• Không có kết quả nào được tìm thấy

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1.8. Tổng quan các nghiên cứu TNXH trong ngành du lịch

Khái niệm về Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp bắt đầu xuất hiện trong các lĩnh vực công nghiệp khác nhau từ giữa những năm 1990 (Manente và cs., 2014). Gần đây, nó đã trở nên quan trọng hơn trong ngành du lịch (Inoue & Lee, 2011) và đã trở thành một từ thông dụng trong ngành du lịch chính thống (Fuchs, 2010). Từ đó, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về TNXH ở các công ty du lịch và khách sạn (Tamajón

& i Aulet, 2013), đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (Garaya & Font, 2012).

Sheldon & Park (2010) đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu thăm dò về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong ngành du lịch Hoa Kỳ”. Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu ý kiến của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp du lịch Hoa Kỳ về việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (TNXH). Nghiên cứu được thực hiện bằng cách khảo sát tư cách thành viên của Hiệp hội Công nghiệp Du lịch Hoa Kỳ, kiểm tra các hoạt động TNXH phổ biến nhất và xác định những khó khăn để đạt được TNXH của

26

doanh nghiệp. Kết quả cho thấy một thỏa thuận giữa các thành viên Hiệp hội Công nghiệp Du lịch Hoa Kỳ về tầm quan trọng của TNXH đối với ngành du lịch. Phần lớn số người được hỏi hiện đang tham gia vào một số chương trình TNXH và 24% số người khảo sát dành riêng cho các hoạt động TNXH. Các động lực chính của các hoạt động TNXH là nâng cao danh tiếng và các vấn đề dựa trên cộng đồng. Các khó khăn chính là thiếu nguồn lực và thiếu hiểu biết về TNXH. Kết quả cho thấy sự chiếm ưu thế của các dự án TNXH về môi trường (chứ không phải văn hóa xã hội). Những phát hiện này cho thấy nhu cầu cấp thiết về khái niệm và phương hướng rõ ràng cho sự tham gia TNXH của ngành du lịch.

Nghiên cứu TNXH gắn với phát triển bền vững

TNXH được các công ty du lịch sử dụng để làm cho du lịch bền vững hơn (Fuchs, 2010). Nhưng chính xác thì tính bền vững là gì? Phát triển du lịch bền vững là “du lịch có tính đến đầy đủ các tác động kinh tế, xã hội và môi trường hiện tại và tương lai, giải quyết các nhu cầu của du khách, ngành, môi trường và cộng đồng chủ nhà” (UNEP và UNWTO, 2005). Theo định nghĩa, phát triển bền vững cần bảo tồn di sản thiên nhiên và đa dạng sinh học, tôn trọng và bảo vệ tính xác thực và di sản văn hóa xã hội của các cộng đồng chủ nhà và mang lại lợi ích kinh tế - xã hội cho tất cả các bên liên quan. Tất cả các tác nhân du lịch như công ty lữ hành, đại lý du lịch, công ty vận tải, doanh nghiệp du lịch, chính phủ, cộng đồng, tổ chức phi chính phủ và khách du lịch cần hợp tác để giải quyết tất cả các vấn đề xã hội và môi trường tác động tiêu cực đến điểm đến và toàn ngành (Kasim , 2006).

TNXH và tính bền vững được coi là từ đồng nghĩa với một số khái niệm và hoàn toàn khác nhau bởi những khái niệm khác. Trong khi TNXH chủ yếu liên quan đến các vấn đề xã hội, Tính bền vững thường liên quan đến các vấn đề môi trường (Strand, Freeman, & Hockerts, 2014). Tuy nhiên, xem xét định nghĩa về TNXH, nó không chỉ tập trung vào các vấn đề xã hội - mà còn tập trung vào các vấn đề kinh tế và môi trường. Nó nhằm mục đích giảm thiểu các tác động của doanh nghiệp và đưa họ đến một tương lai bền vững. Có thể kết luận rằng TNXH là cách để các công ty du lịch hướng tới phát triển du lịch bền vững (Eraqi M. I., 2010).

