• Không có kết quả nào được tìm thấy

Cơ hội và thách thức phát triển dịch vụ phi tín dụng của các NHTMCP

3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ PHI TÍN DỤNG CỦA CÁC

3.1.1. Cơ hội và thách thức phát triển dịch vụ phi tín dụng của các NHTMCP

Biểu đồ 3. 1 Tăng trưởng kinh tế thế giới giai đoạn 2015 – 2020

(Đvt: %)

(Nguồn: [33]) Từ cuối năm 2019 tới nay, nền kinh tế toàn cầu chịu sự tác động nặng nề của đại dịch Covid-19, tâm dịch đầu tiên tại thành phố Vũ Hán thuộc miền Trung Trung Quốc, sau đó lan ra khắp lục địa Trung Quốc và hơn 210 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đại dịch đã đẩy nền kinh tế toàn cầu vốn đang trong giai đoạn phục hồi tương đối ổn định bước vào đợt suy thoái lớn nhất kể từ Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Sự giảm sút của các hoạt động kinh tế - xã hội từ công nghiệp, giao thông vận tải đến các lĩnh vực dịch vụ, vui chơi giải trí... kéo theo lực lượng lao động ước tính hơn 3 tỷ người rơi vào tình trạng thất nghiệp.

Dưới ảnh hưởng của dịch bệnh Covid -19, năm 2020 đã ghi nhận lần đầu tiên hàng chục nền kinh tế trên thế giới đồng loạt rơi vào suy thoái như Mỹ, Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp, Đức, Italy, Australia, Brazil, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia, Singapore, Philippines, Thái Lan, Indonesia… Trong đó, Mỹ và châu Âu là những tâm điểm chính của diễn biến dịch bệnh và cũng là những nơi thực trạng tăng trưởng kinh tế và thương mại sụt giảm nhất trong năm 2020. Tại Mỹ, nền kinh tế lớn nhất thế giới, năm 2020, tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Mỹ giảm 3,5% so với năm 2019. Đây là mức giảm mạnh nhất của kinh tế Mỹ kể từ

3.5 3.3

3.7

1.4

-2.6

NĂM 2015 NĂM 2016 NĂM 2017 NĂM 2019 NĂM 2020

Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế thế giới

năm 1946 và là lần đầu tiên GDP hàng năm của Mỹ giảm kể từ năm 2009 - năm mà nền kinh tế nước này giảm 2,5% do khủng hoảng tài chính.

Tại châu Âu, kinh tế Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) đã bị tác động mạnh bởi cuộc khủng hoảng Covid -19 với GDP giảm giảm 6,8% năm 2020, do hoạt động kinh doanh đình trệ khi các doanh nghiệp phải đóng cửa nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch Covid -19.

Tại châu Á, kinh tế Nhật Bản cũng lần đầu tiên rơi vào suy thoái kể từ năm 2015 do nền kinh tế lớn thứ ba thế giới này tăng trưởng âm hai quý liên tiếp trong năm 2020 trước tác động của đại dịch Covid -19. Tại Trung Quốc, mặc dù đã kiểm soát tốt dịch bệnh đã giúp nền kinh tế nước này tăng trưởng 3,2% trong quý II/2020, tuy vậy, nhu cầu toàn cầu yếu và căng thẳng gia tăng trong quan hệ Mỹ-Trung Quốc là những rủi ro chính đối với sự phục hồi của nền kinh tế Mỹ-Trung Quốc.

Mặc dù ối cảnh kinh tế xã hội thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, khó dự báo, nhưng nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2015 – 2020 duy trì mức tăng trưởng ổn định nhờ sức cầu mạnh trong nước và nền sản xuất định hướng xuất khẩu.

