• Không có kết quả nào được tìm thấy

(1)Phân tích đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến (Quang Dũng

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "(1)Phân tích đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến (Quang Dũng"

Copied!
12
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

Phân tích đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến (Quang Dũng) : (KHỔ 2) Doanh trại bừng lên hội đuốc, hoa

Kia em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

BÀI THAM KHẢO

Quang Dũng là nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc… nhưng thành công nhất vẫn là thơ ca. Các tập thơ tiêu biểu của Quang Dũng được bạn đọc biết đến nhiều như “Mây đầu ô”, “Mùa hoa gạo”… Nhưng tên tuổi của Quang Dũng có lẽ đã gắn liền với bài thơ Tây Tiến. Bài thơ ra đời vào năm 1948 in trong tập “Mây đầu ô” là bài thơ tiêu biểu nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ có giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc mà tiêu biểu là đoạn thơ sau đây:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Tây Tiến là một phân hiệu bộ đội được thành lập đầu năm 1947. Thành phần chủ yếu là thanh niên trí thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới phía Tây. Năm 1948, Tây Tiến giải thể để thành lập trung đoàn 52. Quang Dũng cũng chuyển sang đơn vị khác. Sau khi rời đơn vị cũ chưa được bao lâu Quang Dũng đã sáng tác bài thơ này. Đoạn thơ ta đang phân tích là đoạn thơ thứ hai trong bài Tây Tiến.

Bốn câu đầu, nhà thơ mang đến cho người đọc không khí tươi vui của đêm liên hoan văn nghệ đậm tình quân dân.

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kia em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

“Doanh trại” là nơi đóng quân của Tây Tiến cũng là nơi diễn ra lễ hội văn hóa đậm đà tình quân dân. Đồng bào dân tộc đã tụ họp về đây để sinh hoạt và góp vui tinh thần với bộ đội Tây Tiến. Từ “Bừng” gợi cảm giác ấm áp, gợi niềm vui lan tỏa. Đêm rừng núi thành đêm hội. Ngọn đuốc nứa, đuốc lau thành “đuốc hoa”

(“Đuốc hoa” là hoa chúc – cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn) . Ở đây, “đuốc hoa” có ý nghĩa là gợi không khí ấm cúng gợi niềm vui, niềm hạnh phúc trong lòng các chiến sĩ . “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười nói tưng bừng rộn rã. Tố Hữu khi nhớ về Việt Bắc cũng từng viết về đêm liên hoan: “Nhớ sao lớp học i tờ/ Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan”. Có thể hình dung đêm hội mà Quang Dũng viết trên đây như một đám cưới tập thể.

Từ “Kìa em” trong câu thơ thứ hai thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của lính Tây Tiến trước vẻ đẹp của cô gái vùng cao trong trang phục “xiêm áo” lộng lẫy cùng dáng vẻ “e ấp” rất thiếu nữ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ. Quang Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên trước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái, những cô gái Lào xinh đẹp, duyên dáng “e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ. Cũng có thể hiểu người lính đang đóng giả con gái trong những trang phục dân tộc rất độc đáo, tạo tiếng cười vui cho đêm văn nghệ.

Ngỡ ngàng nữa là tiếng khèn “man điệu”. Khèn là một loại nhạc cụ của người dân tộc miền núi Tây Bắc còn “man điệu” là một điệu nhạc “lạ” đặc trưng văn hoá của những con người nơi đây. Và hòa vào tiếng khèn ngất ngây ấy là điệu múa Lam vông quyến rũ của những cô gái Lào đã “xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ. Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thăng hoa, mọi mỏi mệt như bị đẩy lùi, thêm vào đó là lòng yêu đời, yêu miền đất lạ . Chính vì thế mọi cảm giác mỏi mệt, mọi vất vả đều tan biến. Thay vào đó là niềm lạc quan, yêu đời nâng bước họ mạnh mẽ hơn trên con đường hướng về “Viên Chăn xây hồn thơ”. Từ đó, ta có thể thấy được rằng các chiến sĩ của chúng ta dù

(2)

trong những giờ phút vui vẻ, thoải mái nhất thì tâm hồn của họ vẫn luôn hướng về lí tưởng cách mạng cao đẹp.

Bốn câu sau là khung cảnh chia tay trên nền sông nước Tây Bắc vừa thực vừa mộng hoang vắng, tĩnh lặng, buồn thi vị. Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

So với bốn câu thơ trên là hình ảnh không khí đêm lễ hội tưng bừng hoà hợp với ánh sáng lung linh và tâm hồn trẻ trung, yêu đời của các chiến sĩ Tây Tiến thì bốn dòng thơ tiếp theo, Quang Dũng đưa người đọc đến với hình ảnh của con người và núi rừng Tây Bắc trong một buổi chiều sương ... Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên theo chiều hướng nhẹ hoá. Cái dữ dội, khốc liệt được đẩy lùi đi và thay vào đó là những hình ảnh nhẹ nhàng và thơ mộng. Hình ảnh đầu tiên là hình ảnh chiều sương cho ta thấy nét đặc trưng vốn có của núi rừng nơi đây. Nhưng sương ở đây ko phải là sương lấp, sương che hay sương phủ mà là ''Người đi Châu Mộc chiều sương ấy''.

Nó gợi màu sắc bảng lảng, sương khói vừa có nỗi buồn man mác. Đại từ ''ấy'' làm rõ nghĩa hơn cho từ chiều sương để nhấn mạnh rằng đây là một buổi chiều sương rất đặc biệt, chiều sương trong nỗi nhớ đã thành kỷ niệm nên tình người cũng man mác, bâng khuâng!

Đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như một miền cổ tích. Có lẽ chất họa sĩ của Quang Dũng đã ăn vào thơ ở đoạn này. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút.

Sông nước hoang dại như một bờ tiền sử, bên bờ lau lách và tác giả đã cảm nhận những cánh lau qua hai từ vô cùng tinh tế, đó là ''hồn lau''... gợi cảm giác hoang vắng, tĩnh lặng, giàu chất thơ sâu lắng vừa có chút gì đó thiêng liêng phảng phất chút tâm linh rừng núi. “Nẻo bến bờ” có nghĩa là : nẻo – lối đi. Nẻo bến bờ là nhìn đâu cũng thấy mênh mang hồn lau. “Hồn lau” - những cây lau không còn vô tri vô giác mà có linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ ấy.

“Ngàn lau cười trong nắng Hồn của mùa thu về Hồn của mùa thu đi Ngàn lau xao xác trắng”

(Chế Lan Viên)

Không gian nên thơ ấy làm nền cho người thơ xuất hiện: Giữa hình ảnh thiên nhiên Tây Băc hiện lên đầy sức sống và lãng mạn thì hình ảnh con người nơi đây hiện lên mang một vẻ đẹp khỏe khoắn, bất khuất, kiên cường: ''Có nhớ dáng người trên độc mộc''. Điệp ngữ “có thấy – có nhớ” luyến láy như chạm khắc vào lòng người một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi. Độc mộc là một loại thuyền được làm từ thân cây gỗ lớn, dài. Dáng người trên độc mộc ở đây có thể là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái, Mèo đang đưa các chiến sĩ vượt sông. Cũng có thể hiểu là dáng hình kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến đang chèo chống con thuyền vượt sông , vượt thác dữ tiến về phía trước. Tất cả những hình ảnh ấy đều đã để lại trong lòng của Quang Dũng một hình ảnh khó phai nhoà...

