• Không có kết quả nào được tìm thấy

TRONG CHƯƠNG TRÌNH CHÍNH KHÓA PHÁT TRIỂN THỂ LỰC CHUNG CHO NỮ SINH VIÊN ĐẠI HỌC HUẾ

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ " TRONG CHƯƠNG TRÌNH CHÍNH KHÓA PHÁT TRIỂN THỂ LỰC CHUNG CHO NỮ SINH VIÊN ĐẠI HỌC HUẾ "

Copied!
73
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

ĐẠI HỌC HUẾ

KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

BÁO CÁO TỔNG KẾT

ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP CƠ SỞ KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT NĂM 2019

ỨNG DỤNG BÀI TẬP SPORT AEROBIC

TRONG CHƯƠNG TRÌNH CHÍNH KHÓA PHÁT TRIỂN THỂ LỰC CHUNG CHO NỮ SINH VIÊN ĐẠI HỌC HUẾ

MÃ SỐ: GDTC/2019-06

Chủ nhiệm đề tài: Thạc sĩ Lê Thị Uyên Phương

Thừa Thiên Huế, tháng 12 năm 2019

(2)

ĐẠI HỌC HUẾ

KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP CƠ SỞ KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

ỨNG DỤNG BÀI TẬP SPORT AEROBIC

TRONG CHƯƠNG TRÌNH CHÍNH KHÓA PHÁT TRIỂN THỂ LỰC CHUNG CHO NỮ SINH VIÊN ĐẠI HỌC HUẾ

MÃ SỐ: GDTC/2019-06

Xác nhận của cơ quan chủ trì đề tài Chủ nhiệm đề tài (ký, họ tên, đóng dấu) (ký, họ tên)

Thừa Thiên Huế, tháng 12 năm 2019

(3)

ĐẠI HỌC HUẾ

KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

BÁO CÁO TÓM TẮT

ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

CẤP CƠ SỞ KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT NĂM 2019

ỨNG DỤNG BÀI TẬP SPORT AEROBIC

TRONG CHƯƠNG TRÌNH CHÍNH KHÓA PHÁT TRIỂN THỂ LỰC CHUNG CHO NỮ SINH VIÊN ĐẠI HỌC HUẾ

MÃ SỐ: GDTC/2019-06

Chủ nhiệm đề tài: Thạc sĩ Lê Thị Uyên Phương

Thừa Thiên Huế, tháng 12 năm 2019

(4)

DANH SÁCH NHỮNG THÀNH VIÊN THAM GIA NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI VÀ ĐƠN VỊ PHỐI HỢP CHÍNH

Họ và tên Đơn vị công tác Nhiệm vụ đƣợc giao 1. Nguyễn Lê Nghĩa

2. Nguyễn Thị Tiểu My 3. Trần Thị Thùy Linh 4. Trần Thanh Tú

Tổ ĐT- KH- HTQT

Bộ môn Điền kinh- Thể dục Bộ môn Bóng

Bộ môn Bóng

- Thƣ ký đề tài - Cộng sự.

- Cộng sự.

- Cộng sự.

(5)

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ... 1

1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đề tài trong và ngoài nước ... 2

1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác TDTT trường học ... 2

1.2. Cơ sở lý luận về công tác GDTC trong trường Đại học ... 5

1.3.Các hình thức buổi tập TDTT cho SV trong các trường ĐH ... 8

1.4.Vai trò của GDTC trong giờ chính khóa ... 9

1.5. Huấn luyện thể lực chung. ... 10

1.6. Khái quát về Sport Aerobic. ... 18

1.7. Tác dụng của tập luyện Sport aerobic ... 19

1.8. Đặc điểm tâm sinh lý sinh viên ... 21

2. Sự cần thiết của đề tài ... 24

3. Mục tiêu nghiên cứu ... 25

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. ... 25

4.1.Đối tượng nghiên cứu: ... 25

4.2. Phạm vi nghiên cứu ... 25

5. Nội dung nghiên cứu... 25

6. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu ... 26

6.1. Cách tiếp cận ... 26

6.2.Phương pháp nghiên cứu ... 26

6.2.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu ... 26

6.2.2. Phương pháp phỏng vấn tọa đàm ... 27

6.2.3. Phương pháp quan sát sư phạm ... 27

6.2.4. Phương pháp kiểm tra sư phạm ... 27

6.2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm ... 29

6.2.6. Phương pháp toán học thống kê ... 30

PHẦN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN ... 32

CHƯƠNG I: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THỂ LỰC CỦA NỮ SINH VIÊN ĐẠI HỌC HUẾ ... 32

1.1.Đánh giá thực trạng sử dụng bài tập thể lực hiện hành trong nâng cao thể lực chung cho nữ sinh viên Đại học Huế ... 32

1.2. Thực trạng thể lực của nữ sinh viên Đại học Huế. ... 33

CHƯƠNG II: LỰA CHỌN BÀI TẬP SPORT AEROBIC TRONG CHƯƠNG TRÌNH CHÍNH KHÓA PHÁT TRIỂN THỂ LỰC CHUNG CHO NỮ SINH VIÊN ĐẠI HỌC HUẾ ... 34

2.1. Cơ sở lý luận lựa chọn bài tập Sport Aerobic trong chương trình chính khóa phát triển thể lực chung cho nữ sinh viên Đại học Huế ... 34

(6)

2.1.1. Yêu cầu lựa chọn bài tập Sport Aerobic trong chương trình chính khóa phát triển

thể lực chung cho nữ sinh viên Đại học Huế ... 34

2.1.2. Nguyên tắc lựa chọn bài tập Sport Aerobic trong chương trình chính khóa phát triển thể lực chung cho nữ sinh viên Đại học Huế ... 34