Biểu đồ 3.2. Tăng trưởng GDP Việt Nam giai đoạn 2010 – 2020

(Nguồn: [33])

6.24

5.25 5.42 5.98 6.68 6.21 6.81 7.08 7.02

2.91

NĂM 2011

NĂM 2012

NĂM 2013

NĂM 2014

NĂM 2015

NĂM 2016

NĂM 2017

NĂM 2018

NĂM 2019

NĂM 2020

TỐC ĐỘ TĂNG GDP CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020 (%)

TỐC ĐỘ TĂNG GDP GIAI ĐOẠN 2011-2020 (%)

GDP của Việt Nam thực tăng 7,02% trong năm 2019, gần với tỉ lệ tăng trưởng năm 2018 và Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong khu vực. Năm 2020, mặc dù nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì tăng trưởng với tốc độ tăng GDP đạt 2,91%, tuy nhiên, là một nền kinh tế có độ mở lớn, Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh của việc kinh tế thế giới suy giảm do dịch COVID-19. Trong năm 2020, kinh tế Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn như: tốc độ tăng trưởng kinh tế sụt giảm mạnh, nhiều chỉ tiêu tăng trưởng chậm, thậm chí sụt giảm mạnh như FDI, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thị trường xuất khẩu và thị trường trong nước còn yếu.

3.1.1.2. Cơ hội và thách thức phát triển dịch vụ phi tín dụng của các NHTMCP Việt Nam trong giai đoạn tới

Những cơ hội phát triển dịch vụ phi tín dụng của các NHTMCP Việt Nam

Trong lĩnh vực ngân hàng, đại dịch Covid-19 lây lan là giai đoạn khó khăn cho cả nền kinh tế nói chung và lĩnh vực tài chính ngân hàng nói riêng nhưng nó cũng tạo ra cơ hội thúc đẩy sự tăng trưởng của các dịch vụ phi tín dụng

Một là, công nghệ tài chính (Fintech) thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ các sản phẩm dịch vụ ngân hàng

Fintech được hiểu là công nghệ tài chính, với những ứng dụng mới nhất về công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng – tài chính. Nằm trong xu hướng Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, Fintech đã và đang mang tới những sự đổi mới, sáng tạo làm thay đổi bộ mặt của hệ thống ngân hàng - tài chính truyền thống khi chuyển sang công nghệ ngân hàng số. Fintech giúp các ngân hàng có thể giải quyết tính thiếu hiệu quả của các sản phẩm, dịch vụ tài chính truyền thống vốn bị giới hạn về thời gian, không gian cũng như quy trình, thủ tục giao dịch phức tạp....

Bên cạnh đó, Fintech cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phổ cập tài chính của các quốc gia thông qua tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính tới một bộ phận người dân chưa có tài khoản ngân hàng hoặc khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ tài chính – ngân hàng truyền thống; hỗ trợ các quốc gia

nhanh chóng đạt được mục tiêu phổ cập tài chính qua đó thúc đẩy sự phát triển cũng như công bằng xã hội.

Nắm bắt, hợp tác và ứng dụng hiệu quả Fintech là một cơ hội cũng như là một giải pháp hữu hiệu để các NHTMCP Việt Nam đẩy nhanh quá trình ứng dụng một cách toàn diện cho hoạt động thanh toán hằng ngày. Hiện nay, khách hàng có thể thực hiện các thao tác cho mọi giao dịch với ngân hàng thông qua điện thoại thông minh - smartphone, hay ipad, laptop, thậm chí là có thể tích hợp thanh toán ngay trên chiếc đồng hồ đeo tay, nhẫn và cả phương tiện di chuyển. Điều này tạo điều kiện cho mọi đối tượng khách hàng, dù là cá nhân hay chủ doanh nghiệp không phải mất thời gian và chi phí đến các điểm giao dịch của ngân hàng mà mọi thứ đều trong tầm tay, online tức thì và tại chỗ.

Bối cảnh Covid – 19 cũng là một nhân tố tác động mạnh mẽ tới việc phát triển các dịch vụ ngân hàng gắn liền với công nghệ tài chính. Dịch bệnh tràn lan khiến một lượng khách hàng trước đây chưa muốn sử dụng các kênh kỹ thuật số khi giao dịch với ngân hàng đã buộc phải làm điều đó để hạn chế giao dịch trực tiếp tại chi nhánh ngân hàng. Điều này sẽ làm tăng số lượng khách hàng giao dịch qua các kênh kỹ thuật số, dẫn đến những cơ hội đối với hệ thống ngân hàng.

