• Không có kết quả nào được tìm thấy

Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu

Trong tài liệu BỆNH ÁN NGHIÊN CỨU (Trang 100-104)

Chương 4: BÀN LUẬN

4.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu

Chương 4

với các loại mạt nhà chiếm tỷ lệ cao nhất, trong đó D.pter gặp ở 66,5%; D.far gặp ở 63,2%; ngoài ra dị nguyên gián chiếm 20%; lông chó là 11,6%; lông mèo là 14,8%. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu Elham trên 100 trẻ hen từ 1-7 tuổi, tỷ lệ dị ứng với D.pter và D.far cao hơn so với các loại mạt nhà khác như Lepidoglyphus destructor, Tyrophagus putrescentiae, và Acarus [78].

Theo nghiên cứu của Li trên 6304 bệnh nhân hen Trung Quốc thì những bệnh nhân hen mức độ trung bình và nặng có tăng kích thước nốt sẩn với D.pter và D.far khi làm test lẩy da. Đây là hai dị nguyên chính có liên quan đến mức độ nặng của hen. Tăng số lượng dị nguyên mẫn cảm ở bệnh nhân hen làm tăng mức độ nặng của bệnh hen [79].

Nồng độ IgE máu trung bình của nhóm trẻ hen là 757 (14,15-6217) IU/ml, cao hơn rất nhiều so với trẻ không có cơ địa dị ứng. Như vậy các trẻ hen trong nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu là trẻ hen có cơ địa dị ứng, đây là yếu tố quan trọng giúp bác sỹ phân loại kiểu hình hen dị ứng, giúp đánh giá tiên lượng đáp ứng với điều trị bằng corticosteroid.

Tình trạng phơi nhiễm khói thuốc lá (ETS)

Khói thuốc lá là một trong những tác nhân có ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người, là nguyên nhân gây ra các bệnh lý đường hô hấp mạn tính, bệnh lý tim mạch, ung thư…, là nguy cơ gây tử vong đặc biệt ở trẻ em. Theo WHO ước tính có khoảng 175 triệu người trên toàn thế giới tử vong do khói thuốc lá tình từ nay cho đến năm 2030 [80]. Khói thuốc lá cũng là một trong nhiều nguyên nhân gây ảnh hưởng đến khởi phát hen và kiểm soát hen. Trong nghiên cứu của chúng tôi, số trẻ hen có phơi nhiễm thuốc lá từ bố, ông và người thân trong gia đình chiếm tỷ lệ là 50,3%; phơi nhiễm khói thuốc lá trong nhà chiếm 30,3%. Hasim Boyaci nghiên cứu tình trạng phơi nhiễm khói thuốc lá trên 188 trẻ em trong lứa tuổi học đường thấy rằng tỷ lệ phơi nhiễm khói thuốc lá là 72,3%; trong đó số trẻ phơi

nhiễm khói thuốc hàng ngày chiếm 34,6% [81]. Phơi nhiễm khói thuốc lá ở trẻ em, nhất là trẻ HPQ dẫn đến tình trạng cơn hen nặng, dai dẳng và khó kiểm soát [82]. Hút thuốc lá cả chủ động và bị động đều dẫn tới kiểu hình hen không tăng bạch cầu ái toan, tiên lượng kém đáp ứng với điều trị bằng corticosteroid. Với kết quả nghiên cứu trên 50% trẻ HPQ có phơi nhiễm với khói thuốc lá, đây là con số cần được cảnh báo các bậc cha mẹ về thói quen hút thuốc lá khi có trẻ em, nhất là trẻ HPQ.

Chỉ số khối cơ thể (BMI) theo tuổi

Tình trạng thừa cân béo phì được xem là một yếu tố nguy cơ của hen phế quản. Theo WHO, tần suất người thừa cân béo phì trên toàn thế giới tăng gấp đôi vào năm 2008 so với năm 1980 và số người mắc hen cũng tăng nhanh trong những thập niên gần đây. Các nghiên cứu chỉ ra rằng có mối tương quan giữa chỉ số BMI với tiến triển của HPQ. Béo phì gây giảm sự đàn hồi của phổi, giảm thể tích phổi, làm tăng nồng độ hormone tại các mô mỡ là các tiền chất của quá trình viêm dẫn đến thúc đẩy quá trình viêm tại đường thở [83].

