• Không có kết quả nào được tìm thấy

PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

CHƯƠNG 2 : ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ SẢN XUẤT LÚA CỦA CÁC HỘ

2.3. Tình hình sản xuất lúa của các hộ nông dân điều tra

2.3.2 Chi phí, kết quả và hiệu quả kinh tế sản xuất của các hộ điều tra

2.3.2.1. Chi phí sản xuất lúa của các hộ điều tra

đặc biệt là phí các khâu dịch vụnhưphíthuỷlợi, làmđất, phítuốt lúa, phíthu hoạch. Tất cảđiều này làm cho việc trang bịtưliệu sản xuất của các hộ rất thấp.Điều nàyđược thể hiện qua bảng sau:

Bảng 2.5: Tình hình trang bịtưliệu sản xuất của các hộ điều tra (BQ/hộ)

STT Loại TLSX ĐVT Sốlượng Giá trị

1 Cày tay Cái 0,125 150

2 Cày máy Cái 0,02 400

3 Trâu Con 0,15 1750

4 Bình xịt thuốc Bình 1 202,5

5 Máy cày công nghiệp Máy 0,025 3750

6 Máy thu hoạch Máy 0 0

Tổng 6252,5 (Nguồn: Sốliệuđiều tra năm 2020) Đối với sản xuất nông nghiệp, bình quân chi phí mà mỗi hộđầu tưtrang bị tư liệu sản xuất là 6,25 triệu đồng. Và các tư liệu nàyđược trang bị để sử dụng để thực hiện hoạtđộng sản xuất cho nhiều cây trồng khác nhau của mỗi hộ.

Các tư liệu sản xuất như cày tay, cày máy, trâu, mày cày công nghiệp chỉ được một vài hộtrang bị, còn phần lớn bà con nông dânđi thuê máy.

Bình xịt thuốc là tưliệu cần thiết trong việc phòng trừ sâu bệnh, diệt cỏdại hại lúa, bên cạnhđó chi phí cho một bình thuốc là không quá lớn, dođó mỗi hộ đều trang bị đây đủloại tưliệu này với mức giá trung bình 202,5 nghìnđồng.

Máy thu hoạch vì giá trị của máy quá cao, nên người dân không đủ khả năng để sắm máy này phục vụ sản xuất nên đa phần là người nông dân phải đi thuê khi thu hoạch lúa.

2.3.2 Chi phí, kết quả và hiệu quả kinh tế sản xuất của các hộ điều tra

Chi phí sản xuất là một trong những nhân tố ảnh hưởng rất lớn kết quả sản xuất.Để nâng cao hiệu quả kinh tếthì cần tối đa hóa doanh thu và tối thiểu hóa chi phí.Ở đây tối thiểu hóa chi phí cần phải được hiểu một cách rõ ràng nhất. Chúng ta cần phải đầu tư vào khoản mục chi phí để nâng cao năng suất cây lúa, đồng thời phải đảm bảo được chất lượng của sản phẩm.

Bảng 2.6: Chi phí sản xuất bình quân/sào của các hộđiều tra (BQ/sào)

Chỉtiêu

Đông Xuân Hè Thu BQC

Giá trị (1000đ)

Cơcấu (%)

Giá trị (1000đ)

Cơcấu (%)

Giá trị (1000đ)