Hai là, xu hướng ngân hàng hợp kênh (Omni - channel banking) góp phần tối đa hóa tiện ích các sản phẩm dịch vụ ngân hàng

Hiện nay, ở nhiều quốc gia phát triển, chi nhánh ngân hàng với không gian giao dịch hiện đại, tiện lợi với những màn hình tivi, máy tính bảng cỡ lớn giúp khách hàng tự tương tác và trải nghiệm dịch vụ mà không cần đến sự trợ giúp của giao dịch viên truyền thống ngày càng trở nên phổ biến. Việc xây dựng các chi nhánh ngân hàng chủ yếu dựa vào nền tảng công nghệ tự động hóa, kết nối đa chiều và thông minh hóa theo hướng phát triển các thiết bị tự phục vụ dựa trên trí tuệ nhân tạo (AI) và máy học (Machine learning). Trong tiến trình của cuộc cách mạng công nghệ số, các tổ chức tài chính đã không còn tập trung vào việc phát triển ngân hàng đa kênh nữa mà gần đây, đã chuyển hướng sang phát triển giải pháp ngân hàng hợp kênh, vốn được thiết kế để nâng cao tối đa trải nghiệm của khách hàng.

Thông qua giải pháp ngân hàng hợp kênh, khách hàng có thể truy cập các dịch vụ

ngân hàng mọi lúc, mọi nơi, bằng mọi thiết bị có kết nối Internet theo thời gian thực, đồng thời có thể trải nghiệm sự đồng bộ và liền mạch dịch vụ trên mọi kênh giao dịch Internet Banking, Mobile Banking, ATM... Phương pháp tiếp cận này còn cho phép các ngân hàng phân tích dữ liệu về các hoạt động của khách hàng thông qua các kênh khác nhau, qua đó dự đoán chính xác hơn nhu cầu và sở thích của khách hàng cũng như tăng cường khả năng giao tiếp hiệu quả hơn với khách hàng;

đồng thời, làm tăng hiệu quả và cải thiện hiệu suất hoạt động bằng cách thay thế các quy trình xử lý thủ công dựa vào con người bằng các giao dịch kỹ thuật số, làm giảm chi phí vận hành.

Ba là, các cơ quan quản lý đã và đang tập trung hoàn thiện, ban hành cơ chế chính sách, xây dựng hành lang pháp lý trong hoạt động ngân hàng thích ứng với xu hướng số hóa dịch vụ và ứng dựng mạnh mẽ công nghệ số, hợp tác mở.

Để đẩy mạnh phát triển các dịch vụ ngân hàng trong bối cảnh cách mạng công nghiệp, NHNN tiếp tục xây dựng cơ chế, chính sách và ban hành các quy định quản lý tạo môi trường thuận lợi cho các ngân hàng, tổ chức trung gian thanh toán đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ các công nghệ thành tựu của CMCN 4.0 vào hoạt động ngân hàng, thanh toán. Qua đó cho phép các đơn vị cung ứng các sản phẩm, dịch vụ đa dạng, tiện ích, hợp nhu cầu theo hướng lấy khách hàng làm trung tâm, góp phần hỗ trợ hoạt động kinh doanh năng động, liên tục đổi mới, sáng tạo của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.

Hiện nay, NHNN đã xây dựng Nghị định thay thế Nghị định 101/2012/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt để trình Chính phủ, trong đó có đề xuất chính sách tham gia vào quá trình cung ứng dịch vụ thanh toán của các tổ chức không phải ngân hàng; quy định về hoạt động đại lý thanh toán; Thanh toán xuyên biên giới...Bên cạnh đó, NHNN trình Thủ tướng Chính phủ Đề án áp dụng cơ chế quản lý thử nghiệm (Regulatory Sandbox) cho hoạt động Fintech trong lĩnh vực ngân hàng; khuyến khích đổi mới sáng tạo trong hoạt động ngân hàng, đẩy mạnh hợp tác ngân hàng - Fintech.

Cơ quan quản lý đã và đang tập trung hoàn thiện, ban hành cơ chế chính sách, xây dựng hành lang pháp lý trong hoạt động ngân hàng thích ứng với xu

hướng số hóa dịch vụ và ứng dựng mạnh mẽ công nghệ số, hợp tác mở như: mô hình ngân hàng đại lý (agent banking); nhận biết ngân hàng điện tử (e-KYC); tiền điện tử (e-money), open API; Đề án cơ chế quản lý thử nghiệm có kiểm soát (Regulatory Sandbox) cho Fintech cho lĩnh vực ngân hàng; Nâng cấp, xây dựng các hệ thống thanh toán quan trọng trong nền kinh tế (hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng - IBPS, hạ tầng thanh toán bù trừ tự động - ACH); xây dựng và triển khai tiêu chuẩn thống nhất về thanh toán QR Code, tiêu chuẩn thẻ Chíp nội địa…đảm bảo tính tương thích, liên thông.

