu tốc chậm chạp như tính cách tình tứ nhẹ nhàng của người con gái Huế: dòng sông trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh, nhà văn gọi đó là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế. Nhà văn giải thích điều này từ đặc điểm địa lí của dòng sông (do có hai hòn đảo nhỏ trên sông cùng rất nhiều chi lưu đã làm chậm lại tốc độ của dòng nước). Nhưng có lẽ, sông Hương trôi đi chậm như vậy là bởi vì quá yêu mến thành phố Huế xinh đẹp, không nỡ rời xa. Điệu chảy lững lờ ấy đã từng đi vào thơ Thu Bồn:

Con sông dùng dằng con sông không chảy Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu

(Tạm biệt)

Ở đây Hoàng Phú Ngọc Tường còn đặt sông Hương bên cạnh dòng sông Nê - va với lưu tốc mạnh mẽ, rồi dẫn ra cả câu nói nổi tiếng của nhà triết học Hi Lạp cổ đại để càng thấy yêu mến điệu chảy lững lờ của sông Hương.

+ Dòng sông còn như chất chứa tâm sự thầm kín khi trở thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.

++ Nhà văn nhắc đến nền âm nhạc cổ điển Huế và nhấn mạnh: “Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”. Quả thật, giữa mênh mang sông nước, tiếng mái chèo khua, tiếng nước vỗ vào mạn thuyền đã như một chiếc hộp cộng hưởng khổng lồ nâng cánh cho những điệu hò dân gian xứ Huế. Không có sông Hương, cũng không thể có nhã nhạc cung đình Huế ngày nay.

++ Ở đoạn này, tác giả còn liên tưởng đến Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Theo nhà văn, những bản đàn từng đi suốt đời Kiều cũng được Nguyễn Du lấy cảm hứng từ đây. Không phải ngẫu nhiên nhà văn lại nhắc đến Truyện Kiều - tập đại thành của văn học Việt Nam. Rõ ràng, sông Hương đã hòa vào dòng văn hóa của dân tộc, trở thành điệu tâm hồn của biết bao người.

 Như vậy, sông Hương từng là bà mẹ phù sa đem màu mỡ cho đất đai nuôi sống con người, làm người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cảnh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, nay sông Hương lại sản sinh ra âm nhạc để bồi đắp tâm hồn con người. Tình cảm của người gái đẹp sông Hương dành cho Huế thật sâu đậm biết bao!

c. Liên hệ với đoạn thơ trong Đây thôn Dạ của Hàn Mặc Tử để làm sáng tỏ nhận định của Hoàng Phú Ngọc Tường(1,0 điểm)

- Đoạn thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ

+ Dòng Hương thơ mộng như nhuốm màu tâm trạng: hòa vào khung cảnh gió mây chia lìa thì dòng nước cũng buồn thỉu. Nghệ thuật nhân hóa độc đáo khiến sông Hương mang nỗi buồn của lòng người, nỗi buồn đến độ héo hon, làm cho con người gần như mất đi cả sự sống. Đây cũng là cách nói đặc trưng của người dân xứ Huế.

+ Hai câu cuối, dòng sông mang vẻ đẹp huyền ảo, thơ mộng với hai hình ảnh: bến sông trăng

thuyền chở trăng. Cảnh đẹp nhưng lại ẩn chứa bi kịch lỡ dở bởi hai câu hỏi tu từ khắc khoải: Thuyền ai?

Có... kịp? Thuyền ai phiếm chỉ gợi lên bao ngỡ ngàng bâng khuâng, tưởng như quen mà lạ, gần đó mà xa xôi. Con thuyền đơn côi nằm trên bến đợi sông trăng là một nét vẽ thơ mộng và độc đáo. Con thuyền không chở người (vì người xa cách chia li) mà chỉ chở trăng về. Phải về kịp tối nay vì đã cách xa và mong đợi sau nhiều năm tháng. Con thuyền tình của ước vọng nhưng đã thành vô vọng! Bến sông trăng trở nên vắng lặng vì "thuyền ai" phiếm chỉ, như có, như không.

- Những khám phá riêng của mỗi nghệ sĩ khi viết về sông Hương: Lời khẳng định đầy tự hào của Hoàng Phú Ngọc Tường dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm nhận của các nghệ sĩ cho thấy sông Hương có vẻ đẹp tiềm ẩn, phong phú khiến mỗi nghệ sĩ khi tìm đến lại khám phá thấy một vẻ đẹp mới.

+ Đây thôn Vĩ Dạ: Chọn điểm nhìn cảm xúc ở một không gian hẹp, thu nhỏ, đồng thời đó là cái nhìn được gợi hứng từ bức ảnh, cái nhìn của kí ức nên Hàn Mặc Tử đã làm nổi bật vẻ đẹp của xứ Huế qua những nét đặc trưng rất bình dị, gần gũi, quen thuộc và đầy chất lãng mạn: Đó là cảnh sông nước, con người xứ Huế trong vẻ đẹp sâu đậm của cảm xúc về tình đời, tình người. Cảm hứng chủ đạo của tác giả khi tái hiện hình tượng sông Hương là bâng khuâng, tha thiết nhưng cũng hoài nghi, tuyệt vọng.

