• Không có kết quả nào được tìm thấy

Xu hướng phát triển của E-learning trong giáo dục mở và đào tạo từ xa

KHUNG TIẾP CẬN DỰA TRÊN PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN TOÀN DIỆN

2. Xu hướng phát triển của E-learning trong giáo dục mở và đào tạo từ xa

Giáo dục luôn là vấn đề trọng tâm trong sự phát triển của xã hội loài người. Đa dạng hoá các loại hình giáo dục được đánh dấu từ sự xuất hiện của loại hình đào tạo từ xa từ thế kỷ thứ 18 bằng hình thức thư tín vào năm 1728 khi Giáo sư Caleb Philipps lần đầu tiên đã đưa ra tài liệu và hướng dẫn học tập trên một trang quảng cáo của tờ Boston Gazette (Lorenzo García retio, 2001). Tuy nhiên, các bằng chứng khác cũng cho rằng một khóa học tương ứng như vậy cũng được tổ chức ở nh vào năm 1840 khi Isaac Pitman bắt đầu một khóa học ngắn hạn. Như vậy, từ những giai đoạn đầu, các việc giảng dạy từ xa bằng thư tín đã xuất hiện tại Hoa ỳ và các nước châu Âu khác. Vào những năm 1960, khi Đại học Mở ở nh được thành lập ( retio, 2001 trích dẫn bởi lcalá). và chuyển các tài liệu in đã được chuyển sang audiotapes, băng video, và truyền tải chúng đến người học thông qua đài phát thanh, truyền hình phát sóng, điện thoại. Từ những năm 1980, sự xuất hiện của viễn thông hiện đại đã mở ra bối cảnh mới cho giáo dục từ xa. Đó chính là thời đại sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào học trực tuyến với lớp học ảo, giảng dạy ảo, mô hình học linh hoạt theo xu hướng tương tác hai chiều. Đặc biệt trong bối cảnh sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và truyền thông cũng như nhu cầu của giáo dục ngày càng tăng, E-Learning đã trở thành chủ đề nóng trong giai đoạn từ những năm 1990 cho đến nay.

Sự phát triển của E-Learning

E-Learning được hiểu và định nghĩa theo nhiều góc độ khác nhau tuỳ vào góc độ, mục tiêu và đối tượng tiếp cận. Dưới góc độ phương pháp học tập, theo báo cáo E-Content (2004), E-Learning “là một thuật ngữ bao quát mô tả bất kỳ kiểu học tập nào phụ thuộc hoặc tăng cường bằng giao tiếp điện tử sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông mới nhất (ICT)”. Nó cũng được định nghĩa là “thuật ngữ chung bao gồm một loạt các ứng dụng và quy trình dựa trên công nghệ ICT, bao gồm học tập dựa trên máy tính, học trên web, lớp học ảo, cộng tác kỹ thuật số và kết nối mạng” (Hambrecht, 2000;

Kaplan-Leiserso’s online glossary), hoặc E-Learning là cách thức học mới qua mạng Internet, qua đó học viên có thể học mọi lúc, mọi nơi, học theo sở thích và học suốt đời (EDUSOFT LTD.). Dưới góc độ kỹ thuật, có một số tiếp cận đơn giản cho rằng E-learning là việc dạy và học được số hoá (Rosenberg, 200; Govindasamy, 2002; Garrison

& nderson, 2003). Dưới góc độ người học, eEurope cho rằng E-Learning là quá trình người học sử dụng các công nghệ đa phương tiện hiện đại và Internet, nhằm cải thiện chất lượng học tập bằng cách truy cập vào các nguồn lực và dịch vụ, cộng tác và trao đổi từ xa. Dưới góc độ nhà cung cấp dịch vụ, hối Thịnh Vượng Chung (The Commonwealth) năm 1998 đã mô tả E-Learning là việc các cơ sở giáo dục ứng dụng

công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) vào các chức năng chính của mình như quản lý, phát triển và phân phối tài liệu, học phí và cung cấp dịch vụ học viên chẳng hạn như tư vấn, đánh giá học tập trước và lập kế hoạch chương trình. Dưới góc độ mục tiêu, “việc sử dụng công nghệ để tạo ra và đưa các dữ liệu có giá trị, thông tin, học tập và kiến thức với mục đích nâng cao hoạt động của tổ chức và phát triển khả năng cá nhân” (Lance Dublin).