Thiên nhiên Tây Bắc vốn nổi tiếng với con sông Mã, một dòng sông đã chứa trong nó biết bao dữ dội.

Nhưng ở đây, dòng sông Mã đã hiện lên với sự nhẹ nhàng đến kỳ lạ. Những cánh hoa rừng ko bị ''dồi lên dập xuống'' mà là “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa''. Từ láy “đong đưa” được sử dụng rất gợi: Cánh hoa rừng như cũng quyến luyến con người. Cánh hoa rừng như bàn tay vẫy chào người lính, tiễn người lính vượt sông đi đánh giặc.

Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bên cạnh đó còn có các yếu tố nghệ thuật: Ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, hồn thơ mang đậm chất lãng mạn, hào hoa. Những từ ngữ như “có nhớ”, “có thấy” luyến láy, khắc họa thêm nỗi nhớ: lưu luyến, bồi hồi. Tất cả đã tạo nên một bài thơ hay và giàu giá trị.

Tóm lại, tám câu thơ của khổ hai đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên , con người miền Tây với vẻ đẹp mĩ lệ , thơ mộng , trữ tình . Chất nhạc , chất hoạ , chất mơ mộng hoà quyện chặt chẽ với nhau trong đoạn thơ tạo nên một thế giới của cái đẹp .Từng nét vẽ của Quang Dũng đều mềm mại , tinh tế , uyển chuyển . Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa , lãng mạn của Quang Dũng trong tổng thể bài thơ .

PHÂN TÍCH KHỔ THƠ MỘT BÀI THƠ TÂY TIẾN:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

(3)

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời!

Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH

MỞ BÀI:

Quang Dũng là nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc… nhưng thành công nhất vẫn là thơ ca. Các tập thơ tiêu biểu của Quang Dũng được bạn đọc biết đến nhiều như “Mây đầu ô”, “Mùa hoa gạo”,

“Tuyển tập thơ văn Quang Dũng”. Nhưng tên tuổi của Quang Dũng có lẽ đã gắn liền với bài thơ Tây Tiến.

Bài thơ ra đời vào năm 1948 in trong tập “Mây đầu ô” là bài thơ tiêu biểu nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ có giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc mà tiêu biểu là đoạn thơ sau đây:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

THÂN BÀI

1. Khái quát trước khi phân tích: Tây Tiến là một phân hiệu bộ đội được thành lập đầu năm 1947, thành phần chủ yếu là thanh niên trí thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới phía Tây. Năm 1948, Tây Tiến giải thể để thành lập trung đoàn 52. Quang Dũng cũng chuyển sang đơn vị khác. Sau khi rời đơn vị cũ chưa được bao lâu Quang Dũng đã sáng tác bài thơ này. Đoạn thơ ta phân tích là đoạn mười bốn câu thơ đầu của bài thơ:

2. Đoạn thơ mở đầu bằng hai câu thơ mang cảm xúc chủ đạo của toàn đoạn thơ. Cảm xúc ấy là nỗi nhớ:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Đối tượng của nỗi nhớ ấy là con Sông Mã, con sông gắn liền với chặng đường hành quân của người lính.

Đối tượng nhớ thứ hai là nhớ Tây Tiến, nhớ đồng đội, nhớ bao gương mặt một thời chinh chiến. Nỗi nhớ ấy được bật lên thành tiếng gọi tha thiết “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi” gợi lên bao nỗi niềm lâng lâng khó tả. Đối tượng thứ ba của nối nhớ đó là “nhớ về rừng núi” . Rừng núi là địa bàn hoạt động của Tây Tiến với bao gian nguy, vất vả nhưng cũng thật trữ tình, lãng mạn. Nhưng nay, tất cả đã “xa rồi”. “Xa rồi” nên mới nhớ da diết như thế. Điệp từ nhớ được nhắc lại hai lần như khắc sâu thêm nỗi lòng của nhà thơ. Đặc biệt tình cảm ấy được Quang Dũng thể hiện bằng ba từ “Nhớ chơi vơi”, cùng với cách hiệp vần “ơi” ở câu thơ trên làm nổi bật một nét nghĩa mới: “Chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào đâu cả. “Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối, không thứ tự thời gian, không gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bồi hồi, bâng khuâng, sâu lắng làm cho con người có cảm giác đứng ngồi không yên.

2. Sáu dòng thơ tiếp theo là nỗi nhớ về cuộc hành quân giữa núi rừng miền Tây vừa hùng vĩ , hiểm trở lại vừa thơ mộng trữ tình được cảm nhận bằng cảm hứng lãng mạn và tâm hồn lãng mạn hào hoa:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

(4)

1. a. Thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội, hiểm nguy nhưng không ngăn nổi bước chân người lính:

- Thiên nhiên khắc nghiệt: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”. Trên đỉnh Sài Khao, sương dày đến độ “lấp” cả đoàn quân. Đoàn binh hành quân trong sương lạnh giữa núi rừng trùng điệp. Chữ“mỏi” làm hiện lên trước mắt ta hình ảnh của một đoàn quân mệt mỏi rã rời.

- Con đường hành quân với cảnh vượt dốc, đường đi nguy hiểm với dốc cao, vực thẳm:Dưới ngòi bút của Quang Dũng, con đường hành quân mở ra với biết bao nhiêu khó khăn gian khổ. Đường đi toàn dốc cao, vực thẳm được diễn tả với nhiều từ láy tạo hình: “khúc khuỷu” (quanh co khó đi), “thăm thẳm”

(diễn tả độ cao, độ sâu), “heo hút” (xa cách cuộc sống con người). Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đi liền nhau “dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” (bảy chữ mà đã có tới 5 chữ là thanh trắc) khiến khi đọc lên ta có cảm giác trúc trắc, mệt mỏi như đang cùng hành quân với đoàn binh vậy. Có thể hình dung người lính Tây Tiến vừa leo lên được đỉnh dốc đã mệt nhoài lại phải đổ xuống một con dốc khác và cứ thế cuộc hành quân kéo dài với dốc cao vực thẳm.

- Câu thơ “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” sử dụng phép nhân hóa “súng ngửi trời” làm hiện lên hình ảnh:

núi cao heo hút, mây nổi thành cồn trên đỉnh núi, người lính đi trên đỉnh núi mà như đi trên mây. Mũi súng đeo sau vai như chạm đến trời xanh “ngửi trời”. Thật là một hình ảnh ngạo nghễ có chút gì rất hóm hỉnh đùa vui kiểu lính. Chính vì chất lính trẻ trung ấy mà trước thiên nhiên dữ dội người lính Tây Tiến không bị mờ đi mà nổi lên đầy thách thức.