2.2. Cơ sở thực tiễn lựa chọn bài tập Sport Aerobic trong chương trình chính khóa phát triển thể lực chung cho nữ sinh viên Đại học Huế ... 36

CHƯƠNG III:ỨNG DỤNG VÀ ĐÁNH GIÁ CÁC BÀI TẬP SPORT AEROBIC TRONG CHƯƠNG TRÌNH CHÍNH KHÓA PHÁT TRIỂN THỂ LỰC CHUNG CHO NỮ SINH VIÊN ĐẠI HỌC HUẾ ... 42

3.1. Tổ chức thực nghiệm. ... 42

3.1.1. Kết quả kiểm tra trước thực nghiệm. ... 43

3.1.2. Kết quả kiểm tra sau thực nghiệm. ... 43

3.1.3. Kết quả kiểm tra theo tiêu chuẩn rèn luyện thân thể của hai nhóm sau thực nghiệm. ... 45

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ... 47

1. Kết luận ... 47

2. Kiến nghị ... 47 TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

(7)

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Bảng 1.1. Kết quả phỏng vấn việc sử dụng các bài tập nâng cao thể lực chung cho nữ sinh viên Đại học Huế. (n= 10) ... 32 Bảng 1.2: Kết quả kiểm tra thể lực của nữ sinh viên Đại học Huế. ... 33 Bảng 2.1: Kết quả phỏng vấn các nguyên tắc lựa chọn bài tập Sport Aerobic trong chương trình chính khóa phát triển thể lực chung cho nữ sinh viên Đại học Huế (n= 15) ... 35 Bảng 2.2. Kết quả phỏng vấn bài tập Sport Aerobic trong chương trình chính khóa phát triển thể lực chung cho nữ sinh viên Đại học Huế (n=15) ... 36 Bảng 3. 1: Tiến trình thực nghiệm các bài tập đã lựa chọn ... 42 Bảng 3.2. So sánh kết quả kiểm tra TLC của 2 nhóm đối chứng và thực nghiệm trước thực nghiệm. (NTN na = 56; NĐC nb = 52) ... 43 Bảng 3.3. So sánh kết quả kiểm tra TLC của 2 nhóm đối chứng và thực nghiệm sau thực nghiệm. (NTN na = 56; NĐC nb = 52) ... 43 Bảng 3.4: So sánh nhịp tăng trưởng của nhóm thực nghiệm và đối chứng trước ... 44 và sau thực nghiệm. ... 44 Bảng 3.5. Kết quả phân loại thể lực sau thực nghiệm của nhóm đối chứng và thực nghiệm sau thực nghiệm. ... 45 Biểu đồ 3.1 Kết quả phân loại thể lực sau thực nghiệm của nhóm đối chứng và thực nghiệm sau thực nghiệm ... 46

(8)

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU THƯỜNG DÙNG TRONG BÁO CÁO

VIẾT TẮT THUẬT NGỮ TIẾNG VIỆT

SV Sinh viên

ĐHH Đại học Huế

TCTL Tiêu chuẩn thể lực

LVĐ Lượng vận động

ĐHH Đại học Huế

ĐH YD- ĐHH Đại học Y Dược- Đại học Huế TDTT Thể dục thể thao

GDTC Giáo dục Thể chất

TLC Thể lực chung

(9)

PHẦN MỞ ĐẦU

Tính tới hết năm 2015, nước ta có trên 23 triệu HS, SV (chiếm hơn một phần tư dân số), đây là nguồn nhân lực quan trọng trong tương lai sẽ tham gia vào quá trình phát triển đất nước, do vậy làm tốt công tác TDTT trường học sẽ góp phần tích cực chuẩn bị thế hệ trẻ về sức khoẻ, thể lực và các phẩm chất đạo đức, tâm lí đáp ứng các yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ mới. Chính vì vậy, phát triển thể chất cho HS trong trường học các cấp là vấn đề cần thiết và cấp thiết.

Trong những năm gần đây, công tác TDTT trường học đã có tiến bộ đáng kể.

Theo thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, tính đến năm 2014, cả nước có trên 90% số trường học thực hiện tốt chương trình GDTC chính khoá theo quy định;

Trên 60% số trường học có hoạt động TDTT ngoại khoá; Hình thức tổ chức và nội dung tập luyện TDTT của HS, SV ngày càng đa dạng và dần đi vào nền nếp; Các hoạt động thi đấu thể thao từ trung ương đến cơ sở ngày càng phát triển đa dạng; Đội ngũ GV, giảng viên TDTT ở các trường học được đào tạo nâng cao kiến thức, từng bước đáp ứng được yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ; CSVC, sân chơi, bãi tập, công trình thể thao, dụng cụ tập luyện thi đấu thể thao ở trường học các cấp đã bước đầu được quy hoạch và dần đầu tư xây dựng... Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, ở một số cơ sở, công tác GDTC trong trường học chưa được quan tâm đúng mức, thậm chí có lúc còn bị coi nhẹ, thiếu bình đẳng so với các môn học khác.

Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 01/12/2011 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước phát triển mạnh mẽ về thể dục, thể thao đến năm 2020, đã chỉ rõ: “Thể dục thể thao trường học là bộ phận quan trọng của phong trào thể dục, thể thao, một mặt của giáo dục toàn diện nhân cách học sinh, sinh viên, cần được quan tâm đầu tư đúng mức”. Nhận rõ tầm quan trọng của TDTT đối với sự phát triển và hoàn thiện các tố chất thể lực của con người, Đảng và Nhà nước đã coi công tác TDTT như một biện pháp hàng đầu để tăng cường sức khỏe , nâng cao khả năng đề kháng của cơ thể với bệnh tật, chống lại sự mất cân đối do nền Xã hội hóa Công nghiệp mang lại. Hồ Chủ tịch đã dạy rằng : “ con người là vốn quý của Xã hội, bảo vệ và tăng cường sức khỏe cho con người là nhiệm vụ trọng tâm, nhiệm vụ hàng đầu của ngành TDTT “ Vậy nên TDTT là sự đồng hợp của các phương pháp chuyên môn về giáo dục thể chất (GDTC) nảy sinh trong quá trình phát triển loài người, vừa áp dụng các phương pháp vừa kết hợp với nhân tố vệ sinh góp phần nâng cao sức khỏe, phát triển thể lực, rèn luyện cơ thể, rèn luyện kỹ năng – kỹ xảo vận động cần thiết cho cuộc sống con người. Nằm trong hệ thống Giáo dục thể chất (GDTC), loại hình thể dục được coi là phương tiện và nội dung hết sức đa dạng, phong phú như : “ Thể dục dụng cụ, thể dục nghệ thuật, Aerobic, yoga, thể dục cổ động, khiêu vũ thể thao....”.

(10)

1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đề tài trong và ngoài nước 1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác TDTT trường học

TDTT trường học là một bộ phận quan trọng của nền TDTT nước nhà, nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân. GDTC là một bộ phận của nền giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ nhằm thực hiện chức năng giáo dục và giáo dưỡng để hình thành cho thế hệ trẻ vốn kỹ năng, kỹ xảo vận động cơ bản, quan trọng trong cuộc sống và tri thức chuyên môn tương ứng. Với nhiệm vụ củng cố và tăng cường sức khoẻ, phát triển con người toàn diện cân đối về hình thái và chức năng cơ thể, phát triển các tố chất thể lực, cũng như hình thành và hoàn thiện phẩm chất nhân cách, tiêu chuẩn, hành vi và thói quen đạo đức cho con người.

Ngay từ những ngày đầu của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh đã đặt nền móng cho sự nghiệp TDTT nước ta và khẳng định rõ TDTT vừa là công tác cách mạng, vừa là nhu cầu, vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của quần chúng nhân dân.

Mục tiêu của TDTT là bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của nhân dân, góp phần cải tạo nòi giống Việt Nam, làm cho “dân cường, nước thịnh”. Tiêu biểu cho mong muốn tha thiết của Bác với đồng bào, với dân tộc là lời kêu gọi toàn dân tập thể dục và bồi dưỡng sức khoẻ vào ngày 27/3/1946, Người nói: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng có sức khoẻ mới thành công. Mỗi một người dân yếu ớt tức là làm cho cả nước yếu ớt một phần, mỗi một người dân khoẻ mạnh tức là góp phần làm cho cả nước mạnh khoẻ. Vậy luyện tập thể dục bồi bổ sức khoẻ là bổn phận của mỗi người dân yêu nước…”. Không chỉ thể hiện ở lời nói mà Người còn khẳng định: “tự tôi ngày nào cũng tập thể dục”, cho dù rất bộn bề với trăm công ngàn việc [57].

Không chỉ quan tâm đến sự nghiệp phát triển TDTT nói chung mà Bác Hồ luôn tin tưởng và quan tâm đến sự phát triển thể chất cho thế hệ trẻ. Ngày về thăm trường Trung cấp TDTT (nay là trường Đại học TDTT Bắc Ninh), Bác đã căn dặn: “Các cháu học thể thao ở đây không phải để đạt ông kiện tướng này, bà kiện tướng nọ. Cái chính là người cán bộ phục vụ đắc lực cho nhân dân, đem hiểu biết của mình ra hướng dẫn mọi người cùng tập luyện để nâng cao sức khoẻ, đẩy lùi bệnh tật”.

Tiếp thu những tinh hoa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn chăm lo, phấn đấu xây dựng sự nghiệp TDTT nói chung và công tác GDTC trường học nói riêng một cách hiệu quả. Đảng ta chủ trương: “từng bước xây dựng nền TDTT xã hội chủ nghĩa phát triển cân đối, có tính chất dân tộc, khoa học và nhân dân”. Cho nên, việc Đảng và Nhà nước luôn luôn coi trọng công tác GDTC, luôn lãnh đạo trực tiếp bằng việc hoạch định đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách, kiểm tra đôn đốc thực hiện đường lối GDTC do mình đề ra và được thể hiện trong các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về công tác GDTC xuyên suốt mọi thời kỳ.

Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 tại điều 41 quy định: “…Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp phát triển thể dục, thể thao; quy

(11)

định chế độ GDTC bắt buộc trong trường học, khuyến khích và giúp đỡ phát triển các hình thức tổ chức TDTT tự nguyện của nhân dân, tạo các điều kiện cần thiết để không ngừng mở rộng các hoạt động TDTT quần chúng, chú trọng hoạt động thể thao chuyên nghiệp, bồi dưỡng các tài năng thể thao” [26].

Mục tiêu cơ bản, lâu dài của công tác TDTT là hình thành nền TDTT phát triển và tiến bộ, góp phần nâng cao sức khoẻ, thể lực, đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần của nhân dân. Thực hiện GDTC trong tất cả các trường học, nhằm mục tiêu làm cho việc tập luyện TDTT trở thành nếp sống hàng ngày của hầu hết HS, SV.