Quá trình phát triển chính của E-learning luôn gắn với sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông. hi công nghệ Web 2.0 ra đời và phát triển, các hệ thống E-learning cũng đi theo xu hướng với việc thêm các tính năng như diễn đàn (forum), chat, hay các hệ thống quản lý học viên (LMS – Learning Management System). Theo đó, nội dung và cách phân phối các nguồn tài nguyên học tập cũng dần trở nên đa dạng hơn thông qua các platform như YouTube, Facebook, iTunes, và webcast của các trường giúp tăng cường tính khả dung cho những video bài giảng được ghi lại từ các lớp học truyền thống cho đến các nguồn tài nguyên cho phép người dùng tải về.

Thực tiễn cho thấy phương thức đào tạo và học tập trực tuyến có nhiều lợi ích như khả năng truy cập nội dung học tập từ một nơi ở xa và có thể phân phối cho nhiều nơi khác nhau cùng một thời điểm bằng nhiều công cụ và nền tảng khác nhau. Nội dung và phương pháp đào tạo có thể được thiết kế phù hợp với từng tình huống và từng cá nhân cụ thể. Một nội dung học tập được tạo ra có thể được sử dụng ở nhiều ứng dụng khác nhau và có thể sử dụng lại khi công nghệ thay đổi (nếu phát triển mang tính kế thừa). Bên cạnh đó, phương thức này còn giúp tăng hiệu quả học tập rõ rệt trong khi giảm thời gian và chi phí (Wayne Hodgins, 2000). Những lợi ích này là rất phù hợp và cung cấp những tiềm năng rất lớn cho loại hình giáo dục mở và đào tạo từ xa thông qua phương thức trực tuyến.

Đào tạo trực tuyến mở dành cho đại chúng (MOOC)

Hình 1. Tiến trình phát triển của MOOCs trong giáo dục mở và đào tạo từ xa

Nguồn: Li Yuan và Stephen Powell, 2015

Trải qua hơn một thập kỷ, E-learning đã dần trở nên phổ biến trong cung cấp các khóa học trực tuyến cho một lượng khán giả nhỏ và hạn chế. Dựa trên các nền tảng E-learning đã có, những mô hình mới bắt đầu xuất hiện. Năm 2011, Đại học Stanford cung cấp ba khóa học miễn phí cho công chúng với khóa học về trí tuệ nhân tạo, mỗi lần đăng ký thu hút khoảng 100.000 học viên trở lên. Sự ra mắt của ba khóa học này, được giảng dạy bởi ndrew Ng, Peter Norvig, Sebastian Thrun và Jennifer Widom, được cho là đã đánh dấu sự khởi đầu của M C (Massive pen nline Course) như một xu hướng mới trong đào tạo từ xa. Sau đó, mô hình này bùng nổ thành một trào lưu từ năm 2012 khi mà các platform lớn như Udacity, Coursera, ed hay FutureLearn được giới thiệu. Các tính năng như quản lý tiến độ khóa học, đánh giá hay quản lý việc cấp chứng chỉ cũng được phát triển tốt hơn để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cao của người học. Hiện tại, một số khoá học trên các platform này đã cho phép đổi ra tín chỉ tương đương với các khoá học truyền thống ở một số trường Đại học.

Chia sẻ các giá trị của đào tạo từ xa, các khóa học M Cs được triển khai và cung cấp qua Internet được kỳ vọng sẽ mở ra một cuộc cách mạng mới cho giáo dục mở và đào tạo từ xa. Một trong những yếu tố tạo nên sự khác biệt của M Cs so với các khóa đào tạo từ xa truyền thống là số lượng người đăng kí có thể lên đến hàng ngàn người học và thường không giới hạn hay ràng buộc về điều kiện tham dự cũng như phí đăng kí. Bên cạnh việc cung cấp kiến thức đến cho học viên, cac platform này thường có điểm chung là tranh thủ sự hỗ trợ và hợp tác từ các trường đại học cũng như giới học thuật, nhiều hoạt động hợp tác từ các platform này với các đối tác từ các trường Đại học cho đến các công ty, tổ chức lớn. Sự hợp tác này nhằm tối ưu hoá mô hình M Cs thông qua việc tiếp cận nhiều sinh viên hơn cũng như cắt giảm chi phí đào tạo. Việc áp dụng mô hình này cũng

cho thấy với chi phí đào tạo dựa trên M Cs thấp hơn đáng kể so với các chương trình đào tạo từ xa truyền thống.