- Thiên nhiên không còn là đối tượng để thưởng thức ngắm nhìn nữa mà là đối thủ: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không dứt.

Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: “Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống”, làm câu thơ như bị bẻ đôi, diễn tả con dốc với chiều cao, sâu rợn ngợp: nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm.

b. Thiên nhiên Tây Bắc bên cạnh cái hùng vĩ, hiểm trở là những nét vẽ đầy thơ mộng trữ tình:

- Có cảnh đoàn quân đi qua bản Mường Lát vào ban đêm và phát hiện ra vẻ đẹp trữ tình “hoa về trong đêm hơi”. “Hoa về” nghĩa là hoa nở. “Đêm hơi” là đêm sương. Hai hình ảnh ấy đặt cạnh nhau tạo nên một không gian thơ mộng. Có thể hiểu người lính hành quân trong gian khổ nhưng tâm hồn lúc nào cũng luôn lạc quan, yêu đời làm bạn với hoa rừng, sương núi.

- Có cảnh đoàn quân đi trong mưa vừa hùng vĩ lại rất nên thơ: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được dệt bởi những thanh bằng liên tiếp, gợi tả sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Nhịp thơ cũng chậm lại, âm điệu nhẹ nhàng như phút nghỉ chân hiếm hoi của người lính. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành và yêu thương. Tất cả nhạt nhòa trong màn mưa rừng dày đặc mang cái lãng mạn của núi rừng miền Tây vừa có cái dữ dội hiểm nguy nhưng lại có cái trữ tình đáng nhớ.

3. Bốn câu thơ tiếp theo nhà thơ miêu tả sự hi sinh gian khổ của người lính đồng thời tô đậm thêm sự dữ dội của chốn đại ngàn:

- Sự dữ dội của núi rừng cũng vắt kiệt sức người, Quang Dũng không hề né tránh hiện thực: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Người lính Tây Tiến trong cuộc hành quân gian khổ ấy đã có người ngã xuống vì kiệt sức. “Dãi dầu” là dầm mưa dãi nắng, vất vả khó nhọc. “Không bước nữa”

là kiệt sức. “Gục lên súng mũ” là ngã xuống. “Bỏ quên đời” là hi sinh, mất mát. Nghệ thuật nói giảm nói tránh đã làm cho câu thơ giảm đi đau thương mà thay vào đó là sự bi tráng, hào hùng. Người lính ra đi mà như đi vào giấc ngủ bởi họ đã khoác lên mình đôi cánh của lý tưởng “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

- Gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

“Chiều chiều” rồi “đêm đêm” (thời gian gợi sự hiểm nguy rình rập). Những âm thanh ấy, “thác gầm thét”,

“cọp trêu người”, luôn khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng nước độc.

4. Sau chặng đường dài hành quân mỏi mệt, các chiến sĩ có dịp dừng chân lại ở một bản làng có tên gọi rất đỗi yêu thương – Mai Châu. Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết.

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

- “Nhớ ôi!” từ cảm thán mang tình cảm dạt dào. Khung cảnh đậm đà tình quân dân. Sau một thời gian dài hành quân vất vả giữa núi rừng phải chịu đói, chịu khát. Nay các anh được đồng bào tiếp đón bằng “cơm lên khói” cùng mùi hương “thơm nếp xôi” thật là ấm bụng. Chính nơi đây, mọi khó khăn gian khổ như bị đẩy lùi mà thay vào đó là niềm lạc quan và tình thơ đong đầy.

(5)

5. Tổng kết nghệ thuật: Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bên cạnh đó còn có các yếu tố nghệ thuật: Sử dụng nhiều từ láy tạo hình, cách sử dụng thanh trắc, điệp từ, nhân hóa, đối lập…tất cả đã tạo nên một bài thơ hay và giàu giá trị.

KẾT BÀI

Tóm lại, mười bốn câu thơ trên đây là phần đầu bài Tây Tiến, một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh chiến sĩ can trường và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa . Xin được mượn bốn câu thơ của Giang Nam thay cho lời kết:

Tây Tiến biên cương mờ lửa khói Quân đi lớp lớp động cây rừng Và bài thơ ấy, con người ấy Vẫn sống muôn đời với núi sông.

PHÂN TÍCH KHỔ 3 BÀI THƠ TÂY TIẾN.

Bình giảng 8 dòng thơ:

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc - Quân xanh màu lá dữ oai hùm - Mắt trừng gửi mộng qua biên giới - Đêm mơ Hnội dáng kiều thơm - Rải rác biên cương mồ viễn xứ - Chtrường đi chẳng tiếc đời xanh - áo bào thay chiếu anh về đất - Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

MỞ BÀI

Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. ở trong thơ Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian

"Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc - Quân xanh màu lá dữ oai hùm - Mắt trừng gửi mộng qua biên giới - Đêm mơ Hnội dáng kiều thơm - Rải rác biên cương mồ viễn xứ - Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh - áo bào thay chiếu anh về đất - Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

THÂN BÀI

"Tây Tiến" của Quang Dũng là dòng hồi ức vô cùng thương nhớ về những đồng đội của nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng có người đã hy sinh, những người đã trở về với đất mẹ yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng là những người mãi mãi nằm lại nơi biên cương hay miền viễn xứ.

Chính vì thế QDũng không chỉ dựng lại cả một hình ảnh của đoàn binh Tây Tiến trên những chặng đường hành quân gian khổ hy sinh mà "đời vẫn cứ tươi" như ở 14 dòng thơ đầu tiên. Và QDũng cũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của những người lính với một đời sống tình cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao là tình quân dân. QDũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính Tây Tiến trong tác phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dtộc. Đó là bức tượng đài sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ

"Tây Tiến đoàn quân ... khúc độc hành"

Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc hoạ lên từ những đường nét nhằm tô đậm cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra trong đoàn quân mỏi trong câu:

" Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi "

hay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình cá nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như lá rừng. Cảm hứng chân thực của QDũng đã không né tránh việc mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không thể mọc được (chứ không phải họ cố tình cạo trọc để đánh giáp lá cà cho dễ như nhiều người từng nói). Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh màu lá nguỵ trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tuỵ. Nhưng thế giới tinh thần của người lính lại cho thấy họ chính là những người chiến

(6)

binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo, hùm beo. Cái giỏi của QDũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tuỵ nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc" với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như "tiến", "mọc tóc". Nhờ những thanh trắc ấy mà âm hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. 2 chữ "đoàn binh" âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Và đặc biệt hai chữ "Tây Tiến" mở đầu câu thơ không chỉ còn là tên gọi của đoàn binh nữa, nó gợi ra hình ảnh một đoàn binh dù đầu không mọc tóc vẫn đang quả cảm tiến bước về phía Tây. Thủ pháp tương phản mà QDũng sử dụng ở câu thơ "Quân xanh màu lá dữ oai hùm"

không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. ở đây, nhà thơ không chỉ muốn nói rằng những người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm, không phải muốn "động vật hoá" người lính Tây Tiến mà muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi người anh hùng vệ quốc trong câu thơ

"Hoành sóc giang san cáp kỷ thu - Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu"

Và ngay cả Hồ Chí Minh trong "Đăng sơn" cũng viết

"Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu - Thể diện sài long xâm lược quân"

Có thể nói QDũng đã sử dụng một môtíp mang đậm màu sắc phương Đông để câu thơ mang âm vang của lsử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền thống của dtộc. Đọc câu thơ:

"Quân xanh màu lá dữ oai hùm" ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông á.

Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi QDũng bổ sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ

"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới - Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tquốc, hướng về Thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về HNội. Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:

"Từ thuở mang gươm đi mở nước - Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long"

Người lính Tây Tiến dẫu "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" mà niềm thương nỗi nhớ vẫn hướng về một "dáng kiều thơm". Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. QuDũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc - những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đsống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa.

Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật và tạo được những ấn tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ QDũng.

Nếu như ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh với những bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ phân tích từng hình ảnh riêng rẽ độc lập, người ta dễ cảm nhận một cách bi luỵ về cái chết của người lính mà thơ ca kháng chiến thuở ấy rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca kháng chiến phần lớn chỉ quan tâm đến cái hùng mà không quan tâm đến cái bi. Nhưng nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu QDũng đã mô tả một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.

Có thể thấy câu thơ: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" nếu tách riêng ra rất dễ gây cảm giác nặng nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến ở nơi "viễn xứ". Từng chữ từng chữ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Chẳng phải thế sao? Nói về những nấm mồ, lại là những nấm mồ "rải rác" dễ gợi sự hoang lạnh, lại là "rải rác" nơi "viễn xứ", những nấm mồ ấy càng gợi sự cô đơn côi cút. QDũng muốn nói tới nơi yên nghỉ của những người đồng đội

"Anh bạn dãi dầu không bước nữa - Gục lên súng mũ bỏ quên đời"

Trong Chinh phụ ngâm:

"Hồn tử sĩ gió về ù ù thổi - Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi - Chinh phu tử sĩ mấy người - Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn"

(7)

Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên cương đã trở về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân, của đất nước. Bởi đó chính là nấm mồ của những người con anh dũng

"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"

Đồng thời cũng chính câu thơ thứ 2 đã làm cho những nấm mồ rải rác kia được nâng lên những tầng cao của đài tưởng niệm, của Tổ quốc đối với người lính đã vì tiếng gọi của chiến trường mà hiến dâng tuổi xanh của mình. Trong thơ QDũng luôn là một sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như vậy.

Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ

"áo bào thay chiếu anh về đất"

Bao nhiêu thương yêu của QDũng trong một câu thơ như vậy về một đồng đội của mình. Ai bảo QDũng không xót thương những người đồng đội của mình ra đi trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận. Lại trong cảnh kháng chiến còn rất khó khăn nên tiễn đưa người chết không có cả một chiếc quan tài. Hoàng Lộc trong "Viếng bạn" cũng đã viết về cảnh tiễn đưa như thế

"ở đây không manh ván - Chôn anh bằng tấm chăn - Của đồng bào Cứa Ngàn - Tặng tôi ngày sơ tán"

Chỉ có điều câu thơ của QDũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm, cổ kính. Cũng có người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có, chỉ có chính tấm áo của người lính. Dù hiểu theo cách nào thì cũng phải thấy QDũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc áo bào và sự hy sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông. Cụm từ "anh về đất" nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca

"Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

KẾT BÀI

Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, QDũng đã dựng lên bức chân dung , một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của QDũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con anh hùng ấy.

Nhận xét về nét đặc sắc của nghệ thụât, ngôn ngữ, giọng điệu trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng.

1. Hình ảnh thơ:

- Hình ảnh trong bài thơ được sáng tạo bằng nhiều bút pháp khác nhau, tạo nên những sắc thái thẩm mỹ phong phú.

Trong bài thơ có hai hình ảnh chính: thiên nhiên miền Tây và người lính Tây Tiến, đồng thời cũng còn có hình ảnh về cụôc sống của đồng bào miền Tây gắn với người lính Tây Tiến. Ở mỗi loại hình ảnh có hai dạng chính, tạo nên sắc thái thẩm mỹ phối hợp, bổ sung cho nhau.

+ Thiên nhiên có cái dữ dội, khắc nghiệt, hoang sơ, hùng vĩ:

Dốc lên khúc khủy dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời ...

Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

+Bên cạnh đó, có những hình ảnh thiên nhiên đầy thơ mộng, ẩn hiện trong sương khói, trong màn mưa, đong đưa bóng hoa: Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi...

Tác giả đã sử dụng nhiều bút pháp để miêu tả, dựng hình ảnh, có khi tả cận cảnh, dừng lại ở những chi tiết khá cụ thể, có khi lại lùi xa để bao quát khung cảnh rộng, mở ra bức tranh phóng khoáng và hùng vĩ của miền Tây.– hình ảnh con người cũng hiện ra với nhiều sắc thái, chủ yếu là hào hùng và hào hoa.Hào hùng ở ý chí, tư thế hiên ngang, coi thường gian khổ:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc ...

Áo bào thay chiếu anh về đất

(8)

Hào hoa ở tâm hồn nhạy cảm trước thiên nhiên, đằm thắm tình người và cả những khát khao, mơ mộng:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa ...

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

2. Ngôn ngữ thơ : Đặc sắc ngôn ngữ của Tây Tiến là sự phối hợp, hòa trộn của nhiều sắc thái phong cách với ngôn ngữ những lớp từ vựng đặc trưng.

+ Có thứ ngôn ngữ trang trọng, mang màu sắc cổ kính, chủ yếu miêu tả hình ảnh Tây Tiến và sự hi sinh bi tráng của họ.

+ Có lớp từ ngữ sinh động của tiếng nói hàng ngày, in đậm phong cách người lính.

+ Một nét sáng tạo trong ngôn ngữ là có những kết hợp từ độc đáo mới lạ tạo nghĩa mới hoặc sắc thái mới : nhớ chơi vơi, đêm hơi, súng gửi trời, mưa sa khơi...

- Sử dụng địa danh : tạo ấn tượng về tính cụ thể, xác thực của bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người; gợi được cẻ hấp dẫn của xứ lạ phương xa.

3.Giọng điệu thơ : Cả bài thơ được bao trùm trong nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy gợi về những kỉ niệm, những hình ảnh với nhiều trạng thái cảm xúc khác nhau, được diễn tả bằng những giọng điệu phù hợp với mỗi trạng thái cảm xúc.

- Đọan 1 chủ đạo là gịong tha thiết, bồi hồi, được cất lên thành những tiếng gọi những từ cảm thán.