Để tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp phát triển TDTT nước nhà, Thủ tướng chính phủ đã ban hành chỉ thị số 133/TTg ngày 3 tháng 3 năm 1995 về việc xây dựng quy hoạch phát triển ngành thể dục - thể thao, trong đó nêu rõ:

“…Bộ GD&ĐT cần đặc biệt coi trọng việc GDTC trong nhà trường, cải tiến nội dung giảng dạy thể dục – thể thao nội khoá, ngoại khoá, quy định tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho HS ở các cấp học; có quy chế bắt buộc các trường, nhất là các trường đại học phải có sân bãi, phòng tập thể dục - thể thao; có định biên hợp lý và có kế hoạch tích cực đào tạo đội ngũ giáo viên thể dục – thể thao, đáp ứng nhu cầu ở tất cả các cấp bậc học. Bộ GD&ĐT cần có một Thứ trưởng chuyên trách chỉ đạo công tác thể dục – thể thao trong trường học” [5].

Với tinh thần chỉ thị trên một lần nữa tại Đại hội Đảng toàn quốc khoá VIII năm 1996 nhấn mạnh: “tạo chuyển biến tích cực về chất lượng và hiệu quả GDTC trong trường học” [9].

Thực hiện chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Đảng; pháp lệnh TDTT được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 25 tháng 9 năm 2000 và Luật Giáo dục được Quốc hội khoá IX nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua năm 2005 quy định. Nhà nước coi trọng TDTT trường học nhằm phát triển và hoàn thiện thể chất cho tầng lớp thanh thiếu niên, nhi đồng. GDTC trong trường học là chế độ giáo dục bắt buộc nhằm tăng cường sức khoẻ, phát triển thể chất, góp phần hình thành và bồi dưỡng nhân cách, đáp ứng yêu cầu giáo dục toàn diện cho người học; Nhà nước khuyến khích hoạt động TDTT ngoại khoá trong nhà trường;

Nhà nước tạo mọi điều kiện cho HS được tham gia tập luyện TDTT phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và điều kiện, hoàn cảnh [28], [40].

Để thực hiện tốt các nhiệm vụ cũng như các mục tiêu đặt ra đối với GDTC. Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ban hành Quyết định số 14/2001/QĐ - BGDĐT về quy chế GDTC và y tế trường học, trong đó có nêu: “GDTC được thực hiện trong giờ học môn thể dục, sức khoẻ và các hoạt động TDTT…” phấn đấu đến năm 2010 “thực hiện GDTC trong tất cả các trường. Tuyệt đại bộ phận HS, SV, thanh niên, thiếu niên,… thường xuyên tập luyện TDTT” và đạt “95% các trường học ở thành phố, thị xã, khu công nghiệp (hiện nay là 36,4%) bảo đảm đầy đủ các tiết học TDTT; 70 - 80% HS (hiện nay

(12)

là 60%) và 90 - 95% SV (hiện nay là 80%) đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể theo quy định” như mục tiêu, phương hướng trong Quyết định số 57/2002/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch phát triển ngành TDTT đến năm 2010.

Xác định được vị trí quan trọng của TDTT nói chung và GDTC trong trường học nói riêng Đảng và Nhà nước ta đề ra 2 mục tiêu đó là: mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài.

- Mục tiêu trước mắt là: “góp phần trực tiếp nâng cao sức khoẻ cho con người đẻ phục vụ sản xuất, chiến đấu, xây dựng nếp sống mới và công tác”. Mục tiêu này nó còn có ý nghĩa thúc đẩy xã hội, làm cho cả hệ thống chính trị, kinh tế quốc phòng của đất nước được củng cố và phát triển.

- Mục tiêu lâu dài là chiến lược: “Xúc tiến quá trình cải tạo nòi giống Việt Nam.

Nhờ TDTT, mà những yếu tố xã hội rất quan trọng như: sức khoẻ cường tráng, chiều cao, cân nặng, khả năng chống bệnh tật, tuổi thọ được duy trì và phát triển”. Do đó, Nghị quyết về chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ của nhân dân ghi rõ: “TDTT góp phần làm giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ, làm cho nòi giống ngày càng tốt đẹp hơn”.

Tại Chỉ thị 17 CT/TW Ban Bí thư ngày 23/10/2002 “Công tác TDTT phải góp phần tích cực thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, Quốc phòng, an ninh và mở rộng quan hệ đối ngoại của đất nước, trước hết là góp phần nâng cao sức khoẻ, rèn luyện ý chí, giáo dục đạo đức, nhân cách, lối sống và nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, nâng cao lòng tự hào dân tộc và đẩy lùi tệ nạn xã hội ở từng địa phương. Phấn đấu đến năm 2010 toàn quốc đạt tỉ lệ 18 - 20% dân số tập luyện TDTT thường xuyên. 80 - 90% HS, SV đạt tiêu chuẩn RLTT theo quy định, giữ vị trí là một trong ba nước đứng đầu về thể thao ở khu vực Đông Nam Á, một số môn có thứ hạng cao tại các giải thể thao Châu Á và Thế giới”.

