• Không có kết quả nào được tìm thấy

Thông điệp ý nghĩa nhất mà anh/chị rút ra được qua văn bản trên là gì?

Phần II – Câu 2:

Câu 4: Thông điệp ý nghĩa nhất mà anh/chị rút ra được qua văn bản trên là gì?

II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1 (2,0 điểm)

Từ việc đọc - hiểu văn bản trên, hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bày tỏ suy nghĩ của anh/chị về tình yêu thương và sự hi sinh cao cả của người cha.

Câu 2 (5,0 điểm)

“Tràng giang” hiện ra như một bức tranh tạo vật trường cửu, lớn lao, vừa hoang sơ, vừa cổ kính. Trong đó thi sĩ hiện ra như một lữ thứ đơn độc, lạc loài. (Chu Văn Sơn)

Anh/chị hãy làm sáng tỏ nhận định trên qua hai khổ thơ sau:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu, Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

(Tràng giang - Huy Cận, Sgk Ngữ Văn 1l, tập 2, Nxb Giáo dục, 2007, tr 28)

HẾT

---Thí sinh không được sử dụng tài liệu! Phụ huynh, thầy cô và đồng đội vui lòng không giải thích gì thêm.

Lovebook xin cảm ơn!

CHÚC CÁC EM LÀM BÀI TỐT!

HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)

Câu 1 (0,5 điểm):

Nội dung chính của văn bản: Hành trình 15 năm đầy gian khổ chữa bệnh cho con trai của diễn viên Quốc Tuấn

Câu 2 (1,0 điểm):

Câu nói cho thấy Quốc Tuấn là người cha giàu nghị lực, không đầu hàng trước số phận, có tình yêu thương con vô bờ bến

Câu 3 (1,0 điểm):

Câu chuyện về hành trình chữa bệnh của cha con diễn viên Quốc Tuấn có thể truyền cảm hứng cho nhiều người vì:

- Câu chuyện nói về tình phụ tử thiêng liêng, cao đẹp - một tình cảm gần gũi với bao người nên dễ làm ta xúc động

- Câu chuyện cho thấy sức mạnh của niềm tin và nghị lực đã giúp hai cha con Quốc Tuấn làm nên những điều kì diệu. Từ đó, cổ vũ động viên bao người dù gặp hoàn cảnh khó khăn, bi đát đến đâu (nhất là những người mắc bệnh hiểm nghèo) không đánh mất niềm tin, luôn cố gắng vượt qua những khó khăn, thử thách.

CHÚ Ý

Biết bao người có hoàn cảnh tương tự như cha con diễn viên Quốc Tuấn đã có thêm niềm tin chiến đấu với bệnh tật nhờ câu chuyện cảm động của cha con anh

Câu 4 (0,5 điểm):

Thí sinh có thể rút ra nhiều thông điệp khác nhau từ văn bản. Sau đây là một vài gợi ý:

- Nghị lực sống và niềm tin mãnh liệt giúp con người vượt qua những hoàn cảnh khắc nghiệt.

- Tình yêu thương con cái vô hạn của cha mẹ có thể giúp con làm nên những điều kì diệu.

II. LÀM VĂN (7,0 điểm):

Câu 1 (2,0 điểm):

1. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn (0,25 điểm)

Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng - phân – hợp, móc xích hoặc song hành.

2. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận(0,25 điểm):

Tình yêu thương và sự hi sinh cao cả của người cha 3. Triển khai vấn đề nghị luận (1,0 điểm):

Thí sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề cần nghị luận nhưng cần bày tỏ được sự biết ơn, trân trọng trước sự hi sinh cao cả của người cha đối với mỗi con người. Có thể theo hướng sau:

- Với mỗi người con, cha luôn là người định hướng cho tương lai, người bảo vệ vững vàng, giúp con tránh được những vấp ngã, vượt qua được những thử thách khắc nghiệt của cuộc sống. Vì con, người cha có thể hi sinh tất cả. Có thể nói người cha là một nền tảng vững chắc cho sự hình thành nhân cách của con.

- Tình yêu thương và sự hi sinh của cha mãnh liệt và bền vững nhưng ít khi biểu lộ ra ngoài. Vì vậy nếu con vô tâm hờ hững sẽ không thấu hiểu hết những hi sinh vất vả của cha.

