• Không có kết quả nào được tìm thấy

Phần II – Câu 2:

Câu 4: Hãy đặt tên cho văn bản

Lovebook.vn (Đề thi có 01 trang)

ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019

CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 17 Môn thi: NGỮ VĂN

Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề Họ, tên thí sinh:...

Số báo danh:...

I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm)

Đọc đoạn văn bản sau và trả lời các câu hỏi:

Sáu con người, do sự tình cờ của số phận, mắc kẹt vào cùng một cái hang rất tối và lạnh. Mỗi người chỉ còn một que củi nhỏ trong khi đống lửa chính đang lụi dần.

Người phụ nữ đầu tiên định quẳng que củi vào lửa, nhưng đột nhiên rụt tay lại. Bà vừa nhìn thấy một khuôn mặt da đen trong nhóm người da trắng. Người thứ hai lướt qua các bộ mặt quanh đống lửa, thấy một người trong số đó không đi chung nhà thờ với ông ta. Vậy là thanh củi cũng bị thu về. Người thứ ba trầm ngâm trong một bộ quần áo nhàu nát. Ông ta kéo áo lên tận cổ, nhìn người đối diện, nghĩ thầm: “Tại sao mình lại phải hi sinh thanh củi để sưởi ấm cho con heo béo ị giàu có kia?”. Người đàn ông giàu lui lại một chút, nhẩm tính: “Thanh củi trong tay, phải khó nhọc lắm mới kiếm được, tại sao ta phải chia sẻ nó với tên khố rách áo ôm lười biếng đó?”. Ánh lửa bùng lên một lần cuối, soi rõ khuôn mặt người da đen đang đanh lại, lộ ra những nét hằn thù: “Không, ta không cho phép mình dùng thanh củi này sưởi ấm những gã da trắng!”.

Chỉ còn lại người cuối cùng trong nhóm. Nhìn những người khác trầm ngâm trong im lặng, anh ta tự nhủ: “Mình sẽ cho thanh củi, nếu có ai đó ném phần của họ vào đống lửa trước.”

Cứ thế, đêm xuống dần. Sáu con người nhìn nhau căng thẳng, tay nắm chặt những que củi. Đống lửa chỉ còn than đỏ rồi lụi tắt. Sáng hôm sau, khi những người cứu hộ tới nơi, cả sáu đều đã chết cóng…

(Theo Quà tặng cuộc sống) Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản trên?

Câu 2: Người viết văn bản trên đã đặt các nhân vật vào một tình huống như thế nào? Ý nghĩa của cách tạo dựng tình huống đó?

Lovebook xin cảm ơn!

CHÚC CÁC EM LÀM BÀI TỐT!

HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)

Câu 1 (0,5 điểm):

Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản trên là: tự sự/ phương thức tự sự.

Câu 2 (1,0 điểm):

STUDY TIP

Ở dạng câu hỏi về tình huống, các em cần chỉ ra: Các nhân vật đang bị đặt vào hoàn cảnh đặc biệt như thế nào?

Các nhân vật bị đặt vào một tình huống đặc biệt:

- Sáu người bị mắc kẹt vào một cái hang, thời tiết lạnh lẽo, khắc nghiệt, đống lửa duy nhất lại đang tàn dần trong khi đó mỗi người đều đang sở hữu một que củi.

- Ý nghĩa của tình huống: Tình huống có tính chất thử thách các nhân vật, qua đó tính cách các nhân vật bộc lộ rõ nét: tất cả đều hẹp hòi, nhỏ nhen, ích kỉ, thiếu tình yêu thương đồng loại, thiếu tinh thần đoàn kết…

Câu 3 (1,0 điểm): Nguyên nhân khiến sáu người chết cóng:

- Trước hết là vì hoàn cảnh khắc nghiệt: cái lạnh của hang đá làm họ kiệt sức.

- Tuy nhiên, nếu các nhân vật biết cách chia sẻ thanh củi của mình thì có lẽ họ đã không chết cóng. Họ không chỉ chết vì cái lạnh của hang đá mà còn chết vì chính cái lạnh từ tâm hồn họ. Đó là sự phân biệt chủng tộc, sự kì thị tôn giáo, sự phân biệt giàu nghèo… Nói cách khác là do lối sống hẹp hòi, ích kỉ, thiếu tình yêu thương đồng loại, thiếu tinh thần đoàn kết cộng đồng trong hoàn cảnh thử thách.