Bảng 1. So sánh phương thức đào tạo từ xa trực tuyến và MOOCs

Đào tạo trực tuyến MOOCs

Chi phí Học phí theo tính chỉ tương tự phương pháp học trực tiếp trên lớp

Một số platform miễn phí (đến thời điểm hiện tại)

Chứng chỉ Tín chỉ cho chương trình đào tạo cử nhân (có thể hoặc không công nhận là một phần của chương trình học

Giấy chứng nhận hoàn thành khoá học

Tỉ lệ hoàn thành Tương tự với tỉ lệ của phương

pháp học trực tiếp trên lớp Rất thấp

Quy mô khoá học Nhỏ - khoảng 20 người Lớn (từ 100 - hơn 100,000 người)

Người cung cấp Các trường đại học (phi lợi

nhuận hoặc vì lợi nhuận) Nhà cung cấp tư như Coursera, Udacity, ect.)

Tương tác với người hướng dẫn

Tương tác qua các cuộc thảo luận, giờ làm việc, email, hội thảo trên web, phản hồi bài tập

Rất ít tương tác với người hướng dẫn

Tương tác với các sinh viên khác

Đa dạng (nhóm làm việc, thảo luận, đồng đánh giá)

Đa đạng (đồng đánh giá, thảo luận và mạng xã hội)

Đánh giá điểm Tiêu chuẩn điểm số Giấy chứng nhận hoàn thành Thời gian khoá

học

Học kỳ hoặc quý như phương pháp học trực tiếp trên lớp

Linh động (từ 3 đến 6 tuần)

Nguồn: tác giả tổng hợp dựa trên các nghiên cứu của Jansen và ctg (2015); Bonk và ctg (2015).

Ứng dụng E-learning cho loại hình giáo dục mở và từ xa sẽ dừng lại ở MOOCs?

Hầu hết các platform lớn về M Cs như Coursera, Udacity và ed , sau thành công bước đầu, họ điều phát triển tầm nhìn và chiến lược ở các giai đoạn tiếp theo để có thể mở rộng và học tập kết hợp (blended learning) giữa các hoạt động trực tuyến và việc giảng dạy truyền thống trong khuôn khổ các trường. Tuỳ vào những đặc trưng quốc gia, nhiều nước cũng đã vận dung tinh thần và cơ chế hoạt động của M C vào điều kiện cụ thể của nước mình. Sau khi đưa platform M C vào sử dụng, Trung Quốc đã có chiến lược phát triển xa hơn cho mô hình này với phương thức “tích hợp và cải tiến” để sử dụng công nghệ mới khắc phục những khuyết điểm của M C trong hoạt động gắn lý thuyết và thực hành (Liu & hang, 2018). Hiện nay, đã bắt đầu có những sáng kiến về những mô hình mới như việc chuyển từ M Cs sang M ITs (Massive daptive Interactive Text). Những điều này cho thấy rằng mô hình M Cs vẫn đang không ngừng hoàn thiện và phát triển nhằm phù hợp với các điều kiện cụ thể.

Tuy nhiên, mô hình M C cũng bắt đầu cho thấy những bất cập của nó. Mặt dù nhiều tổ chức vẫn cho rằng M C là một cách rẻ tiền để làm giáo dục ở quy mô lớn.

Tuy nhiên, nếu các khoá học không đạt được quy mô như mong muốn, thì chi phí đầu tư và duy trì hệ thống này là đáng kể. Theo thống kê năm 2013, chỉ có 10% số người đăng

ký ban đầu hoàn thành các khoá học của Udacity. Đến năm 2015, một số dự án M Cs thậm chí đã bị “khai tử”. Điều này cho thấy rằng xu hướng phát triển của E-learning là khó dự đoán trong bối cảnh công nghệ thông tin lẫn công nghệ giáo dục biến đổi liên tục.

Điều này tạo ra những rào cản trong việc xã hội hoá, tư nhân hoá mô hình giáo dục này.

Do vậy, để có thể phát huy những lợi ích quan trọng của các mô hình e-learning mới trong việc tiếp cận số lượng lớn người dân đang sống ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa thì rõ ràng rất cần sự can thiệp và hỗ trợ từ nhà nước.

3. Các vấn đề trong phát triển giáo dục mở và từ xa trực tuyến ở Việt Nam hiện nay

Đề cương

Tài liệu liên quan