- Phê phán những hành vi bạc đãi cha mẹ.

STUDY TIP

Khi làm bài các em có thể so sánh sự hi sinh của cha với tình thương con của mẹ để thấy được cha cũng hi sinh vất vả nhưng ít khi bộc lộ ra bên ngoài. Vì thế, cần biết lắng nghe, nhìn nhận và trân trọng điều ấy

4. Chính tả, dùng từ, đặt câu (0,25 điểm):

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp, ngữ nghĩa Tiếng Việt 5. Sáng tạo (0,25 điểm):

Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận Câu 2 (5,0 điểm)

STUDY TIP Đề bài yêu cầu 2 luận điểm:

- Bức tranh tạo vật trường cửu, lớn lao, vừa hoang sơ, vừa cổ kính - Thi sĩ hiện ra như một lữ thứ đơn độc, lạc loài

→ Các em có thể phân tích theo hai luận điểm đó hoặc có thể phân tích từng khổ thơ nhưng vẫn cần làm bật lên luận điểm

1. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận (0,25 điểm):

Có đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài. Mở bài giới thiệu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề.

2. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0,5 điểm):

Phân tích hai đoạn thơ để làm sáng tỏ nhận định của Chu Văn Sơn 3.Triển khai vấn đề nghị luận:

Vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng a. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm (0,5 điểm)

- Huy Cận là nhà thơ của nỗi ám ảnh không gian. Ông thường tìm đến những cảnh thiên nhiên rộng lớn và đem đối lập với những hĩnh ảnh gợi lên cái nhỏ bé, bơ vơ của kiếp người.

- Tràng giang là bài thơ kiệt tác của Huy Cận được sáng tác trước cách mạng tháng Tám. Thông qua bức tranh thiên nhiên rợn ngợp trong một buổi chiều buồn ở một vùng bến bãi sông nước mênh mông, nhà thơ thể hiện nỗi buồn ảo não, cô đơn của mình trước cuộc đời, thiên nhiên và vũ trụ, đúng như TS. Chu Văn Sơn nhận xét: “Tràng giang” hiện ra như một bức tranh tạo vật trường cửu, lớn lao, vừa hoang sơ, vừa cổ kính.

Trong đó thi sĩ hiện ra như một lữ thứ đơn độc, lạc loài.

b. Giải thích nhận định (0,5 điểm)

CHÚ Ý

- Cảm hứng lớn trong thơ Huy Cận trước cách mạng là cảm hứng vũ trụ. Nhà thơ thường tìm đến những không gian rộng lớn và đem nó đối lập với kiếp người nhỏ bé.

- Cái tôi Huy Cận trước cách mạng là cái tôi cô đơn lạc loài

Căn cứ vào mạch cảm xúc của bài thơ, nhận định trên đã khái quát hai tầng nội dung trong thi phẩm.

- Thứ nhất, đó là bức tranh tạo vật - bức tranh mang cảm hứng không gian (một không gian trải từ mặt sông lên tận chót vót đỉnh trời, không gian được mở ra từ thẳm sâu vũ trụ, hun hút vô cùng) nên “trường cửu và lớn lao”. Bức tranh ấy lại được nhìn bằng sự chiêm nghiệm cổ điển nên vừa “hoang sơ vừa cổ kính”.

- Thứ hai, đó là chân dung cái “tôi” trữ tình trong bài thơ, “một lữ thứ đơn độc, lạc loài”. Bởi cái “tôi” ấy mang mối sầu muôn thuở của con người khi đứng trước cảnh sông dài, trời rộng lại vừa mang tâm thế cô đơn của một cái “tôi” hiện đại đặc trưng cho Thơ mới. Nỗi sầu buồn hiu hắt cứ tầng tầng lớp lớp dâng lên, đẩy thi sĩ vào chiếc đảo đơn côi, nhỏ bé, bơ vơ.

c. Phân tích, chứng minh (2,0 điểm)

- Khổ thơ đầu: miêu tả bao quát khung cảnh sông nước tràng giang trường cửu, ẩn sâu sau đó là nỗi buồn về thân phận lạc loài, phiêu dạt