Đồng thời, đẩy mạnh hợp tác quốc tế lĩnh vực công nghệ tài chính (giữa Ngân hàng và Fintech) nhằm cung ứng dịch vụ ngân hàng - tài chính tiện ích, hợp nhu cầu, giá cả hợp lý, hướng tới đối tượng chưa tiếp cận dịch vụ ngân hàng truyền thống (unbanked), góp phần tăng độ bao phủ cung ứng dịch vụ ngân hàng đến người dân, doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các ngân hàng chú trọng ứng dụng công nghệ số trong quản lý, giám sát, thu thập và phân tích dữ liệu, cùng với việc cải tiến và tự động hóa quy trình xử lý, đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực giám sát và quản lý rủi ro an ninh mạng và tăng cường an ninh bảo mật.

Ngoài ra, ngành Ngân hàng đã và đang tích cực phối hợp xây dựng, triển khai Chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện, qua đó nâng cao nhận thức, kiến thức, kỹ năng về tài chính của người tiêu dùng trong lĩnh vực ngân hàng-tài chính-thanh toán. Công tác truyền thông, giáo dục tài chính được đẩy mạnh với hình thức thể hiện gần gũi, dễ hiểu, thiết thực hướng tới các đối tượng yếu thế trong xã hội, qua đó nâng cao kiến thức, kỹ năng sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng đồng thời nâng cao khả năng tiếp cận sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho người dân.

Những thách thức trong phát triển dịch vụ phi tín dụng của các NHTMCP Việt Nam trong giai đoạn tới

Một là, Cách mạng công nghiệp 4.0 và xu hướng Fintech thúc đẩy sự cạnh tranh mạnh mẽ, thu hút đông đảo các công ty cung cấp giải pháp công nghệ, các doanh nghiệp bán hàng hóa và cung cấp dịch vụ hợp tác với các NHTMCP cung cấp các sản phẩm phi tín dụng hiện đại, đáp ứng nhu cầu các sản phẩm dịch vụ tiện ích ngày càng cao của khách hàng, tối đa hóa lợi nhuận của ngân hàng.

Tuy nhiên, xu hướng này cũng đang đặt ra các thách thức lớn cho cộng đồng ngân hàng bởi các công ty Fintech trong cạnh tranh thu hút khách hàng, mở rộng thị phần, đặc biệt là trong các giao dịch thanh toán, quản lý tài chính, quản lý danh mục đầu tư… lĩnh vực trước đây được coi là hoạt động kinh doanh truyền thống, sân chơi riêng của các NHTM. Do đó, nếu các NHTM không tiếp tục chủ động ứng dụng công nghệ mới, mạnh dạn đầu tư trang thiết bị hiện đại thì sẽ bị mất thị phần, mất khách hàng.

Hai là, những tiến bộ công nghệ và dự báo về sự ra đời của những sản phẩm phi tín dụng thay thế trong giao dịch với ngân hàng và ứng dụng trong dịch vụ thanh toán của ngân hàng nói trên sẽ diễn ra trong nhiều năm tới, nhưng hiện nay tại Việt Nam, nhiều NHTMCP vẫn đang cố gắng phát triển thị trường thẻ. Vì vậy, các NHTMCP Việt Nam cần nhanh chóng nhận ra những thay đổi của đông đảo khách hàng, có những chuyển động cần thiết theo xu hướng của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.

Ba là, còn tồn tại khoảng trống pháp lý trong lĩnh vực ngân hàng, đặc biệt là về hoạt động dịch vụ phi tín dụng liên quan tới công nghệ số. Việc tạo lập môi trường pháp lý và chính sách đầy đủ, nhằm hoàn thiện và phát triển các giải pháp công nghệ tài chính, phù hợp với nhu cầu thị trường và khuôn khổ pháp lý theo thông lệ đang đặt ra có tính cấp bách, nhằm thúc đẩy các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt an toàn, hạn chế rủi ro xảy ra cho khách hàng khi tham gia sử dụng các dịch vụ ngân hàng.

3.1.2. Định hướng phát triển dịch vụ phi tín dụng của các Ngân hàng