Ngày 29 tháng 5 năm 2005 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và Chủ nhiệm Uỷ ban thể dục thể thao đã ký thông tư liên tịch số 34/2005/TTLT – BGDĐT – UBTDTT hướng dẫn phối hợp quản lý và chỉ đạo công tác thể dục thể thao trường học giai đoạn 2006-2010. Xác định quan điểm: “Thể dục thể thao trường học là bộ phận đặc biệt trong việc nâng cao sức khoẻ và thể lực, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, ý chí, giáo dục nhân cách cho học sinh, sinh viên góp phần đáp ứng yêu cầu công ngiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thể dục thể thao trường học là môi trường thuận lợi và giàu tiềm năng để phát hiện và bồi dưỡng tài năng thể thao cho đất nước”. Hai ngành Giáo dục và Đào tạo và thể dục thể thao thống nhất nội dung phối hợp về chương trình nội khoá cũng như về hoạt động ngoại khoá của học sinh, sinh viên; về đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, giảng viên thể dục thể thao và nghiên cứu khoa học giáo dục thể chất; về hợp tác quốc tế của thể dục thể thao trường học, về điều kiện đảm bảo cho TDTT trường học.

(13)

1.2. Cơ sở lý luận về công tác GDTC trong trường Đại học 1.2.1. Khái niệm GDTC

Thể chất: Thể chất là chỉ chất lượng thân thể con người. Đó là những đặc trưng tương đối ổn định về hình thái và chức năng của cơ thể, được hình thành và phát triển do bẩm sinh di truyền và điều kiện sống (có giáo dục và rèn luyện). Thể chất bao gồm thể hình, khả năng chức năng và khả năng thích ứng

Giáo dục thể chất: Mátvêép L.P, Nôvicốp A.D khái niệm rằng “GDTC là một quá trình giải quyết những nhiệm vụ giáo dục - giáo dưỡng nhất định mà đặc điểm của quá trình này là có tất cả các dấu hiệu chung của quá trình sư phạm, hoặc là được thực hiện dưới hình thức tự giáo dục”

Nguyễn Toán đã đưa ra khái niệm: “GDTC là một bộ phận của TDTT. GDTC còn là một trong những hoạt động cơ bản, có định hướng rõ của TDTT trong xã hội, một quá trình tổ chức để truyền thụ và tiếp thu những giá trị của TDTT trong hệ thống giáo dục-giáo dưỡng chung (chủ yếu là trong nhà trường)… GDTC là một loại hình giáo dục mà nội dung chuyên biệt là dạy học vận động (động tác) và phát triển có chủ định các tố chất vận động của con người”.

Vũ Đức Thu, Nguyễn Xuân Sinh, Lưu Quang Hiệp và một số tác giả khác đã đưa ra khái niệm: GDTC là một quá trình sư phạm, nhằm GD&ĐT thế hệ trẻ hoàn thiện về thể chất và nhân cách, nâng cao khả năng làm việc và kéo dài tuổi thọ của con người

Có thể thấy, về GDTC có nhiều khái niệm được đưa ra dưới những góc độ, những cách nhìn khác nhau, song nói chung đều nêu lên hai mặt của một quá trình GDTC, đó là: Giáo dục và giáo dưỡng

Giáo dưỡng: Là quá trình dạy học vận động hay giảng dạy động tác, qua đó hình thành kỹ năng vận động, kỹ xảo vận động và những hiểu biết liên quan.

Giáo dục: Là giáo dục các tố chất thể lực và phẩm chất ý chí con người.

Quá trình giảng dạy động tác và phát triển các tố chất thể lực có liên quan chặt chẽ và làm tiền đề cho nhau, có thể chuyển lẫn nhau, nhưng chúng không bao giờ đồng nhất và có quan hệ khác biệt trong các giai đoạn phát triển, hoàn thiện thể chất người tập.

Trạng thái thể chất: Chủ yếu nói về trạng thái cơ thể qua một số dấu hiệu về thể trạng được xác định bằng các cách đo tương đối đơn giản như chiều cao, cân nặng, vòng ngực, chân, tay… trong một thời điểm nào đó

Phát triển thể chất: Là quá trình biến đổi và hình thành các tính chất tự nhiên về hình thái và chức năng cơ thể trong đời sống tự nhiên và xã hội. Hay nói cách khác, phát triển thể chất là một quá trình hình thành biến đổi tuần tự theo quy luật trong cuộc đời từng người về hình thái, chức năng kể cả những tố chất thể lực và năng lực vận động

(14)

Phát triển thể chất phụ thuộc nhiều vào yếu tố tạo thành và sự biến đổi của nó diễn ra theo quy luật di truyền và các quy luật phát triển sinh học tự nhiên theo lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, phương pháp và biện pháp giáo dục cũng như môi trường sống.

Hoàn thiện thể chất: Hoàn thiện thể chất là phát triển thể chất lên một trình độ cao, nhằm đáp ứng một cách hợp lý các nhu cầu của hoạt động lao động, xã hội, chiến đấu và kéo dài tuổi thọ sáng tạo của con người [56].

Nguyễn Toán và Phạm Danh Tốn cũng đưa ra khái niệm “Hoàn thiện thể chất là mức tối ưu (tương đối), với một giai đoạn lịch sử nhất định của trình độ chuẩn bị thể lực toàn diện và phát triển thể chất cân đối; đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của lao động và những hoạt động cần thiết khác trong đời sống; phát huy cao độ, đầy đủ những năng khiếu bẩm sinh về thể chất của từng người; phù hợp với những quy luật phát triển toàn diện nhân cách và giữ gìn, nâng cao sức khoẻ để hoạt động tích cực, lâu bền và có hiệu quả”

Nhấn mạnh tới phương hướng, mục đích của GDTC trong trường đại học, Vũ Đức Thu khái niệm như sau: “Chuẩn bị thể lực là một nội dung của quá trình GDTC, đây là hoạt động chuyên môn hoá nhằm chuẩn bị thể lực cho con người học tập, lao động và bảo vệ Tổ quốc”