Béo phì là một trong các nguyên nhân dẫn đến kiểm soát hen kém hơn so với những trẻ hen có cân nặng bình thường. Béo phì có liên quan đến sự tăng mức độ nặng của bệnh hen [84]. Béo phì gặp ở kiểu hình hen không dị ứng nhiều hơn so với kiểu hình hen dị ứng [85].

Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ trẻ thừa cân béo phì chiếm 24,8%.

Trong số 27 trẻ hen thừa cân béo phì, hen mức độ trung bình chiếm 44,4%;

hen mức độ nặng chiếm 11,1%. Như vậy trên 50% trẻ hen thừa cân béo phì biểu hiện mức độ hen trung bình và nặng. Năm 2015, trung tâm dự phòng và kiểm soát bệnh của Hoa Kỳ đã công bố béo phì là một yếu tố nguy cơ của bệnh HPQ ở trẻ hen [86]. Hen ở trẻ béo phì là một kiểu hình hen khó kiểm soát, mức độ hen nặng và thường đáp ứng kém với điều trị ICS. Do vậy chiều

cao và cân nặng và chỉ số khối được xem một yếu tố quan trọng trong đánh giá, phân loại kiểu hình của trẻ hen phế quản.

Tuổi khởi phát hen

Tuổi khởi phát hen khác nhau ở từng cá thể mắc hen, đây là một đặc điểm lâm sàng giúp phân loại kiểu hình hen. Trong nghiên cứu của chúng tôi, số trẻ hen khởi phát sớm trước 5 tuổi là 54,2%, khởi phát muộn sau 5 tuổi là 45,8%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với Lê Thị Hồng Hanh với tuổi khởi phát hen của trẻ trước 5 tuổi chiếm tỷ lệ 59% [87]. Hen là bệnh hình thành do có sự tương tác qua lại giữa cơ địa dị ứng và yếu tố môi trường. Hen khởi phát sớm thường liên quan đến tiền sử gia đình, bản thân mắc các bệnh dị ứng trong khi hen khởi phát muộn thường liên quan nhiều đến yếu tố môi trường như khói thuốc lá, ô nhiễm môi trường hay thay đổi cảm xúc, biến đổi nội tiết. Tuổi khởi phát hen cũng giúp phân loại kiểu hình hen cũng như tiên lượng tiến triển của bệnh.

Đặc điểm chức năng hô hấp

Phế dung ký là một phương pháp dùng để đánh giá chức năng hô hấp được sử dụng phổ biến trong chẩn đoán và theo dõi điều trị bệnh lý hô hấp ở người lớn và trẻ em. Phế dung ký giúp chẩn đoán hen với độ đặc hiệu là 100% thông qua chỉ số FEV1, FEV1/FVC và giúp phân loại được mức độ nặng của bệnh hen [7], [88]. Trẻ HPQ có chức năng hô hấp thấp hơn so với trẻ khỏe mạnh.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, giá trị trung bình của FEV1 nhóm trẻ hen nhẹ là 93±8 (%giá trị dự đoán); hen mức độ trung bình là 85±14 (% giá trị dự đoán ) và hen mức độ nặng là 66±24 (% giá trị dự đoán). Giá trị FEV1 ở nhóm hen nặng thấp hơn so với nhóm hen nhẹ dai dẳng và hen mức độ trung bình có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Giá trị FEF25-75 đánh giá mức độ tắc nghẽn đường thở tại các đường thở xa, ở nhóm hen nhẹ dai dẳng là

78±17(% giá trị dự đoán); nhóm hen trung bình là 69±21(%giá trị dự đoán) và nhóm hen nặng là 50±28(%giá trị dự đoán); FEF25-75 ở nhóm hen nặng thấp hơn hai nhóm còn lại có ý nghĩa thống kê với p <0,05.

Stout tiến hành nghiên cứu trên nhóm trẻ hen từ 8-11 tuổi sống trong thành phố ở hai giai đoạn là từ 1992-1994 (cohort 1) và từ 1998-2001 (cohort 2). Với những trẻ được chẩn đoán hen nhẹ ngắt quãng dựa vào lâm sàng, sau khi đo hô hấp ký để phân mức độ nặng của hen thì có 22,8% trẻ trong cohort 1 và 27,7% trẻ trong cohort 2 được chẩn đoán hen mức độ trung bình và nặng [89]. Như vậy hô hấp ký có vai trò phân mức độ nặng của hen ở trẻ trên 5 tuổi chính xác hơn, khách quan hơn so với hỏi bệnh và thăm khám lâm sàng.

Trong tài liệu BỆNH ÁN NGHIÊN CỨU (Trang 100-104)