Câu 4 (0,5 điểm): Thí sinh có thể đặt nhiều tiêu đề khác nhau nhưng cần ngắn gọn, phù hợp với nội dung văn bản và gây được ấn tượng.

Ví dụ: Lạnh, Nơi lạnh nhất ở đâu…

II. LÀM VĂN (7,0 điểm):

Câu 1 (2,0 điểm):

STUDY TIP

Đây là dạng câu hỏi nghị luận về một vấn đề rút ra từ một câu chuyện. Vì thế trước tiên cần giải thích ý nghĩa mà tác giả muốn gửi gắm qua câu chuyện: cách nghĩ và hành động của sáu người trong văn bản đại diện cho lối sống nào? Hậu quả của lối sống ấy như thế nào?

1. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn (0,25 điểm)

Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoặc song hành.

2. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0,25 điểm):

Bày tỏ thái độ đánh giá về cách nghĩ và hành động của sáu người trong văn bản.

3. Triển khai vấn đề nghị luận (1,0 điểm):

Thí sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận nhưng cần đảm bảo một số ý cơ bản sau:

- Cách nghĩ và hành động của sáu con người trong câu chuyện trên thể hiện lối sống cá nhân, ích kỉ, thiếu tình thương, thiếu tinh thần đoàn kết, nhất là trong hoàn cảnh thử thách. Chính cách hành xử và lối sống ấy đã đẩy họ đến kết cục bi thảm.

- Cuộc sống không tránh khỏi những trở ngại, thử thách. Để vượt qua, ý chí, nghị lực của con người là chưa đủ, cần lắm tinh thần tập thể, ý thức đoàn kết cộng đồng, sự đồng cảm sẻ chia giữa người với người.

- Phê phán lối sống ích kỉ, định kiến, vô cảm.

4. Chính tả, dùng từ, đặt câu (0,25 điểm):

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp Tiếng Việt.

5. Sáng tạo (0,25 điểm):

Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.

Câu 2 (5,0 điểm)

1.Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận (0,25 điểm):

Có đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài. Mở bài giới thiệu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề.

2. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0,5 điểm):

Sau khi gặp Thị Nở, Chí Phèo được “sống như một con người và chết như một con người”

3.Triển khai vấn đề nghị luận:

Vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng a.Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm và vấn đề cần nghị luận (0,5 điểm).

- Nam Cao là nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại với những đóng góp xuất sắc cho văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 – 1945. Ngòi bút của Nam Cao tỉnh táo, sắc lạnh, nặng trĩu suy tư nhưng cũng đằm thắm tình yêu thương. Ông đặc biệt quan tâm tới số phận những người nông dân nghèo khổ trước cách mạng tháng Tám.

- Chí Phèo là một kiệt tác lớn của Nam Cao không chỉ vì nó đã phản ánh chân thực bức tranh làng quê, nông thôn Việt Nam trước cách mạng mà còn là tiếng nói đòi quyền sống, quyền làm người, quyền hạnh phúc cho người nông dân lao động. Mối tình Chí Phèo – Thị Nở dù chỉ có năm ngày ngắn ngủi nhưng có ý nghĩa vô cùng to lớn với Chí Phèo: “Tuy chỉ có năm ngày ngắn ngủi, nhưng nó thật sự là một quãng đời khác: Chí được sống rồi chết như một con người” (Chu Văn Sơn)

b. Giải thích ý kiến (0,25 điểm)

- Tuy chỉ có năm ngày ngắn ngủi: là nhận xét về mối tình giữa Chí Phèo với Thị Nở diễn ra trong một thời gian ngắn so với quãng đời dằng dặc bóng tối, tội ác mà Chí Phèo đã sống.

- Sống như một con người: được sống với những cảm xúc nhân tính của một con người bình thường, được đối xử như một con người.

- Chết như một con người: có ý thức về bi kịch của mình, tự lựa chọn, tự quyết định được cuộc đời mình.