Thể lực: Từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 1996 của Nhà xuất bản Từ điển Đà Nẵng khái niệm: “Thể lực là sức lực của con người”

Theo Nguyễn Mạnh Liên: “…thể lực là một nội dung nằm trong định nghĩa chung về sức khoẻ”. Tác giả cho rằng, để đánh giá thể lực, cần có các chỉ tiêu về hình thái, giải phẫu và sinh lý con người, trong đó có hai chỉ tiêu cơ bản là chiều cao đứng và cân nặng. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) khái niệm sức khoẻ như sau: “Sức khoẻ là một trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội chứ không phải đơn thuần là không có bệnh tật, cho phép mọi người thích ứng nhanh chóng với các biến đổi của môi trường, giữ được lâu dài khả năng lao động và lao động có kết quả”. Sức khoẻ gồm có sức khoẻ cá nhân, sức khoẻ gia đình, sức khoẻ cộng đồng và sức khoẻ xã hội. Sức khoẻ phụ thuộc vào môi trường sống, quá trình nuôi dưỡng, quá trình rèn luyện, những vấn đề chung của từng nước và cộng đồng thế giới… Như vậy, thể lực là một yếu tố tạo nên sức khoẻ .

Theo Aulic I.A, năng lực thể lực là tiềm năng của VĐV để đạt được những thành tích nhất định trong môn thể thao được lựa chọn và năng lực thể lực được biểu hiện theo các thông số sư phạm như sức nhanh, sức mạnh, sức bền, khả năng phối hợp vận động [1].

Như vậy, có thể nhận thấy ở những góc độ khác nhau, khái niệm thể lực được các tác giả đề cập đến không hoàn toàn giống nhau. Từ các kết quả phân tích trên đây có thể hiểu: Thể lực là năng lực tự nhiên của con người, được phát triển, hoàn thiện dưới tác động của lượng vận động và bộc lộ ra bên ngoài cơ thể cao hay thấp.

(15)

1.2.2. Mục tiêu và nhiệm vụ công tác GDTC trường học .

Với tác động ngày càng mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hoá trong giai đoạn hiện nay đã và đang đặt ra cho ngành GD&ĐT những cơ hội mới cũng như nhiều thách thức mới về chất lượng và hiệu quả giáo dục đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội bền vững. Đòi hỏi công tác giáo dục đại học phải có định hướng, chiến lược cụ thể, phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại.

Luật Giáo dục năm 2005 đã nêu rõ: “Mục tiêu của giáo dục đại học là đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khoẻ, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [28].

Với mục tiêu chung của nền giáo dục như vậy đặt ra một nhiệm vụ và yêu cầu cụ thể đối với công tác GDTC trong các trường học đó là: GDTC là một trong những hình thức hoạt động cơ bản có định hướng rõ ràng của hoạt động TDTT trong xã hội, một quá trình có tổ chức để truyền thụ và tiếp thu những giá trị của TDTT trong hệ thống giáo dục và giáo dưỡng chung.

GDTC là một quá trình sư phạm nhằm giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ hoàn thiện về thể chất và nhân cách, nâng cao khả năng làm việc, sức đề kháng và kéo dài tuổi thọ của con người. GDTC là một loại hình giáo dục, vì vậy nó là một quá trình giáo dục có tổ chức, có mục đích, có kế hoạch để truyền thụ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo vận động, những kinh nghiệm sống từ thế hệ này cho thế hệ khác… Là quá trình sư phạm nên GDTC đòi hỏi phải tuân thủ theo những nguyên tắc sư phạm. Trong đó vai trò của người học là trung tâm, người thầy có nhiệm vụ định hướng dẫn dắt, các hoạt động tổ chức tuân thủ theo nguyên tắc sư phạm.

Nhiệm vụ của công tác GDTC cho SV các trường đại học bao gồm:

Giáo dục cho SV về nhân cách và đạo đức con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Rèn luyện tinh thần tập thể, ý thức tổ chức kỷ luật, năng động và sáng tạo trong học tập cũng như trong cuộc sống, xây dựng cuộc sống lành mạnh, sẵn sàng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Hình thành và hoàn thiện những kỹ năng, kỹ xảo vận động cơ bản của một số môn thể thao và trang bị cho SV những kiến thức chuyên môn như: Lý luận cơ bản về tập luyện và thi đấu thể thao. Trang bị cho SV những tri thức cần thiết về phương pháp, phương tiện GDTC để tự tập luyện cũng như có thể tổ chức và hướng dẫn mọi người.

Góp phần duy trì và củng cố sức khoẻ của SV, phát triển cơ thể một cách hài hoà, cân đối, xây dựng thói quen lành mạnh và khắc phục những thói quen xấu trong cuộc sống. Nhằm đạt hiệu quả tốt trong quá trình học tập và đạt những chỉ tiêu thể lực quy định cho từng đối tượng trên cơ sở tiêu chuẩn rèn luyện thân thể theo lứa tuổi.

Giáo dục tính thẩm mỹ cho SV và tạo điều kiện để nâng cao trình độ thể thao của SV.

(16)

1.3 .Các hình thức buổi tập TDTT cho SV trong các trường ĐH 1.3.1. Hoạt động ngoại khoá GDTC.