- Đọan 2 tái hiện kỉ niện về những đêm liên hoan thắm tình quân dân, giọng điệu chuyển sang hồn nhiên , tươi vui;

sau đó bâng khuâng, man mác khi gợi lại một cảnh chia tay trong một chiều sương mờ bao phủ Châu mộc.

- Đọan 3 giọng thơ trang trọng bi tráng, tái hiện hình ảnh người lính Tây Tiến và sự hi sinh cao cả của họ.

- Đọan 4 tha thiết bồi hồi….

Đế 1: Phân tích đoạn thơ sau trong bài “Tây Tiến” của Quang Dũng:

„Tây Tiến đòan binh không mọc tóc

………

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Tây Tiến là bài thơ độc đáo của ngườI nghệ sĩ tài hoa Quang Dũng được sáng tác năm 1948, sau khi chuyển đến công tác ở đơn vị khác. Bài thơ đựơc viết theo thể hành rắn rỏi, chi có 34 câu nhưng câu nào cũng hay, chẳng có chữ nào thừa. Bài thơ là sự hồi tưởng những kỉ niệm trong kháng chiến của những người lính trẻ hầu hết xuất thân từ Hà Nội, tái hiện khung cảnh núi rừng hoang dã đến những tình cảm thắm thiết của hậu phương lúc dừng quân. Đặc biệt khổ thơ thứ ba trong bài thơ đă khắc họa sinh động hình ảnh người lính Tây Tiến:

Tây tiến đoàn binh không mọc tóc ………….

Sông mã gầm lên khúc độc hành.

Thật vậy, mở đầu đọan thơ là hình ảnh người lính Tây Tiến hiện ra với dáng vẻ khác thường : Tây tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Đó là người lính “không mọc tóc” và” xanh màu lá”.Chỉ hai chi tiết thôi nhưng tác giả đã tái hiện hình ảnh người lính với hiện thực khốc liêt của bệnh tật. Rừng sâu, nước độc đã tàn phá ngoại hình những chàng trai trẻ đất Hà Thành.

Bệnh sốt rét rừng đã khiến cho tóc rụng trọc, da xanh. Nhưng với sức sống của tuổi thanh niên, ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng đã nắm bắt hiện thực cuôc chiến, tô đậm và phóng đại, hiện lên dáng vẻ người lính đẹp lạ thường. Cũng là bệnh sốt rét rừng ấy nhưng với ngòi bút hiện thực, người lính cùng thời của Chính Hữu có vẻ tiều tụy quá “ anh vớI tôi biết từng cơn ớn lanh, sốt run người vầng trán ướt mồ hôi” .Còn người lính Tây Tiến thì phủ nhận hiện thực đó.

Đầu “không mọc tóc” chứ không phải là do tóc không mọc đựơc, da “xanh màu lá” không phải vì sốt rét da xanh mà do tác động của sắc màu núi rừng đó thôi ! Người lính không hề ở trong tư thế bị động mà trái lại chủ động hiên ngang đầy khí phách “ dữ oai hùm”.

Bên trong ngoại hình ấy là tâm hồn rất mộng mơ:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Ôm giấc mộng giết giặc cứu nưóc, những chàng trai ấy bỏ lại sau lưng quê hương với biết bao kỉ niệm êm đềm, có người ngoảnh mặc ngăn dòng nứơc mắt, bỏ mặc gia đình với những bóng dáng yêu thương.Họ dấn thân ra biên ải với giấc mộng giết giặc bảo vệ sự vẹn toàn của tổ quốc, khát vọng lập chiến công: “ Gửi mộng qua biên giới” với ánh mắt hờn căm, nảy lửa nhìn xuyên không gian như muốn thiêu đốt quân thù: “mắt trừng”. Nhưng đôi mắt ấy chợt dịu lại khi mơ về người con gái thanh lịch Hà thành đã một lần đi qua trong nỗi nhớ của anh :

“ Đêm mơ Hà nội dáng kiều thơm”.

Cách nhớ không giống Hồng Nguyên với“ Những người vợ trẻ, mòn chân bên gối gạo canh khuya”( Nhớ). Nỗi nhớ của người lính Tây Tiến không cụ thể “dáng kiều thơm”.Đó không hẳn là người vợ, người yêu, cũng không hẳn là cô láng giềng ; có thể chỉ là một bóng hồng bất chợt đi qua trong những ngày còn ở Hà Nội mà thôi.

(9)

Nỗi nhớ của Quang Dũng rất đáng trân trọng vì trong những người lính trẻ thời ấy, mộng và mơ như hòa quyện trong nhau, trong tình yêu đất nước “gửi mộng qua biên giới”có tình cảm riêng tư của mỗi cá nhân “mơ hà nội dáng kiều thơm”. Câu thơ gợi nhớ đến người lính đánh Pháp năm nào của Nguyễn Đình Thi cũng có cùng cảm xúc “ Những đêm dài hành quân nung nấu, bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”( Đất nước). Chính tình cảm riêng tư ấy đã chắp cánh cho tình yêu nước của anh. Chính sự hài hòa của mộng và mơ đã tiếp thêm sức mạnh để các anh vượt gian khổ lập nên chiến công hiển hách.

Hai câu thơ tiếp theo, Quang Dũng đã bộc lộ được ý chí hào hùng của người lính Tây Tiến:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

rải rác là thưa thớt, viễn xứ là nơi xa. Quang Dũng không tránh né hiện thực.Nhà thơ tái hiện một không gian lạnh giá, heo hút với hình ảnh trọng tâm òa những nấm mồ hoang của những người con xa xứ ngoài biên ải.

Những hình ảnh nghiệt ngã như thử thách những chàng trai đang phải đối mặt hằng ngày; cái chết không nhiều:

“rải rác” nhưng trên vạn nẻo đường hành quân, người lính đi đâu cũng thấy vài ba nấm mồ thấp lè tè qua mưa gió, thời gian của những người lính trẻ xa nhà đã vĩnh viễn nằm lại ngoài biên cương. Các anh cũng chỉ là con người, còn quá trẻ, lòng ham sống sao không khỏi chạnh lòng khi không khỏi nghĩ đến một ngày nào đó mình cũng không về, ...mẹ già, chị yếu, em thơ....còn bao nhiêu hệ lụy của cuôc đời ràng buộc. Có lẽ các anh đã không nén đựơc tiếng thở dài ! Nhưng trót làm trai thời loạn làm sao có thể đặt tình nhà lên trên nợ nước? “ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

Anh rũ bỏ tất cả, chân lại tiếp tục cùng đồng đội ra chiến trường nhắm thẳng đầu thù để tiêu diệt không hề tiếc nuối

“đời xanh”