 Nhận định của Chu Văn Sơn đã khẳng định ý nghĩa thức tỉnh của tình người trong sáng: chính tình yêu thương mộc mạc, chân thành của người đàn bà khốn khổ đã giúp Chí Phèo thức tỉnh, được sống với những cảm xúc nhân tính và chết như một con người có ý thức về nhân phẩm, giá trị, quyền sống, quyền làm người.

c. Phân tích, chứng minh:

STUDY TIP

Trước khi phân tích vào ý chính, các em phải khái quát được: Trước khi gặp Thị Nở, Chí Phèo đang sống kiếp quỷ dữ, không được xã hội coi là người.

- Khái quát cuộc đời Chí Phèo trước khi gặp Thị Nở: đang trượt dài trên cái dốc tha hóa, bị tất cả người làng Vũ Đại coi là con quỷ dữ, bị loại ra khỏi xã hội loài người. Chí Phèo sống bản năng, chìm ngập trong những cơn say và gây ra biết bao tội ác cho dân làng (0,25 điểm)

- Trong quãng thời gian 5 ngày sống với Thị Nở: Chỉ được sống như một con người và chết như một con người.

+ Sống như một con người (1,0 điểm)

++ Trước hết, Chí sống trong trạng thái tỉnh, biết tri giác thế giới xung quanh: cảm nhận được ánh mặt trời rực rỡ, nghe được những âm thanh đời thường (tiếng người đi chợ, tiếng gõ mái chèo đuổi cá, tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá)  Chí biết buồn. Nam Cao đã 4 lần nhắc tới nét tâm trạng này với những tầng bậc khác nhau: Lòng mơ hồ buồn – Chao ôi là buồn – Hắn lại nao nao buồn – Buồn thay cho đời. Biết buồn là cảm giác đầu tiên đánh dấu quá trình thức tỉnh của Chí Phèo.

++ Chí Phèo còn tỉnh táo để biết nhận thức về bản thân: nhớ lại quá khứ (với ước mơ về một mái ấm gia đình giản dị), nhìn vào hiện tại (thấy mình đã già mà vẫn còn cô độc) và cả tương lai (đói rét, ốm đau và cô độc)  Lo sợ, cái nỗi sợ cố hữu của bất kì một con người bình thường nào “sợ cô độc”.

++ Chí biết yêu thương và cũng được yêu thương như con người: tình yêu mộc mạc và sự chăm sóc chân thành của Thị Nở đã làm sống dậy cái bản thiện trong con người Chí Phèo: Lần đầu tiên hắn được người khác cho không – cho mà không phải cướp giật, lần đầu tiên hắn được chăm sóc bởi một bàn tay đàn bà, lần đầu tiên Chí Phèo có được cảm giác về một mái ấm gia đình… Dù chỉ năm ngày ngắn ngủi sống với Thị Nở nhưng đó là một quãng đời hoàn toàn khác với Chí Phèo. Chí Phèo đã được nếm trải tất cả những cung bậc cảm xúc của một con người (ngạc nhiên, cảm động, ăn năn, biết tỏ tình, cố gắng uống thật ít rượu để tỉnh táo mà yêu nhau…)

 Đó là đời sống tâm hồn của một con người – một con người khi đã trở về với những giá trị người.

+ Chết như một con người (1,0 điểm)

++ Bị Thị Nở cự tuyệt, Chí Phèo lâm vào tuyệt vọng đau đớn: ý thức được bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của mình, hắn xách dao đi trả thù. Ban đầu, chí Phèo định đến nhà Thị Nở nhưng bước chân lại đưa hắn đến nhà Bá Kiến. Cái bước chân “xông xông” đi vào nhà Bá Kiến là bước chân có chủ đích. Vì lí trí tỉnh táo chỉ rõ Bá Kiến mới là kẻ thù số một của đời mình.

++ Những lời nói của Chí Phèo ở nhà Bá Kiến thật tỉnh táo: vừa vạch tội kẻ thù vừa ý thức được bi kịch bị loại khỏi xã hội loài người của mình.

++ Giết Bá Kiến và tự sát  tự giải thoát, đó là cách duy nhất dù là cách tiêu cực. Bởi lẽ nếu tiếp tục sống Chí sẽ phải sống kiếp quỷ dữ, điều ấy Chí không muốn nữa.