Theo các nhà Giáo dục học và lý luận học TDTT như: Từ Gia Kiệt, Dương Vọng Hiếu (Trung Quốc), Kelly (Mỹ) cho rằng tất cả các hoạt động TDTT của HS, SV có tổ chức hoặc không có tổ chức được tiến hành ngoài giờ lên lớp chính khoá đều được coi là hoạt động ngoại khoá GDTC. Nó sử dụng các bài tập mà giáo viên cho trước được gọi là bài tập thể dục ngoại khoá. Khi tiến hành các hoạt động ngoại khoá GDTC phải đảm bảo các yêu cầu sau:

Làm cho SV có thể tiến hành tập luyện một cách hiệu quả các giờ ngoại khoá, do đó cần hướng dẫn cho họ phương pháp tập luyện chính xác cũng như phương pháp bảo hiểm, tự bảo hiểm để tránh xảy ra chấn thương.

Lượng vận động trong các bài tập thể dục ngoại khoá được bố trí không quá cao hoặc quá thấp mà phải phù hợp với lượng vận động cụ thể của SV.

Cố gắng hết sức tăng cường sự chỉ đạo của người hướng dẫn để kịp thời phát hiện những vấn đề và giải quyết vấn đề ngoại khoá để tránh rơi vào chủ nghĩa hình thức.

Bài tập thể dục ngoại khoá nên kết hợp với việc rèn luyện TDTT ngoại khoá ở tổ, ở lớp rèn luyện thể thao ngoại khoá.

Tóm lại: Hoạt động TDTT ngoại khoá là hoạt động được tiến hành ngoài giờ lên lớp chính khoá với nội dung, hình thức phong phú và đa dạng, mang tính chất tự nguyện nhằm củng cố sức khoẻ, duy trì và nâng cao khả năng hoạt động thể lực, giúp phòng, chữa bệnh tật và giáo dục các phẩm chất ý chí dựa trên các nguyên tắc tập luyện TDTT.

1.3.2. Giờ học TDTT chính khoá

Là những giờ học TDTT nội khoá, mỗi tuần 2 tiết, 1 tiết 45 phút theo sự sắp xếp thời khoá biểu của Khoa GDTC thống nhất trong toàn ĐH Huế. Công tác GDTC được tiến hành giảng dạy, tổ chức thi, đánh giá cho điểm đúng quy trình mà Bộ GD&ĐT quy định tại Quy chế 25.

Buổi tập TDTT chính khoá có những đặc điểm cơ bản sau:

Buổi tập tổ chức theo hình thức lớp - bài, trong đó có sự hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của người dạy và người học. Ưu thế của buổi tập này bao giờ cũng bao gồm 1 số lượng HS cụ thể, đồng nhất về trình độ, lứa tuổi nên rất thuận lợi về mặt giáo dục, giáo dưỡng.

Được thực hiện theo quy luật chung của quá trình GDTC đồng thời phải đảm bảo các yêu cầu sau:

Giờ học phải tác động toàn thể đến cơ thể về các mặt giáo dục, giáo dưỡng và sức khoẻ.

(17)

Các nhiệm vụ phải được cụ thể theo từng phần của buổi tập, tránh tình trạng chỉ coi trọng phần cơ bản.

Đa dạng hoá phương pháp luyện tập, giảng dạy tránh tình trạng khuôn mẫu, cứng nhắc.

Phù hợp với mặt bằng chung của cả lớp, có tính đến đặc điểm cá nhân và thực hiện giờ học đảm bảo bình đẳng trong hoạt động học tập cho tất cả HS.

Các nhiệm vụ đặt ra trong buổi học phải hết sức cụ thể sao cho giải quyết ngay trong giờ học đó.

Giờ học TDTT trong các trường phổ thông hoặc các buổi huấn luyện trong các trường năng khiếu thể thao là hiện thân của hình thức buổi tập chính khoá. Mục đích giáo dục - giáo dưỡng chung của các giờ học này đã được xác định trong chương trình môn học TDTT hoặc chương trình huấn luyện của trường năng khiếu. Mục đích chung đó được cụ thể hoá thành các nhiệm vụ của giờ học:

Nhiệm vụ trung tâm của giờ học TDTT là trang bị tri thức chuyên môn, hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động cần thiết cho cuộc sống và cho thể thao.

Để xác định nhiệm vụ cụ thể cho mỗi giờ học phải nắm vững quy luật của quá trình dạy học động tác. Các nhiệm vụ giáo dục tố chất thể lực và phẩm chất ý chí, củng cố sức khoẻ,…cũng phải nêu lên cụ thể.

Số lượng nhiệm vụ trong giờ học phụ thuộc vào mục đích cuối cùng của quá trình giáo dục - giáo dưỡng, khả năng tiếp thu của HS và quỹ thời gian của giờ học

1.4.Vai trò của GDTC trong giờ chính khóa

GD thể chất (GDTC) là một trong những nội dung quan trọng, góp phần thực hiện mục tiêu GD toàn diện HS trong nhà trường

Rèn thể lực- nền tảng trau dồi trí lực

Khoa học cũng như thực tiễn cho thấy, chăm sóc và nâng cao sức khỏe của con người bằng “phương tiện” là bài tập thể chất, là biện pháp chủ động nhất, tích cực nhất, ít tốn kém nhất có khả năng thực thi, mà lại phù hợp với quy luật hoạt động tâm, sinh lý của cơ thể và lứa tuổi, mang tính phòng ngừa bệnh tật, nâng cao sức khỏe, làm đẹp hình thái, phát triển toàn diện các tố chất vận động một cách ưu thế nhất!