+ Ai đã đặt tên cho dòng sông? Chọn điểm nhìn là sông Hương giữa lòng thành phố Huế. Đặt trong một không gian phóng khoáng, rộng lớn hơn, Hoàng Phú Ngọc Tường có cái nhìn bao quát, trải dài từ quá khứ cho đến hiện tại, từ dòng sông cho đến văn hóa Huế. Vì thế, vẻ đẹp của sông Hương hiện lên toàn diện hơn, chân thực hơn với dòng chảy lững lờ, với những đêm trình diễn nhã nhạc cung đình...

Dưới ngòi bút của Hoàng Phú Ngọc Tường sông Hương chính là linh hồn của Huế, là nơi tích tụ những trầm tích văn hóa lâu đời của mảnh đất kinh thành cổ xưa. Cảm hứng chủ đạo của nhà văn khi viết về sông Hương ở đoạn này là vui tươi, say mê, tự hào.

Có những khám phá riêng như thế là do:

+ Hoàn cảnh sáng tác và phong cách văn chương khác nhau.

+ Do đặc điểm thể loại của thơ và bút kí. Thơ chủ yếu nghiêng về cảm xúc, bút kí đòi hỏi không chỉ cảm xúc mà ít nhiều còn có tính xác thực và khách quan của hiện thực phản ánh.

4. Chính tả, dùng từ, đặt câu (0,25 điểm)

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Việt.

5. Sáng tạo (0,5 điểm)

Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận

TÀI LIỆU THAM KHẢO Phần II - Câu 1:

- Đoạn văn tham khảo:

Alexander Graham Bell từng nói: “Thành công sẽ đến với những ai biết rõ mình muốn gì và không bao giờ bỏ cuộc cho đến khi đạt được điều đó”, thử thách là một phần quan trọng của cuộc sống và phải sử dụng nó ta mới có được thành công. Nếu muốn bản thân sinh ra đã hoàn hảo, giỏi giang ngay từ đầu thì là điều không thể. Những khó khăn, thử thách trong cuộc sống như: điều không may mắn, bệnh tật hiểm nghèo, thất bại trong công việc, đổ vỡ trong tình cảm, hôn nhân... có thể ập đến với ta bất cứ lúc nào. Điều quan trọng là trước những thử thách ấy chúng ta phải dũng cảm đối mặt, không vội buông xuôi, đầu hàng mà phải tìm cách vươn lên. Chúng ta cũng không nên trông chờ, dựa dẫm vào người khác mà nên dựa vào chính mình, nhạy bén, sáng tạo, thông minh để tìm thấy giải pháp trong mọi hoàn cảnh.

Những ai trông chờ, ỷ nại vào người khác, không dám đối diện với khó khăn thử thách của cuộc sống mãi mãi không thể đạt được ước mơ, khát vọng của chính mình.

Lovebook.vn (Đề thi có 02 trang)

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019

CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 23 Môn thi: NGỮ VĂN

Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề Họ, tên thí sinh:...

Số báo danh:...

I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm)

Đọc đoạn văn bản sau và trả lời câu hỏi:

(1) ... Ai cũng biết, người biết suy nghĩ phải trái, biết lý lẽ là những người không sổng tùy tiện. Mọi lời nói, suy nghĩ và việc làm của họ luôn hướng tới cái hay, cái đẹp; hướng tới lợi ích bản thân trong mối quan hệ với lợi ích chung của những người xung quanh. Cách sống đó là món trang sức quý giá nhất mà mỗi người tự trang bị cho mình thông qua học vấn, cụ thể là từ việc đọc sách.

(2) Đọc sách thể dục thể thao, chúng ta biết rèn luyện sức khỏe dẻo dai bền bỉ hơn. Đọc sách triết học, chúng ta nhận ra những quy luật và những diễn biến ý thức hệ trong cuộc sống, từ đó hình thành cách nhìn và cách nghĩ của bản thân. Đọc sách vật lý chúng ta hiểu biết về quy luật vận động của thế giới tự nhiên hơn, từ đó ứng dụng vào cuộc sống. Đọc sách văn học để hình thành cảm xúc, thái độ hợp lý trước mọi cảnh ngộ, cuộc đời; xây dựng đời sống hài hòa, nhân văn, có chiều sâu... Tóm lại, sách đem đến cho con người một cuộc sống tốt đẹp, hòa hợp giữa bản thân với cộng đồng, môi trường xung quanh, xã hội và cả nhân loại.

(3) Dĩ nhiên, những điều được trình bày phía trên không phải là tất cả những lợi ích mang lại của việc đọc sách. Chúng ta còn có thể thấy, người đọc nhiều sách có kiến thức sâu rộng, hội tụ nhiều năng lực, lời nói có cơ sở và có uy tín nên được mọi người lắng nghe, xem trọng... Nhưng ai cũng biết, đọc sách trước tiên là để giúp mình sống tốt hơn.

(Trích Lợi ích của việc đọc sách – Theo www.ttn.php/16) Câu 1: Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản trên?

Đề cương

Tài liệu liên quan