• Không có kết quả nào được tìm thấy

CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN

4.1 Thực trạng đào tạo bác sĩ đa khoa 4 năm

4.1.1 Tuyển chọn

CHƯƠNG 4

Khác với các nước nói trên, phạm vi tuổi nhập học chương trình bác sĩ đa khoa 4 năm ở Việt Nam tuyển sinh đối tượng có độ tuổi biến thiên khá rộng.

Điều này cần được lưu ý trong việc quy định cách thức tuyển sinh và tổ chức đào tạo bởi sự khác biệt khác lớn về năng lực và kinh nghiệm. Chẳng hạn, ở độ tuổi 30-40 tuổi phải làm những bài thi kiến thức trung học phổ thông như môn toán, môn sinh học, môn hóa học thì không phù hợp và thiếu khả năng cạnh tranh đối với những người vừa mới tốt nghiệp trung học phổ thông. Do vậy trong công tác tuyển sinh cũng nên chú ý đặc điểm này để mà có phương pháp lựa chọn sinh viên thích hợp.

Trên thế giới có khá nhiều cách thức tuyển chọn. Tại Mỹ, sinh viên được tuyển chọn vào các trường y hầu hết đã tốt nghiệp của trường đại học, đề thi tuyển chọn sinh viên y khoa (MCAT) không chú trọng đánh giá kiến thức của giáo dục phổ thông mà tập trung vào năng lực cần thiết để có thể học trường y mà sinh viên đã được chuẩn bị ở bậc học trước. Một bài thi MCAT, tuyển chọn sinh viên và học các trường y khoa của hoa kỳ bao gồm 4 phần.

Thứ nhất, các câu hỏi cơ bản về sinh học và hóa sinh của cơ thể sống. Phần này kiểm tra các kiến thức về sinh học và hóa sinh, đồng thời đòi hỏi thí sinh hiểu biết về hóa học vô cơ và hóa hữu cơ. Thí sinh phải trả lời các câu hỏi về chức năng của các phân tử sinh học, những quá trình xảy ra trong một cơ thể sống và tổ chức hệ thống các cơ quan trong một hệ thống sinh học. Thứ hai, các câu hỏi về vật lý và hóa học cơ bản của hệ thống sinh học. Phần này kiểm tra kiến thức về hóa học và vật lý trong phạm vi của cơ thể sống, đòi hỏi thí sinh và hiểu biết về hoá học, vật lý hữu cơ và vô cơ cũng như kiến thức về sinh học và hóa sinh. Đặc biệt, phần này tập trung cao vào các nguyên tắc vật lý nằm trong các quá trình sinh học và tương tác hóa học hình thành nên cơ sở hiểu biết rộng hơn về hệ thống sinh học đồng thời thí sinh cũng phải nắm được các phương pháp nghiên cứu và thống kê để trả lời được các câu hỏi.

Thứ ba, các câu hỏi về các chức năng sinh học, xã hội và tâm lý học của hành vi. Phần này kiểm tra năng lực của thí sinh thể hiện những hiểu biết của mình về xã hội học và tâm lý học liên quan đến hành vi cũng như là các yếu tố văn hóa xã hội ảnh hưởng đến sức khỏe. Đặc biệt, bài thi kiểm tra về hành vi, sự thay đổi hành vi, nhận thức về mình và về người khác, sự khác biệt về văn hóa và xã hội có tác động đến sức khỏe và sự phân tầng xã hội. Thứ tư, các câu hỏi về kỹ năng đọc và phân tích. Phần này kiểm tra thí sinh về năng lực hiểu biết và suy diễn thông qua các bài đọc hiểu kèm theo những câu hỏi bao quát các chủ đề từ khoa học xã hội đến nhân văn. Thứ năm, các câu hỏi về kỹ năng lý luận và nghiên cứu khoa học. Phần này yêu cầu các thí sinh phải thể hiện được 4 kỹ năng quan trọng của lý luận và nghiên cứu khoa học bao gồm hiểu biết về các nguyên lý và khái niệm khoa học, lý luận về khoa học và giải quyết vấn đề, lý luận về việc thiết kế và thực hiện các nghiên cứu, và kỹ năng lý luận về thống kê và cơ sở dữ liệu.

Ở Anh, sinh viên vào y khoa có thể lựa chọn những cách thi khác nhau, trong đó có thi UKCAT. UKCAT đánh giá ứng viên dựa vào 4 tiêu chí. Thứ nhất, đánh giá về năng lực ngôn ngữ, đánh giá năng lực của các thí sinh về cách tư duy lôgic đối với những thông tin được viết và đi đến những kết luận có tính logic. Thứ hai, đánh giá về năng lực ra quyết định, phần này đánh giá thí sinh áp dụng logic để ra quyết định, đánh giá về những ý kiến tranh luận và phân tích các thông tin thống kê. Thứ ba, đánh giá về tư duy lượng hóa, phần này đánh giá thí sinh về khả năng giải quyết những bài toán số. Thứ tư, đánh giá khả năng tóm tắt, thí sinh được đánh giá về suy diễn mối liên quan từ những thông tin cho trước.