cấu (%) 1.Chi phí trung gian 845,65 64,90 860,09 65,28 852,87 65,09

1.1. Giống 100 7,67 90 6,75 95 7,25

1.2. Phân bón 357,67 27,45 359,71 27,30 358,69 27,37

Phânđạm 36,05 2,77 37,01 2,81 36,53 2,79

Phân lân 80 6,14 80,15 6,08 80,075 6,11

Phân kali 41,7 3,20 42,18 3,20 41,94 3,2

Phân NPK 199,92 15,34 200,37 15,21 200,145 15,27

1.3. Thuốc BVTV 117,76 9,04 123,65 9,38 120,705 9,21

1.4. Thủy lợi 90,96 6,98 88,365 6,71 89,66 6,84

1.5. Thuê máy 179,26 13,76 198,365 15,06 188,81 14,41

2.Chi phí tựcó 457,31 35,1 457,31 34,72 457,31 34,91 Laođộng tựcócủa

hộ

457,31 35,1 457,31 34,72 457,31 34,91

Tổng chi phí 1302,96 100 1317,4 100 1310,18 100

(Nguồn: Sốliệuđiều tra năm 2020) Đối với sản xuất lúa, việcđầu tư các khoản chi phí có ảnh hưởng rất lớnđến kết quả và hiệu quảcủa quá trình sản xuất. Xác định được chi phí sản xuất sẽgiúp cho các chủ hộ có những tính toán nhằmđiều chỉnh hợp lýtrong việc sửdụng các nguồn lực của

Trường Đại học Kinh tế Huế

hộ, qua đó tìm phương án nhằm giảm được các chi phí không cần thiết đem lại nguồn thu nhập cao nhất.

Các chi phíđể sản xuất lúa bao gồm: chi phí giống, chi phí phân bón, chi phí thuốc bảo vệthực vật, chi phíthủy lợi phívà chi phí công laođộng…

Qua bảng 2.5 ta thấy tổng chi phí bình quân một năm của các hộ là 1310,18 nghìn đồng/ sào. VụHè Thu có tổng chi phí bình quân là 1317,4 nghìnđồng cao hơn vụ Đông Xuân 14,44 nghìn đồng.

Vềchi phí giống, trung bình một sào đất mỗi hộ phải chi ra 95 nghìnđồngđể mua hạt giống, chiếm 7,25% trong tổng chi phí, trongđóvụ Đông Xuân chi 100 nghìnđồng, vụHè Thu chi 90 nghìnđồng.

Về phân bón, chi phí bình quân một năm là 385,69 nghìn đồng/sào, trong đó vụ Đông Xuân chi 357,67 nghìn đồng/sào chiếm 27,45% trên tổng chi phí của vụ, vụ Hè Thu chi nhiều hơn vụ Đông Xuân 359,71 nghìn đồng/sào chiếm 27,30%. Chi phí phân bón vụ Hè Thu cao hơn vì các hộ nông dân vẫn còn theo thói quen bón phân theo tập quán canh tác truyền thống, xem trọng hiệu quả nông học để đạt năng suất cao hơn là quan tâm đến lợi nhuận và hiệu quả kinh tế trong dài hạn. Điều này sẽlàm tăng chi phí giáthành sản xuất.

Các loại phân bón mà các hộ sử dụng chủ yếu là phân ure, NPK, kali. Các hộ nông dân hầu như không còn sử dụng phân chuồng và phân lân đơn vì phân lân rất khó trong quá trình xửlý trước khi sửdụng và bón. Phân NPKđược các hộsửdụng nhiều nhất để bón cho lúa, trung bình mỗi sào mỗi hộ bỏ ra 200,145 nghìn đồng, trong đó vụ Đông Xuân chi 199,92 nghìn đồng, vụ HT chi 200,37 nghìn đồng. Do sửdụng phân NPK khá nhiều nên lượng phânđạm, lân , kali các hộ sửdụng ít hơn. Trung bình mỗi hộmột sào bỏra 36,53 nghìn đồng phân đạm chiếm 2,79% tổng chi phí và bỏra 41,94 nghìn đồng phân kali chiếm 3,2% tổng chi phí, bỏ ra 80,075 nghìnđồng phân lân chiếm 6,11% tổng chi phí. Trong tổng chi phí bỏ ra cho phân bón, chi phí dành cho phân tổng hợp NPK là lớn nhất 200,145 nghìn đồng/sào. Các loại phân NPK mà người nông dân thường dùng

Trường Đại học Kinh tế Huế

là: 16-16-8, 20-20-15,...Tuy nhiên theo điều tra người dân chủ yếu sử dụng loại NPK tổng hợp 16-16-8 tức làtrong 100kg phân trên thì có 16kgĐạm nguyên chất, 16kg lân và 8kg Kali.