+ Câu thơ thứ nhất là hình ảnh sóng gợn tràng giang: Hình ảnh thơ mang nhiều lớp nghĩa tương đồng, tương phản đan xen, hoà quyện tạo nên sức gợi cảm lớn lao. Tương phản sóng gợn – tràng giang như một điểm nhấn về sự nhỏ bé hữu hạn, cũng như về cái mênh mông, hoang vắng của tràng giang. Dòng sông được nhân hoá mang tâm tư “buồn điệp điệp”. “Điệp điệp” diễn tả hình ảnh những con sóng đang loang xa, xô đuổi nhau đến tận chân trời. Mỗi con sóng mang một nỗi buồn, nỗi buồn dấy lên từ một điểm và không ngừng trải rộng mãi, xôn xao mãi. Sóng truyền nhịp triền miên vào lòng người nồi buồn miên man hay nỗi buồn lan từ lòng thi sĩ mà toả ra trên sóng nước? Sóng nước và con người tìm đến nhau trong nỗi buồn, khiến nhịp buồn, màu buồn thấm thìa, trùm lên tất cả.

→ Như vậy trên bề mặt là tương phản, ở bề sâu là tương đồng, câu thơ đầu tiên đã thu vào trong nó cả hình ảnh của tràng giang và hình ảnh của chủ thể trữ tình, tụ lại trong nỗi buồn như thuộc về muôn thưở.

+ Câu thơ tiếp theo gợi sâu hơn nỗi buồn đó “Con thuyền xuôi mái nước song song”. Trong thơ ca, thuyền vốn là hình ảnh tượng trưng cho những cuộc đời lênh đênh, phiêu dạt “Chiếc bách buồn vì phận nổi nênh/ Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh” (Hồ Xuân Hương). Ở đây, con thuyền ấy lại còn buông xuôi, trôi mãi mặc cho sự đưa đẩy của nước như thể những kiếp người tha phương, lạc loài, phó mặc cho sự nổi trôi của số phận, Còn nước, không hoà nhập với thuyền, những luồng nước song song, rong ruổi mãi về phía chân trời. Không gian vừa mở theo chiều rộng, vừa vươn theo chiều dài. Không gian ấy càng xoáy sâu vào sự đơn lẻ, vô định của con thuyền.

→ Hai câu thơ đầu tiên với việc vận dụng nghệ thuật đối của thơ Đường một cách linh hoạt cùng những từ láy “điệp điệp, song song” đã khắc hoạ thế giới tràng giang mênh mông khôn cùng, Thế giới ấy như đã có từ ngàn năm trước và bây giờ vẫn thế, thế giới mang một nỗi buồn lớn, nỗi buồn của không gian, nỗi buồn của lòng người vạn kiếp, nỗi buồn nhân sinh xót xa cho phận người nhỏ bé, bơ vơ.

+ Câu thơ thứ ba u uẩn một mối chia li khắc khoải “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”. Câu thơ có hai cách ngắt nhịp, tạo ra hai giá trị biểu cảm khác nhau. Nếu ngắt nhịp 2/5, “lại’ là phó từ (chỉ sự lặp lại), câu thơ chỉ có một nỗi buồn mênh mang của nước. Nếu ngắt nhịp 2/2/3, “lại” là động từ, biểu thị chuyển động của nước. Cuộc chia li của thuyền và nước là ngoại cảnh diễn ra trên sóng tràng giang. Nhưng ngay từ đầu lòng người đã nhập vào lòng sông, chủ thể trữ tình đã miên man trong nỗi buồn sông nước nên cuộc chia li này còn là cuộc phân li bên trong chủ thể. Đây mới là địa điểm chia li đích thực, chủ thể đã nhìn thấy sự chia li của những thứ tưởng như không thể chia lìa. Ngôn từ xô đẩy “về - lại - sầu - ngả” tạo ra sự xô đẩy, điệp trùng của hình tượng. “Thuyền về, nước lại” chuyển động ngược chiều nối tiếp nhau tạo thành vòng xoáy loang xa mối sầu trăm ngả: mối sầu bao trùm, mối sầu vũ trụ. Đấy là cuộc chia li trên bề mặt sông nước. Còn cuộc chia li trong “tôi” lại khác, “tôi” là một điểm nhỏ bé nên thu nhận mối sầu trăm ngả, mối sầu ấy sẽ ngưng kết, đọng lại trong “tôi”. Từ không gian sông nước mở ra không gian tâm trạng, ta nhận ra cái “tôi” bơ vơ, đơn độc của nhà thơ giữa dòng “tràng giang”.