Nghiên cứu TNXH với Du lịch có trách nhiệm

27

Du lịch có trách nhiệm cũng giống như du lịch bền vững, nhưng thuật ngữ này chủ yếu được ngành công nghiệp sử dụng như một khái niệm đơn giản và dễ hiểu hơn, tránh dùng quá nhiều từ ‘bền vững’ (Dodds, 2014). Du lịch có trách nhiệm bao gồm tất cả các hình thức du lịch tập trung vào việc giảm thiểu các tác động tiêu cực về kinh tế, môi trường và xã hội do du lịch gây ra. Mục đích của nó là cải thiện điều kiện sống và làm việc của cộng đồng chủ nhà và để họ tham gia vào quá trình ra quyết định liên quan đến quy hoạch và phát triển du lịch địa phương; đóng góp vào việc bảo tồn di sản văn hóa và thiên nhiên, xây dựng niềm tự hào và tự tin của địa phương, đồng thời mang lại hiểu biết sâu sắc hơn về văn hóa địa phương và kết nối có ý nghĩa hơn với người dân địa phương (CAPE TOWN DECLARATION, 2002).

Trong cuốn sách Du lịch có trách nhiệm và TNXH (Manente và cs., 2014), du lịch có trách nhiệm được mô tả là một phong cách sống. Để trở thành những người du lịch có trách nhiệm, mọi người nên có hành vi có trách nhiệm trong cuộc sống hàng ngày với tư cách là người tiêu dùng. Sự lựa chọn của những chuyến du lịch có trách nhiệm gắn liền với việc lựa chọn các sản phẩm hàng ngày với sự khác biệt rằng du lịch có trách nhiệm không chỉ là chứng nhận sinh thái và bao bì đẹp mắt. “Du lịch có trách nhiệm phải thực hiện với một lối sống hàng ngày thúc đẩy sự đa dạng về văn hóa và sinh học, cũng như thúc đẩy bảo tồn môi trường và tài nguyên thiên nhiên, ở nhà và khi đi du lịch” (2006, trang 13).

Fuchs (2010) thảo luận về tranh cãi của TNXH trong bài báo về Du lịch có trách nhiệm, bàn về giả thuyết các chương trình TNXH chỉ là về hình ảnh công khai và cho các mục đích tiếp thị. Tuy nhiên, một số công ty du lịch đưa ra tiêu chuẩn lao động cho nhân sự của họ; những người khác tham gia vào các hoạt động từ thiện và có một số người đang tìm kiếm sự nhạy cảm về văn hóa của khách du lịch (Fuchs, 2010). Tuy nhiên, nhìn chung, các hành động của các doanh nghiệp du lịch liên quan đến TNXH thường không rõ ràng trong khi các chương trình TNXH của họ rất phức tạp và không minh bạch (Fuchs, 2010).

Inoue và Lee (2011) thảo luận về lợi ích của TNXH và số lượng học giả đã đề xuất rằng TNXH có những tác động tích cực đến hoạt động kinh doanh như sự hài lòng của người tiêu dùng, danh tiếng, lợi thế cạnh tranh và cam kết của tổ chức. Chỉ số Danh tiếng Doanh nghiệp của Fortune cho thấy các công ty lớn hơn có xếp hạng TNXH cao hơn trong khi các doanh nghiệp nhỏ hơn có thể thực hiện các chính sách môi trường và

28

xã hội dễ dàng hơn các công ty lớn hơn (Eraqi M. I., 2010). Mặc dù việc thực hiện TNXH đã cho thấy ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả kinh doanh nhưng các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành du lịch vẫn chưa thực hiện được do một số lý do (Manente và cs., 2014) như thiếu ý thức, trong khi các nguyên nhân khác còn thiếu nguồn lực và kiến thức về quá trình thực hiện hoặc đánh giá thấp tầm quan trọng của TNXH.