 Cuối cùng, Chí cũng đã tự quyết định được cuộc sống của mình.

d. Bàn luận (0,5 điểm)

STUDY TIP Phần bàn luận nên đánh giá về:

- Giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo của tác phẩm toát lên từ hình tượng Chí Phèo.

- Đặc sắc nghệ thuật của ngòi bút Nam Cao khi xây dựng hình tượng Chí Phèo.

- Qua quá trình thức tỉnh và cái chết bi thảm của Chí Phèo Nam Cao đã phản ánh một hiện thực đen tối ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng: tình trạng người nông dân lương thiện bị đẩy vào bước đường cùng, bị

lưu manh tha hóa. Đồng thời, nhà văn cũng khẳng định và đề cao tình người mộc mạc, chân thành. Tác phẩm gửi đến người đọc một thông điệp có ý nghĩa nhân văn sâu sắc: chỉ có tình người mới cứu được tính người.

- Diễn biến tâm lí của Chí Phèo khi thức tỉnh được miêu tả sâu sắc và tinh tế, cách trần thuật lạnh lùng mà vẫn trĩu nặng suy tư là một thành công lớn về nghệ thuật của Nam Cao.

4. Chính tả, dùng từ, đặt câu (0,25 điểm):

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp Tiếng Việt.

5.Sáng tạo (0,5 điểm):

Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.

TÀI LIỆU THAM KHẢO Phần II – Câu 1:

- Đoạn văn tham khảo:

Trong cuộc sống đôi khi chúng ta sẽ bị đặt vào những hoàn cảnh thử thách khắc nghiệt, đòi hỏi sự nỗ lực không chỉ của cá nhân mà còn cần sự chung tay của cả cộng đồng. Sáu con người trong câu chuyện trên đang trơi vào một hoàn cảnh như thế. Lẽ ra họ phải thay phiên nhau cho thanh củi của mình vào đống lửa để duy trì ánh sáng và hơi ấm, đợi những người cứu hộ đến nhưng họ lại khư khư giữ lấy thanh củi của riêng mình.

Cách nghĩ và hành động của họ thể hiện lối sống cá nhân, ích kỉ, thiếu tình thương, thiếu tinh thần đoàn kết, nhất là trong hoàn cảnh thử thách. Chính cách hành xử và lối sống ấy đã đẩy họ đến kết cục bi thảm. Đối với những vấn đề xã hội lớn như ô nhiễm môi trường, chống giặc ngoại xâm, thiên tai… một cá nhân không thể giải quyết được những khó khăn mà cần có tinh thần đoàn kết cộng đồng, ý thức tự giác của mỗi người. Đôi khi, vì lợi ích chung của cộng đồng, dân tộc, đất nước mỗi người cần biết hi sinh lợi ích của riêng mình. Lối sống ích kỉ, định kiến, vô cảm sẽ là bức rào chắn vô hình khiến con người không thể xích lại gần nhau và chịu thất bại.

Phần II – Câu 2: Tham khảo lời bình của TS. Chu Văn Sơn

Nhân vật thị Nở và bát cháo hành

Thị Nở là ai? Câu hỏi có vẻ thừa! Nhưng muốn trả lời câu hỏi có vẻ thừa đó, không thể không đặt thị trong những đối sánh cần thiết.

Đâu phải ngẫu nhiên Nam Cao mô tả Chí Phèo có quan hệ với hai người đàn bà. Với bà Ba – hẳn là xinh vào hạng nhất làng Vũ Đại – Chí không được hưởng một chút tình yêu nào. Hành vi gọi Chí lên bóp chân, về thực chất, là hành vi bóc lột. Bóc lột cái phần trai trẻ ở Chí Phèo, mà bấy giờ lão Bá đã cạn. Chí chỉ được xem như một thứ nô lệ, phục dịch những cơn thèm khát bất chính của bà thôi. Còn với thị Nở, Chí được hưởng tình người. Mộc mạc, đơn sơ, nhưng chân thật.