So sánh với hình thức thi tuyển sinh viên y khoa nói chung và sinh viên bác sĩ đa khoa 4 năm nói riêng chúng ta thấy có sự khác biệt rất lớn với cách tuyển sinh viên y khoa của Mỹ và Anh. Cách tuyển chọn của Việt Nam tập

trung khá nhiều vào các kỹ năng đề toán hóa học hoặc sinh học cơ bản ở chương trình phổ thông mà chưa đánh giá những kỹ năng cần thiết có trước để học chương trình y khoa ngoại trừ thi tuyển bác sĩ đa khoa 4 năm có phần thi đánh giá năng lực chuyên môn, song phần này lại tập trung khá nhiều vào kiến thức của học phần lâm sàng. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có nghiên cứu nào chứng minh tính ưu việt của mỗi hình thức lựa chọn sinh viên y khoa song có một điểm dễ dàng nhận ra rằng việc tuyển chọn sinh viên y khoa ở hầu hết các nước đều dựa trên việc đánh giá lực cốt lõi cần có phục vụ học y khoa làm tiền đề cho việc học tập và hành nghề y sau này.

Về kinh nghiệm công tác trước khi đi học, trung bình trước khi đi học bác sĩ đa khoa 4 năm cán bộ y tế phải có kinh nghiệm khoảng 3 năm như yêu cầu trước đây hoặc tối thiểu 2 năm như yêu cầu hiện nay. Với thời gian công tác trung bình trước khi nhập học 77 tháng, tương ứng với hơn 7 năm với độ lệch chuẩn khá lớn, cho thấy kinh nghiệm công tác cũng rất khác nhau giữa các đối tượng cùng và học chương trình bác sĩ đa khoa 4 năm. Với đặc điểm như vậy thì một vấn đề đặt ra là làm sao có được chương trình phù hợp với mọi đối tượng, từ những đối tượng ít kinh nghiệm, ít tuổi đến những đối tượng có nhiều năm kinh nghiệm, thậm chí kinh nghiệm chuyên môn chuyên khoa sâu và cao tuổi đòi hỏi phải có những chương trình đào tạo thích hợp.

Về vấn đề này, Bộ Giáo dục và Đào tạo khuyến khích các trường đào tạo theo tín chỉ và có các cấu phần lựa chọn để các sinh viên có thể tự thiết kế và học theo nhu cầu của mình. Tuy nhiên, trên thực tế thì khả năng đáp ứng của các trường với nhu cầu của từng người học rất khó khăn. Do đó nhu cầu của người học chưa hoàn toàn được đáp ứng theo phương châm lấy học sinh sinh viên làm trung tâm [104].

Không có sự khác biệt đáng kể về tuổi trung bình nhập học của sinh viên giữa nam và nữ, giữa người Kinh và người DTIN cho thấy sự bình đẳng giữa nam và nữ, giữa người Kinh và người DTIN trong đào tạo cán bộ y tế.

Về đối tượng dự tuyển bác sĩ liên thông là y sĩ, hiện nay có một số vấn đề đang được bài luận. Một vấn đề thường được đặt ra đó là chất lượng đào tạo y sĩ có đảm bảo để tiếp tục đào tạo theo chương trình bác sĩ 4 năm hay không. Chương trình đào tạo y sĩ có nhiều thay đổi trong vài thập niên qua.

Trước đây chương trình y sĩ từng được đào tạo với thời gian 3 năm ở trình độ trung cấp. Luật Giáo dục năm 1998 đã quy định lại thời gian đào tạo trình độ trung cấp không quá 2 năm cho người đã tốt nghiệp trung học phổ thông. Do vậy, từ năm 2000 trở lại đây, y sĩ được đào tạo trong các trường trung cấp chuyên nghiệp với thời gian không quá 2 năm. Với thời gian như vậy và khối lượng kiến thức lý thuyết cũng như thực hành đối với người hành nghề y làm nhiệm vụ khám bệnh, chữa bệnh tương đối lớn so với các ngành khác và phải bao gồm những học phần giáo dục bắt buộc vốn chiếm tỷ trọng thời gian khá dài nên ảnh hưởng khá nhiều đến chất lượng chuyên môn của y sĩ. Trong một số giai đoạn nhất định, để đảm bảo những yêu cầu cấp bách về nhân lực khám chữa bệnh y học cổ truyền và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, đặc biệt ở tuyến cơ sở và vùng khó khăn, chương trình đào tạo y sĩ được phân khoa ngành y sĩ đông y và y sĩ sản nhi. Với đối tượng y sĩ chuyên khoa được đào tạo trong thời gian ngắn như vậy sẽ không đảm bảo cho người học có đủ kiến thức và kỹ năng của y học cơ bản phổ quát. Quy chế đào tạo liên thông trong hệ thống giáo dục có quy định liên thông từ bậc trình độ dưới lên bậc trên liền kề. Tuy nhiên, đối với lĩnh vực y học hiện tại có chương trình y sĩ thuộc trình độ trung cấp, không có chương trình ở trình độ cao đẳng, do vậy học liên thông từ y sĩ trung cấp lên bác sĩ 4 năm ở trình độ đại học là một giải pháp ngoại lệ trong quy chế đào tạo liên thông. Chính vì thế, có nhiều ý kiến băn

khoăn thời gian đào tạo y sĩ ngắn không đủ kiến thức cơ bản để tiếp tục đào tạo 4 năm trở thành bác sĩ. Trong nghiên cứu này chúng tôi thấy giải pháp kéo dài thời gian trên 4 năm không được nhiều sinh viên và bác sĩ tán thành. Tuy nhiên, nhiều cán bộ quản lý cho rằng bác sĩ đào tạo theo chương trình điền thông chỉ thích hợp với công việc thuộc hệ dự phòng hay khám chữa bệnh ở tuyến cơ sở vốn không đòi hỏi nhiều kỹ năng phức tạp.