+ Khổ thơ khép lại mà vẫn không vợi bớt nỗi cô đơn “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Huy Cận đã rất

tinh tế trong việc chuyển tải cái hồn của cảnh khi dùng phép đảo “Củi một cành khô”. Nếu viết “một cành củi khô” thì “một” chỉ đơn thuần là số đếm, “củi một cành khô” xác định sự tồn tại duy nhất, đơn nhất của cành củi, khơi gợi sự héo úa, tàn tạ, mong manh, nhỏ bé vô cùng. Lại có đối “một - mấy” thì dường như ám ảnh về thân phận lưu lạc càng sâu đậm. Đặt tương quan giữa hai vế của câu thơ, có thể hiểu “cành củi khô” là cảm giác, là nỗi buồn vô tận của kiếp người trước cái vô tận của sông dài, trời rộng. Dùng đối lập giữa cái hữu hạn và cái vô hạn là thủ pháp quen thuộc của Đường thi nhưng ở đây Huy Cận lại dùng chất liệu của đời sống “cành củi” nên hình ảnh vẫn có nét hiện đại. Cái ‘tôi” cô đơn tội nghiệp của Thơ mới nói chung và Huy Cận nói riêng đã tìm thấy linh hồn của nó trong hình ảnh cành củi khô này.

→ Câu thơ thứ nhất tả sóng, câu thơ thứ hai tả những dòng trôi, trên sóng nước muôn trùng là hình ảnh con thuyền trôi im lìm và cành củi khô bơ vơ, lạc nẻo; bốn câu thơ tự nó đã dựng lên một tương quan đối lập:

không gian tràng giang mênh mông – cõi nhân sinh bé nhỏ. Tương quan ấy thấp thoáng bóng dáng nỗi cô đơn của Trần Tử Ngang hàng ngìn năm trước “Ai người trước đã qua/ Ai người sau chưa đến/ Ngẫm trời đất vô cùng/ Một mình tuôn giọt lệ”

- Khổ hai: vẫn nằm trong mạch buồn của khổ thơ thứ nhất, khổ hai nhấn mạnh về một không gian mênh mông, hoang vắng, cô liêu, qua đó gợi tả nỗi buồn về sự sống tàn tạ, bị bỏ quên

+ Câu thơ thứ nhất là nét chấm phá về bãi cồn nhỏ trên dòng sông “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”. Không phải ngẫu nhiên mà từ hình ảnh “cành củi” cuối câu thơ thứ nhất, tác giả lại chuyển sang hình ảnh “cồn” ở đầu khổ thơ thứ hai, “cành củi khô” mang nặng ám ảnh về nhân thế lạc loài, còn “cồn” là niềm day dứt về một thế giới bị đóng kín, cô lập. Đảo ngữ “lơ thơ” miêu tả chuyển động nhẹ nhàng như có như không, phác một không gian mờ nhoà, xa xăm, những gì hiện hình lại quá bé nhỏ, thưa thớt. Vần lưng “nhỏ-gió” với điệp âm “o-o” khiến cảnh càng thu hẹp. Và đến cuối câu thơ, cái lạnh lẽo đã xâm chiếm qua từ láy “đìu hiu”, cái lạnh đến từ cổ thi khiến lòng người rợn ngợp “Non Kì quạnh quẽ trăng soi/ Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”

(Chỉnh phụ ngâm)

+ Đường nét mờ nhoè, hắt hiu, âm thanh lại càng xa xăm “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Từ “đâu”

tạo nên cho câu thơ ba phương diện cấu trúc gắn với ba nét nghĩa khác nhau, bổ sung cho nhau. Trước hết, câu thơ giống như một câu hỏi “(ở) đâu (có) tiếng làng xa vãn chợ chiều” mang niềm khắc khoải về miền không gian của sự sống. Câu thơ còn gần với một câu miêu tả âm thanh lẻ loi, yếu ớt “(ở) đâu (đây) (có) tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Cũng có thể câu thơ là một phủ định “(không) đâu (có) tiếng làng xa vãn chợ chiều” đặc tả sự chìm khuất hoàn toàn của âm thanh, kể cả âm thanh nhỏ bé nhất, gợi buồn nhất “tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Dù hiểu theo cách nào thì sự tĩnh lặng, quạnh vắng vẫn bao trùm câu thơ, không có dấu hiệu nào của hình ảnh hay sự sống