Trong nghiên cứu của Eraqi M. I (2010) đã chỉ ra rằng các công ty có thể được thúc đẩy tăng trưởng bền vững hơn bằng cách thực hiện Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, điều này cũng có thể dẫn đến việc nâng cao lợi thế cạnh tranh của công ty trên thị trường du lịch toàn cầu. Một số công ty cảm thấy bị áp lực phải thực hiện TNXH để có trách nhiệm với xã hội. Áp lực có thể đến từ chính phủ, các nhà hoạt động hoặc khách hàng. Tuy nhiên, các biện pháp TNXH của họ thường hỗn loạn và không phù hợp với chiến lược của công ty và các hoạt động kinh doanh của nó (Eraqi M. I., 2010). Các hành động TNXH có thể trở thành một phần bản sắc của một công ty và nó có thể được sử dụng như một cách để tạo sự khác biệt với các đối thủ cạnh tranh (Eraqi M. I., 2010), đây là một trong những vấn đề lớn nhất đối với các doanh nghiệp du lịch. Do đó, điều quan trọng khi lựa chọn các hoạt động TNXH, công ty phải đảm bảo rằng chúng có liên quan đến chiến lược và các mục tiêu chính của mình, để nó không chỉ mang lại lợi ích cho các bên liên quan mà còn cho cả công ty (Eraqi M. I., 2010).

TNXH của doanh nghiệp là một khái niệm phức tạp và nó được các doanh nghiệp hiểu theo cách khác nhau. Do đó, ngành du lịch vẫn chưa phát triển về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Khái niệm này chủ yếu liên quan đến các vấn đề môi trường trong ngành du lịch và chỉ một số công ty lữ hành đã đề cập đến thực tế rằng du lịch ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân và nó có tiềm năng giảm nghèo (Kalish, 2002).

Nghiên cứu TNXH trong ngành lữ hành

Nghiên cứu: “Trách nhiệm xã hội giữa các nhà điều hành tour du lịch đại chúng Canada: nhận thức tốt nhưng hành động ít” của Dodds và Kuehnel thực hiện năm 2010 tại Canada. Mục đích là cung cấp một nghiên cứu tình huống khám phá về các nhà điều hành tour du lịch ở thị trường Canada và đánh giá mức độ nhận thức của họ về

29

các hoạt động TNXH của doanh nghiệp. Các nhà điều hành tour du lịch tại Canada đã tham gia các cuộc phỏng vấn và điền vào bảng câu hỏi khảo sát để đánh giá mối quan tâm, mức độ nhận thức và sự tham gia thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong thực tiễn. Các hoạt động trách nhiệm xã hội hiện tại ở các điểm đến mà họ điều hành cũng được đánh giá.Kết quả nghiên cứu cho thấy các sáng kiến chiến lược của công ty tập trung vào việc cải thiện trách nhiệm xã hội và môi trường của họ đang gia tăng. Tuy nhiên, trong trường hợp của các công ty lữ hành, các sáng kiến có tính chất sơ bộ và có rất ít các hoạt động thực hiện TNXH trong thực tiễn.

Kim và cộng sự (2008) thực hiện đề tài nghiên cứu: “Nhận thức của các đại lý lữ hành về trách nhiệm xã hội”Mục đích chính của nghiên cứu này là tìm hiểu nhận thức của các đại lý du lịch đối với TNXH của các công ty du lịch. Cụ thể, nghiên cứu đã xem xét mối quan hệ giữa Các yếu tố nhân khẩu học của các đại lý du lịch và các yếu tố liên quan đến công việc và thái độ của họ đối với TNXH của doanh nghiệp.

Những phát hiện từ nghiên cứu này cho thấy các đại lý du lịch giữ thái độ tích cực chủ yếu đối với TNXH của doanh nghiệp. Kết quả cũng cho thấy chỉ có yếu tố “giới tính”

và “thời gian kinh nghiệm công tác” là ảnh hưởng đáng kể đến nhận thức về trách nhiệm xã hội của công ty.

Những nghiên cứu trên cho thấy, phần lớn các nghiên cứu ngoài nước có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến TNXH của các doanh nghiệp lữ hành so với các nghiên cứu trong nước. Đối với các nghiên cứu về TNXH đối với doanh nghiệp lữ hành thì lại chủ yếu đánh giá nhận thức của doanh nghiệp cũng như việc thực hiện TNXH đối với các khía cạnh về kinh tế, xã hội và môi trường. Với những khía cạnh của TNXH và đặc trưng của ngành lữ hành có rất nhiều bên liên quan trong quá trình vận hành kinh doanh nên việc nghiên cứu bức tranh tổng thể về thực hành TNXH của doanh nghiệp lữ hành phức tạp. Với nguồn lực và thời gian hạn hẹp, đề tài nghiên cứu này sẽ xác định cách tiếp cận, giới hạn lại phạm vi và nội dung nghiên cứu để việc thực hiện đề tài mang tính khả thi.