Có thể nói, cuộc chiến khốc liêt cùng lam sơn chướng khí đã bào mòn sức khỏe của người trai trẻ đồng bằng, cái gì đến cuối cùng cũng đã đến! Anh vĩnh viễn nằm xuống giữa núi rừng heo hút. Cái chết đã đến, có thể do súng đạn cũng có tểh do bệnh tật thiếu thuốc men “ áo bào thay chiếu anh về đất”. “anh về đất” là biện pháp nói giảm, nói tránh để chỉ cái chết của người lính, không có cách hiểu thứ hai.Nhưng “áo bào thay chiếu anh về đất” là vấn đề có ý kiến không đồng nhất, ( lời thuật chuyện của Trần Lê Văn kể rằng : ngày ấy mỗi lần người lính ra trận thường đựơc đồng bào địa phương tặng cho chiếc chiếu, sống để đắp , chết bó thây. Và thực tế đã được nhiều người vận dụng cho rằng : khi nằm xuống người lính chiến không có được cái hòm, chí có chiếc chiếu liệm thân anh mà thôi! Nhưng căn cứ trên câu thơ “áo bào thay chiếu‟ thì khi chết người lính không có cả chiếc chiếu để chôn thân, chiếc áo mặc lúc sống là chiếc quan tài che kín thân anh ! hãy nghe Quang Dũng nói “ ngay cả khi nằm xuống, người tử sĩ không có cả manh chiếu liệm. Nói áo bào thay chiếu là cách nói của người lính chúng tôi, kiểu nói ước lệ.Câu thơ trên đây để an ủi những đồng chí của mình ngã xuống giữa rừng.” Như thế đã rõ những người lính chúng ta đã dâng hiến đời mình cho dân tộc đẹp đến chừng nào. Khi vĩnh viễn giã từ cụôc sống, không có một tiếng khóc của người thân.Đồng đội cố nén dòng lệ phân li để giữ vững tinh thần, chỉ có dòng sông Mã thay lời nước non đang gầm lên tiễn đưa người con ưu tú của dân tộc về với đất mẹ. Khúc điều văn bi tráng của sông Mã đã nâng hình ảnh người lính lên tầm vóc núi sông, ngang tầm với trời đất.

Tóm lại, trong số những bài thơ viết về người lính năm 1948 như Nhớ của Hồng Nguyên, Cá nước của Tố Hữu, Đồng chí của Chính Hữu...thì Tây Tiến của Quang Dũng nói nhiều đến sự hi sinh.Tác gỉa không ngần ngại nói đến cái chết của người lính ở chiến trường, ở rừng sâu nước độc, ở biên giới Tây Bắc, cái chết vì súng đạn, cái chết vì bệnh tật, thiếu thốn....nhưng đoạn thơ và cả bài thơ vẫn không hề gây cảm giac bi lụy. Chỉ có 8 câu nhưng Quang Dũng đã dựng lên đươc một bức tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến hào hoa, dũng cảm. Nhà thơ đã tái hiện được hiện thực bi hùng trong niềm cảm hứng lãng mạn dạt dào.

Đề 2: “Cảm hứng lãng mạng và tinh thần bi tráng là đặc điểm nổi bậc trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng”.Hãychứng minh nhận định trên.

Quang Dũng là nhà thơ tài hoa về nhiều lĩnh vực nhưng ông đạt được sự thành công nhất ở thơ ca. Thơ ông thể hiện một tâm hồn nhạy cảm, giàu chất lãng mạn, khả năng cảm nhận tinh tế vẻ đẹp của thiên nhiên và tình người, nghệ thuật diễn tả hồn nhiên, bình dị, chân thật.Tây Tiến là một trong những bài thơ đặc sắc của Quang Dũng.Nỗi bật trong bài thơ là cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.

Trước hết, là cảm hứng lãng mạn của bài thơ thể hịên ở cái tôi tràn đầy tình cảm, xúc cảm. Nó phát huy cao độ trí tưởng tượng, thủ pháp cường điệu và phóng đại, đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hùng vĩ và tuyệt mĩ.Thiên nhiên miền tây Bắc bộ vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Hình ảnh những cô gái, những con người miền Tây tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng.Chất lãng mạn được thể hiện ở cảm hứng hướng tới cái cao cả, sãn sàng xả thân hi sinh tất cả cho lý tưởng dân tộc.

(10)

Bức chân dung người lính Tây Tiến được dệt nên bởi cảm hứng lãng mạn qua cái nền hùng vĩ và thơ mộng của núi rừng Tay Bắc với tư thế đẹp, hùng dũng, với nỗi nhớ chơi vơi, heo hút cồn mây súng ngửi trời.Không những vậy,bút pháp lãng mạn còn thể hịên qua âm thanh ghê rợn của thác gầm thét, cop trêu người nhàăm tô đậm vẻ hoang dại, bí mật của rừng thiêng dữ dội, rồi đột ngột mở ra một nỗi nhớ ấm áp :

“Nhớ ôi Tây Tiến…thơm nếp xôi”.

Thực ảo đan xen trong đêm liên hoan : bừng lên hội đuốc hoa với cái nhìn ngơ ngác lẫn cái e ấp tình tứ. Từ cảnh liên hoan chuyển sang cảnh sông nước đầy chất thơ bằng bút pháp chấm phá tinh tế( người đi châu mộc…hoa đong đưa). Cảnh như được phủ lên màn sương huyền thọai, da diết hồn của ngàn lau…giống như một bức họa cổ.Hùng vĩ với thơ mộng là cái nhìn riêng của chất thơ lãng mạn Quang Dũng.

Cùng với cảm hứng lãng mạn là tinh thần bi tráng của bài thơ. Tây Tiến không hề che giấu cái bi. Nhưng bi mà không lụy. Cái bi được thể hiện bằng một giọng điệu,âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng .Người chiến sĩ Tây Tiến luôn hiên ngang, bất khuất dù mất mát, đau buồn .Trên cái nền thiên nhiên tráng lệ, người lính xuất hiện với tâm vóc bi tráng khác thường : không mọc tóc, xanh màu lá dữ oai hùm, mắt trừng gửi mộng qua biên giới… Các câu tiếp theo nói về sự hi sinh phi thường (rải rác...về đất).

Hai khổ thơ tạo hình dữ dội, nói lên cái gian khổ tột cùng lẫn cái lẫm liệt kiêu hùng.Cái chết cũng được tác giả bao bọc trong không khí hòanh tráng. Từ Hán việt được sử dụng, tạo âm hưởng bi hùng. Câu thơ “Sộng Mã gầm lên khúc độc hành” giống khúc nhạc chiêu hồn tử sĩ thật dữ dội, bi tráng giữa không gian bát ngát. Tinh thần bi trang do đâu mà có? Chiến trường Tây Tiến ác liệt, hoang vu, nhiều thú dữ, bệnh sốt rét rừng gây tử vong, nhiều chiến sĩ đã ngã xuống trên đường hành quân…Đó là cái bi, là hiện thực khốc liêt của cụôc chiến. Quang Dũng không lẩn tránh cái bi, nhưng đem đến cho cái bi màu sắc và âm hưởng tráng lệ, hào hùng để thành chất bi tráng. Đó là nhờ cái “tráng” rất khỏe của thi sĩ đã át đựơc, thắng được cái bi. “Cái tráng” này là của Quang Dũng và cả một lớp trai trẻ thời ấy, mang trong lòng một bầu máu nóng, “môt ra đi là không trở về” như hình mẫu những anh hùng trong truyện cổ mà họ từng ôm ấp, lại được luồng gió yêu nước thời đại anh hùng rực lửa lúc bấy giờ thổi vào, nên lại càng hào hùng, rực rỡ. Đúng là „bài thơ này đã đựơc khí phách của một thời đại ùa vào, chắp cánh” để cái chất bi tráng ấy bay lên như một nét đẹp hiếm có của bài thơ.