Như vậy, vụ ĐX và vụ HT sử dụng lượng phân có sự chênh lệch không đáng kể. Hầu hết nông dân ở đây đều sử dụng phân hóa học, ảnh hưởng của phân hóa học lại phụ thuộc rất lớn vào phương pháp và thời điểm bón phân của các nông hộ. Vì vậy, việc tập huấn kĩ thuật bón phân nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng phân hóa học là rất quan trọng đểnâng cao năng suất, giảm chi phí.

Với những loại đất ruộng khác nhau, hộ nông dânđã sử dụng khối lượng từng loại phân bón khác nhau phùhợp với yêu cầu từng loại ruộng đất. Bón đúng loại phân, bón đủ lượng phân theo nhu cầu sinh lý ở từng giaiđoạn sinh trưởng, phát triển của cây lúa thì người dân sẽthuđược năng suất lúa ngày càng cao.

Ngoài ra chi phí giống và phân bón thì thuốc BVTV cũng là một khoản chi phí khá lớn mà các hộ phải đầu tư để đảm bảo cho cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt. Trung bình một sào mỗi hộphải đầu tư 120,705 nghìnđồng chi phí thuốc BVTV chiếm 9,21%

trong tổng chi phí, trong đó vụ ĐX đầu tư bình quân 117,76 nghìn đồng/sào, vụ HT 123,65 nghìn đồng/sào. Sự chênh lệch giữa hai vụ là khá lớn. Nguyên nhân chính là do vụHè Thu thời tiết khô hanh, sâu bọ, dịch bệnh cóđiều kiện sinh sôi, nảy nở, gây hại và kìm hãm sự sinh trưởng và phát triển của cây lúa. Vì vậy, chi phí thuốc BVTV mà hộ nông dân bỏra trong vụĐông Xuân lớn hơn vụ Hè Thu. Các loại thuốc BVTV mà các hộ sử dụng thường là các loại thuốc hóa học trừ sâu, nấm, đạo ôn và các loại thuốc kích thích sinh trưởng, kích thích dưỡng lá,…Những loại thuốc này có giá trị khá cao làm tăng chi phí đầu tưmỗi hộ.

Chi phí cho thủy lợi để sản xuất lúa chiếm tỉ lệ cũng khá lớn trong tổng chi phí. Trung bình một sào mỗi hộbỏra 89,66 nghìnđồng chiếm 6,84% tổng chi phí.

Chi phí thuê máy như máy cày, máy thu hoạch cũng chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng chi phí, trung bình phí thuê máy là 188,81 nghìnđồng/sào chiếm 14,41% tổng chi phí.

Trường Đại học Kinh tế Huế

Bên cạnh các chi phí đã sử dụng ở trên thì chi phí lao động cũng là một khoản chi phí khá lớn. Sản xuất lúa vẫn còn gặp nhiều khó khăn, chi phí dành cho các dịch vụthuê ngoài tăng cao trong khi giálúa lại không ổnđịnh. Vì vậy, người dân chủyếu“lấy công làm lãi”, lao động gia đình chiếm phần lớn trong các khâu sản xuất lúa: làm đất, gieo, trồng, chăm sóc, thu hoạch. Chi phí laođộng được hạch toán theo chi phí cơ hội với giá một ngày công là 200 nghìn đồng. Trung bình 1 sào lúa mỗi hộ sử dụng 457,31 nghìn đồng. Trong tổng chi phí công lao động gia đình, công chăm sóc chiếm nhiều. Bởi người nông dân phải thường xuyên thăm đồng theo từng giai đoạn lúa trường thành để kịp thời phát hiện dấu hiệu của sâu hại hay dịch bệnh.

Nhìn chung vụ Hè Thu có mức đầu tư ở các hộ đều lớn hơn so với mức đầu tư ở vụ Đông Xuân. Qua đócho thấy vụ Hè Thu bị ảnh hưởng về điều kiện thời tiết khí hậu cho nên chi phí tăng lên cao hơn.