Nhiều người cứ phê phán Nam Cao là tự nhiên chủ nghĩa, là quá trớn khi mô tả thị Nở xấu đến ma chê quỉ hờn. Nhưng xét ở bình diện nghệ thuật, Thị càng xấu, truyện càng hay. Dĩ nhiên, hay không phải vì xấu.

hay là: có xấu đến thế, bi kịch Chí Phèo mới sâu sắc. Không phải ngẫu nhiên Nam Cao đã trút vào Thị tất cả những nét mỉa mai nhất của Hóa công dành cho một người đàn bà. Dường như bút pháp Nam Cao đã dùng tả thị Nở không hẳn của hiện thực mà vay mượn của dân gian và lãng mạn. Có thể nói, thị Nở đã xấu một cách hoàn hảo, xấu ở mức lí tưởng. Đã xấu, nghèo, dở hơi, lại còn thuộc dòng giống hủi. Tất cả những thứ ấy đã biến Thị Nở thành một thứ phế thải, vô giá trị. Nhưng ở cái con người vô giá trị kia lại có thứ tài sản vô giá:

tình người. Những tương phản trái khoáy ấy thuộc về dụng ý và dụng công của Nam Cao.

Xét cho cùng, biểu hiện đáng kể nhất của tình người ở thị Nở là bát cháo hành. Và đây là tình tiết thiên tài của Nam Cao. Cháo hành là thứ cháo xoàng xĩnh. Lại còn nấu bở bàn tay thị Nở thì … ấy thế mà phải tận đến lúc này, khi đã sang cái dốc bên kia cuộc đời rồi, Chí mới lần đầu tiên được hưởng. Muộn mằn và thiệt thòi quá! Nhưng hắn đã nhận ra trong đó hương vị của tình người. Kề bát cháo lên miệng, Chí đã khóc. “Hắn thấy mắt hình như ươn ướt”. May mà Chí còn biết khóc. Còn biết khóc thế là còn biết cảm động. Còn cảm động trước tình người, là còn tính người. Còn tính người thì còn khả năng lương thiện. Nếu đôi mắt chỉ còn ráo hoảnh, thì Chí Phèo không còn khao khát và khả năng hoàn lương. Lương tri xem như đã chết hẳn. Nam Cao tin vào nước mắt con người. Nước mắt đối với Nam Cao không chỉ là biểu tượng của đau khổ, mà còn là

“giọt châu của loài người”, hiện thân của tính người. Đâu phải vô cớ mà cách nhân vật Nam Cao đều thức tỉnh cùng nước mắt và trong nước mắt! Sống trong một xã hội khô héo và xói mòn tình người, giọt nước mắt

trong Chí tưởng đã khô cạn tiêu tan. Hóa ra không hẳn. Nó chỉ bị vùi lấp. Trong thẳm sâu lòng Chí, nó vẫn len lỏi, âm thầm và trong suốt. Vừa chạm báo cháo hành, cái lốt quỉ dữ của Chí lập tức được trút bỏ, con người lương thiện ngày nào hiện nguyên bản tướng. Tình người đã làm hồi sinh tính người. Đó chẳng phải là sự kì diệu của bát cháo hành sao?

Ngẫm ra, cả việc thị Nở dìu Chí vào lều đắp điếm cho hắn, lẫn bát cháo hành chỉ là lòng tốt bình thường của một con người dành cho một con người. Nhưng, trong cái thế giới ngày càng tha hóa, vô tình của làng Vũ Đại, đây lại là lòng tốt hiếm hoi duy nhất mà Chí được hưởng, kể từ ngày về làng. Vì thế mà quý giá. Vì thế, Chí mới cảm động sâu xa đến vậy. Gửi niềm tin vào một lòng tót bình thường, Nam Cao đã tỏ rõ tầm cỡ một nhà văn nhân đạo lớn. Bởi cái mà nhân loại thiếu không phải là một lòng tốt xa vời và hư ảo của ông thánh hay lòng tốt suông của một nhà lập thuyết viển vông. “Cái mà nhân loại thiếu, đó là một lòng tốt bình thường”. Lời nói ấy đã luôn vang lên như một điệp khúc khắc khoải trong các tác phẩm của Rơmac. Chỉ cần mỗi con người mang cho nhau lòng tốt bình thường, là đủ để cả hành tinh này tốt đẹp rồi.

Đề cương

Tài liệu liên quan