Cảm hứng lãng mạn và sắc thái bi tráng tạo nên chất sử thi đặc biệt của bài thơ. Bức chân dung người lính hào hoa, dũng cảm trên cái nền hùng vĩ, tráng lệ đựơc tác giả hướng hồn thơ ngưỡng vọng vào cả một thế hệ anh hùng - những người lính “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”.

Tóm lại, Tây Tiến là bài thơ hay về người lính. Bài thơ góp tiếng nói độc đáo cùng những bài thơ kháng chiến viết về người lính cuả Hồng Nguyên, Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi….làm thành mảng đặc sắc trong thơ ca thờ kì kháng chiến chống Pháp.

Đề 3 : Anh /chị hãy phân tích đọan thơ sau đây trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

………

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.

Bài làm tham khảo

Quang Dũng là một nghệ sĩ tài năng : làm thơ, viết văn, vẽ tranh và sọan nhạc.Dù ở thể lọai nào, ông đều có những đóng góp đáng kể.Tây Tiến là một trong những bài thơ tài hoa của ông.Bài thơ được ra đời vào cuối năm 1948 khi nhà thơ chia tay với đơn vị cũ là đòan quân Tây Tiến .Có thể nói, Tây Tiến là một nỗi nhớ da diết của nhà thơ về một miền quê Tây Bắc và về người chiến sĩ Tây Tiến một thời “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.Đặc biệt là đọan thơ sau đây :

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

………

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.

là sự thể hiện nỗi nhớ của nhà thơ về con đường hành quân gian khổ của những người chiến sĩ Tây Tiến.

Tòan đọan có mười bốn câu, được viết theo thể thơ tự do.Mở đầu đọan thơ là hai câu thơ thể hiện một nỗi nhớ của Quang Dũng như bao trùm lên không gian tạo vật và con người Tây Tiến, Tây Bắc.Đó một nỗi nhớ da diết khôn nguôi về núi rừng, về dòng sông Mã anh hùng :

“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.”

Cách dùng cặp từ láy “chơi vơi” để diễn tả nỗi nhớ của Quang Dũng thật mới lạ,giàu sáng tạo.Bởi lẽ , thông thường ít ai lại nói như vậy.Nhưng đặt trong văn bản thơ tái hiện cảnh núi rừng hùng vĩ, dữ dội, gợi lại những kỷ niệm ấm áp

“một đi không trở lại” , nỗi nhớ thương như không bám riết vào đâu.Từ đó khái niệm “nhớ chơi vơi” tự nhiên có cơ sở và có sức sống của nó. Một nỗi nhớ không hình, không ảnh , không thể cân đong , đo đếm…nhưng lại da diết và sâu nặng đến vô cùng.Kết cấu câu cảm thán và điệp từ “nhớ” có tác dụng cộng hưởng, nhấn mạnh nỗi nhớ.Lời thơ như

(11)

lời mời gọi và khơi gợi biết bao hoài niệm của một thời đau thương nhưng anh dũng, gian khổ nhưng vĩ đại hào hùng.

Để rồi từ đó, nhà thơ để cho tình cảm của mình trở về với từng kỷ niệm cụ thể.

Trước hết là nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc gắn với các địa danh xa lạ : Sai Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu …làm cho người đọc thêm cái ấn tượng xa ngái, hoang sơ .Thêm vào đó, cách phối hợp thanh bằng, thanh trắc tạo âm hưởng lạ tai, mông lung, vừa tạo cảm giác âu u, kích thích hứng thú phiêu lưu mạo hiểm cho người đọc :

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống…”

Có thể nói : với tần số thanh trắc xuất hiện dày đặc trong các câu thơ trê, nhà thơ đã giúp cho người đọc cảm nhận một cách cụ thể về những con đường hành quân gian nan , hiểm trở,nhiều đèo nhiều dốc, gập gềnh, khúc khuỷu mà người lính Tây Tiến đã phải đi qua. Đặc biệt nghệ thuật đối ngữ, tương phản “ngàn thức lên cao >< ngàn thước xuống” càng gợi lên cảm giác hiểm trở rợn ngợp cả người về địc thế hiểm trở của một vùng đất Tây Bắc nổi tiếng là rừng thiêng , nước độc .Để rồi đi hết con đường ấy là một viễn cảnh hết sức lãng mạn với “ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ như một nét vẽ về hình ảnh của những ngôi nhà sàn ở Pha Luông như đang hiện lên mờ mờ trong sương , trong những làn mưa bụi thật đẹp . Đối lập với những câu thơ tòan thanh trắc ở trên, câu thơ này tòan là thanh bằng như trải ra , như chạy dài trong trí tưởng tượng về một khung cảnh thanh bình và thơ mộng . Đó chính là sự khám phá nghệ thuật độc đáo và rất đẹp của Quang Dũng.

Trên cái nền của thiên nhiên Tây Bắc hũng vĩ và dữ dội ấy, là hình của những người chiến sĩ Tây Tiến .Họ hiện lên thật oai phong lẫm liệt với hình ảnh “súng ngửi trời”.Một hình ảnh vừa gợi vẻ đẹp oai hùng vừa gợi chút tinh nghịch, nên thơ. Đặc biệt, trên con đường hành quân gia khổ ấy, đã không ít những người chiến sĩ trẻ đã nằm lại :

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Ở đây, Quang Dũng không hề nói đến từ “chết”, mà chỉ nói “không bước nữa”, “gục lên súng mũ bỏ quên đời”.Cách nói này làm cho sự hy sinh của người lính bi mà không lụy ; bi mà tráng, bi mà hùng.Từ đó, sự hy sinh của người lính mang vẻ mỹ học sâu sắc.

Đặc biệt ở cuối đọan thơ, nhà thơ bộc bạch nỗi nhớ Tây Tiến bằng hai câu : “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Hai câu thơ ngân lên như tiếng hát của một bài ca hoài niệm vừa ngọt ngào, vừa bâng khuâng, tha thiết.Hai tiếng

“nhờ ôi” không những thể hiện tình cảm thủy chung mà còn là niỗi nhớ cồn cào , nhớ mênh mang như một tiếng vang bật lên từ cõi nhớ.