+ Con người càng bơ vơ, đơn lẻ thì dường như đất trời càng mênh mông, mở ra vô tận “nắng xuống trời lên sâu chót vót”. Câu thơ đồng hiện nhiều chiều không gian: xuống và lên, cao và sâu, không gian đang giãn nở theo trục thẳng đứng. “Sâu chót vót” là một sáng tạo độc đáo của Huy Cận. Ánh mắt tác giả không dừng lại ở đỉnh trời một cách thường tình để nhận biết về chiều cao mà nó như xuyên vào đáy vũ trụ để cảm nhận về chiều sâu, cho nên mới “sâu chót vót”, chỉ một độ cao chưa hoàn tất. Dường như cái nhìn của thi sĩ vươn tới đâu, trời sẽ cao lên tới đó, sâu đến đó, mỗi lúc một chót vót hơn. Đồng thời cụm từ này cũng mang sự lung linh của hình ảnh, “sâu chót vót” là cảnh “trời trong nước”, vừa có cái cao rộng của trời, vừa có cái thăm thẳm của nước.

+ Không gian tiếp tục mở ra theo chiều dài và rộng ở câu thơ thứ tư “Sông dài trời rộng, bến cô liêu”.

Đặt trong tương quan với chuyển động không gian ở câu thơ thứ ba thì dường như các tính từ “dài”, “rộng”

và “cô liêu” được động từ hoá, sông dài ra, trời rộng thêm, bến cô liêu đi, không có một chút giao hoà, hội tụ

mà tứ tán và lạnh lùng. “Bến cô liêu” tương phản với “sông dài – trời rộng” đẩy nỗi cô đơn, lẻ loi đến đỉnh điểm, nỗi buồn vừa theo sông, theo trời trải ra,lại vừa thu lại trong một cái bến mà trở nên đặc quánh. Cái hồn buồn của thi nhân nương náu trong cái bến nhỏ để cảm nghe nhiều hơn về nỗi bơ vơ thấm đượm linh hồn.

+ Chủ thể trữ tình hoàn toàn là “một lữ thứ đơn độc và lạc loài” giữa tạo vật lớn lao. Hình thức đối của cổ thi, hình ảnh sông nước mang lại cho không gian vẻ cổ kính, trường cửu. Không gian đó chính là cái nền làm đậm thêm nỗi đơn độc kia, nỗi trống vắng mang niềm khao khát tim đến cõi nhân thế để được giao hoà với con người

d.Đánh giá chung (0,5 điểm):

CHÚ Ý

Khi đánh giá chung các em có thể mở rộng liên hệ với cái “tôi” cô đơn của các nhà Thơ mới khác như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên để thấy được: không chỉ riêng Huy Cận mà cả một thế hệ các nhà thơ trong thời đại ấy mang tâm sự cô đơn lạc loài.

- “Tràng giang” đã hài hoà được hình thức thơ ca cổ điển và những cảm hứng hiện đại. Bài thơ đã khắc hoạ không gian tràng giang “lớn lao, trường cửu, cổ kính” như đến từ thời tiền sử và sẽ mãi chảy trôi vĩnh hằng, mang chứa đến nghìn đời nồi buồn sầu của con người về kiếp người nhỏ bé hữu hạn.

- Cái “tôi” thi sĩ đã in bóng vào Tràng giang nỗi cô đơn, niềm bi phẫn của một tâm hồn nhạy cảm, của một thời đau thương, nô lệ, gợi ra hình ảnh “người lữ thứ đơn độc, lạc loài” mãi miên man trên sóng tràng giang và mãi ám ảnh trong lòng bạn đọc.

4. Chính tả, dùng từ, đặt câu (0,25 điểm):

Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp, ngữ nghĩa tiếng Việt.

5.Sáng tạo (0,5 điểm):

Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.

Đề cương

Tài liệu liên quan