Tóm lại, đây là một trong những đọan trích hay nhất của bài thơ Tây Tiến.Đọan thơ có sự kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng -mạn. Nhiều câu thơ có sự phối hợp điêu luyện các kỹ thuật tạo hình , hội họa, điện ảnh, điêu khắc và gần gũi với âm nhạc truyền thống.Phải là một cây bút tài hoa mới có được những vần thơ nghệ thuật đến như vậy.Qua đọan thơ, Quang Dũng đã giúp ta có dịp cảm nhận được vẻ độc đáo của nùi rừng Tây Bắc, cảm nhận sâu sắc về sự gian khổ và vẻ đẹp hào hùng của đòan quân Tây Tiến trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp .Từ đó để lại trong ta những tình cảm yêu kính và ngưỡng mộ với thế hệ cha anh đi trước.

Đề 4: Anh /chị hãy bình giảng đọan thơ sau đây trong bài thơ “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng.

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.

---

* Hướng dẫn làm bài :

- Phần mở bài cần giới thiệu ngắn gọn về nhà thơ Quang Dũng, hòan cảnh sáng tác và cảm xúc chủ đạo của bài thơ Tây Tiến ; nêu được vị trí và nội dung của 4 câu thơ

- Phần thân bài, cần làm rõ các ý :

1. Bên cạnh nét đẹp của núi rừng biên giới là cảnh sông núi miền Tây mênh mang, mờ ảo, thơ mộng.

2.Thiên nhiên Châu Mộc qua vài nét chấm phá của Quang Dũng hiện lên có hồn và tình tứ như con người.

3. Thi nhân không dùng bút pháp tả mà chỉ dùng bút pháp gợi để toát lên cái hồn của tạo vật.

4. Như hòa hợp với con người, những bông hoa rừng cũng đong đưa là duyên trên dòng nước lũ, thật đẹp và thơ mộng.

- Phần kết bài : đánh giá nét độc đáo và đặc sắc về vẻ đẹp của đọan thơ.

*Bài tham khảo :

(12)

Quang Dũng là một nghệ sĩ tài năng : làm thơ, viết văn, vẽ tranh và sọan nhạc.Dù ở thể lọai nào, ông đều có những đóng góp đáng kể.Tây Tiến là một trong những bài thơ tài hoa của ông.Bài thơ được ra đời vào cuối năm 1948 khi nhà thơ chia tay với đơn vị cũ là đòan quân Tây Tiến .Có thể nói, Tây Tiến là một nỗi nhớ da diết của nhà thơ về một miền quê Tây Bắc và về người chiến sĩ Tây Tiến một thời “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.Đọan thơ sau đây :

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.

Là một trong những đọan thơ trong Tây Tiến thể hiện cung bậc về nỗi nhớ của nhà thơ về Tây Bắc gắn với kỷ niệm khó quên về một vùng quê Châu Mộc đầy thơ mộng và sương khói.

Thật vậy, sau cảm hứng bi tráng về cuộc hành trình đầy gian nan , vất vả nhưng cũng rất đỗi tự hào của các chiến binh Tây Tiến, bài thơ khơi gợi những kỷ niệm tha thiết yêu thương , tươi đẹp của một thời nhà thơ từng gắn bó với đòan quân Tây Tiến.Bên cạnh nét đẹp của núi rừng biên giới với vẻ e ấp của các cô gái trong xiêm áo rực rỡ của những đêm hội đuốc hoa tưng bừng là cảnh sông núi miền Tây Bắc mênh mang, mờ ảo và thơ mộng.Không gian dòng sông trong buổi chiều sương ở Châu Mộc thật lặng lẽ , hoang dại, đậm màu sắc cổ tích và huyền thoại:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”

Ở đây, hình ảnh những hoa lau phất phơ dọc theo triền núi, dọc bờ Châu Mộc như có hồn phảng phất trong gió, như quyến luyến, tiễn đưa. Câu thơ mang đậm tâm hồn của một người nghệ sĩ tài hoa Quan Dũng.

Đặc biệt, nét độc đáo trong nghệ thuật biểu đạt của nhà thơ là cách thi nhân không tả mà chỉ gợi. Cái “dáng người trên độc mộc” cũng là gợi nhưng vẫn làm rõ cái dịu dàng , uyển chuyển, xinh xắn của những cô gái trên chiếc thuyền độc mộc lao nhanh trên dòng nước lũ đang chảy xiết :

“Có nhớ dáng người trên độc mộc”

Như hòa hợp vời con người, những bông hoa rừng cũng “đong đưa” làm duyên trên dòng nức lũ.Hoa “đong đưa” chứ không phải là “đung đưa”. “Đong đưa” la đưa qua đảo lại.Còn “đung đưa” là chao đi chao lại một cách nhẹ nhàng trong khỏang không.Đây là bút pháp vửa tả thực vừa tả tình lãng mạn : nước lũ chảy xiết làm cho những bông hoa bên mép suối đung đưa, nhưng thi nhân nhìn thành “đong đưa” như những điệu múa mềm mại của những cô gái đẹp, tài hoa, tình tứ.

Tóm lại, bốn câu thơ thật đẹp, thật đặc sắc.Nó như một bức tranh thủy mặc với những nét chấm phá tinh tế , mềm mại, sâu lắng.Từ đó nhà thơ như truyền cía sắc hồn của con người vào cảnh vật. Phải là một nhà thơ của “Tây Tiến”

mới sáng tạo được những vần thơ tài hoa đến như thế!

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Cây sống trong những môi trường đặc biệt: Sống trong các môi trường khác nhau, trải qua quá trình lâu dài, cây xanh đã hình thành một số đặc điểm thích

Đoạn văn này thấm đậm cảm xúc của tác giả, bộc lộ rõ sự tinh tế và thiên về cảm giác của Thạch Lam, dùng từ có chọn lọc(1 loạt tính từ gợi tả), câu văn có nhịp điệu

Đó là những cành hoa bằng lăng đậm sắc với những cánh hoa màu tím thẫm; là cái bờ đất lở dốc đứng, có chuyến đò ngang chạy qua mỗi ngày; là cái bãi bồi màu mỡ, tươi

- Từ việc khám phá những trạng thái khác nhau của sóng, tác giả diễn tả các cung bậc tình cảm của người phụ nữ đang yêu và thể hiện một quan niệm mới về. tình yêu –

- Điêu khắc trang trí và đồ gốm phát huy được tính nghệ thuật Điêu khắc trang trí và đồ gốm phát huy được tính nghệ thuật truyền thống, kết hợp tinh hoa nghệ thuật

 Phản ánh đời sống một cách toàn vẹn, sinh động, khám phá số phận cá nhân, sử dụng sinh hoạt hư cấu, điển hình đóa, tổng hợp thủ pháp của các thể loại văn học,

Hoa sen trên nước Hoa dừa trên mây Đất nước em đây Bốn mùa hoa thắm Bài 3: Xếp các từ ngữ dưới đây vào chỗ trống thích hợp trong bảng:.. đường phố, đại lộ, mái đình,

Cảm nhận của anh/chị về bức tranh thiên nhiên và tâm tình người lính qua đoạn trích từ bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng:.. Sông Mã xa rồi Tây