Thông qua rèn luyện thân thể bằng hệ thống các môn thể dục thể thao (TDTT). Với những đòi hỏi sự nỗ lực cao của mỗi môn thể thao khác nhau, có thể hình thành và GD được những phẩm chất đạo đức nhân cách của con người một cách tự nhiên như: Y chí, lòng dũng cảm, lòng quyết tâm, sự tự tin, tính kiên trì và nhẫn nại, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tập thể ý thức đồng đội… TDTT làm lành mạnh đời sống văn hóa tinh thần của xã hội, góp phần đẩy lùi các tệ nạn xã hội; đặc biệt là xây dựng niềm tin và lối sống lành mạnh chothếhệtrẻ.Cùng với sự chăm lo tới đời sống vật chất và tinh thần của HSSV, GDTC và thể thao với bản chất là vận động, là một phương tiện hữu

(18)

ích, hợp lý giữa chế độ học tập và nghỉ ngơi tích cực, giữ gìn và nâng cao sức khỏe, năng lực hoạt động trong tất cả các thời kỳ học tập. Việc học GDTC còn có tác dụng quan trọng trong quá trình rèn luyện đạo đức, ý chí và thẩm mỹ cho lớptrẻ.Khỏethểlực,lànhmạnhvềnhâncách.Đối với thế hệ trẻ, GDTC và thể thao lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Vì đây là thời kỳ nhạy cảm nhất để phát triển và hoàn thiện thể chất, nhân cách trong cuộc đời của con người. Một phương pháp hiệu quả nhất, nhằm GD toàn diện cho thế hệ trẻ, trong hiện tại và cả tương lai của dân tộc.

Được thực hiện ngay từ tuổi đi học cho tới suốt cả quá trình lao động nghề nghiệp.

Cùng với sức khỏe, trí tuệ, hoàn thiện các năng lực thể chất là yếu tố cơ bản của con người lao động mới. Mỗi người cần phải có một lối sống lành mạnh, một sự phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần, nhất là trong hoàn cảnh nhiều mặt trái của nền kinh tế thị trường như hiện nay.

GDTC trong nhà trường có ý nghĩa to lớn trong việc phát huy và bồi dưỡng nhân tố con người. Đồng thời góp phần nâng cao thể lực GD nhân cách, đạo đức lối sống lành mạnh, làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần và phát huy tinh thần dân tộc của con người Việt Nam, tăng cường và giữ vững an ninh quốc phòng. Nhất là trong tình hình hiện nay của đất nước.

1.5. Huấn luyện thể lực chung.

1.5.1. Khái niệm

Huấn luyện thể lực (còn gọi là quá trình giáo dục các tố chất thể lực chung và chuyên môn) là một quá trình tác động thường xuyên, liên tục và theo kế hoạch sắp xếp hợp lý bằng những bài tập thể dục thể thao nhằm phát triển khả năng vận động.

Quá trình ấy tác động sâu sắc đối với hệ thần kinh, cơ bắp cũng như đối với các cơ quan tuần hoàn, hô hấp, và sự trao đổi chất.

Quá trình huấn luyện thể lực là sự phù hợp của các phương tiện (bài tập thể chất) cũng như các phương pháp sử dụng, trong quá trình huấn luyện phải phù hợp với các quy luật phát triển của đối tượng (lứa tuổi, trình độ tập luyện…)

Thông thường tố chất thể lực được chia thành năm loại cơ bản: Sức nhanh, sức mạnh, sức bền, độ dẻo, khả năng phối hợp vận động

Khi đề cập đến vấn đề thể lực chung cũng như đề cập đến giáo dục các tố chất thể lực chuyên môn, chúng ta hiểu rõ, trong hoạt động chung của con người thì hoạt động cơ bắp là dạng đặc biệt và mang tính trọng tâm. Hoạt động cơ bắp được thể hiện ở ba phương diện:

- Sự co cơ (phụ thuộc chủ yếu vào tỷ lệ cấu trúc sợi cơ, số lượng sợi cơ và thiết diện cơ).

- Sự trao đổi chất (tức là các quá trình sản sinh năng lượng).

- Sự dẫn truyền kích thích (hoạt động thần kinh cơ).

(19)

Ba phương diện trên đây luôn có mối tương quan với khả năng hoạt động

Hiện nay tồn tại rất nhiều quan điểm về huấn luyện thể lực, song chúng tôi cho rằng hệ thống các quan điểm của N.G . Ozolin . Tác giả cho rằng: “Quá trình huấn luyện thể lực là việc hướng đến củng cố các hệ thống cơ quan của cơ thể, nâng cao khả năng chức phận của chúng, đồng thời là việc phát triển các tố chất vận động (sức nhanh, sức mạnh, sức bền, mềm dẻo, và năng lực phối hợp vận động)”.

Trong quá trình huấn luyện thể lực chung, người tập phát triển thể lực một cách toàn diện, mà sự phát triển này được gọi là năng lực thể chất. Nó được đánh giá bởi mức độ phát triển về khả năng sức mạnh, sức nhanh, sức bền, mềm dẻo, khả năng phối hợp vận động, khả năng làm việc của tất cả các cơ quan chức phận. Dưới ảnh hưởng của quá trình chuẩn bị thể lực chung, sức khỏe của người tập được tăng cường, các hệ thống cơ quan, chức phận của cơ thể được hoàn thiện. Và như vậy, khả năng tiếp nhận lượng vận động của người tập cũng được nâng lên. Chính điều này đã dẫn đến mức độ phát triển tố chất thể lực cao hơn. Có thể nói rằng, quá trình phát triển thể lực chung có một ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục các phẩm chất tâm lý và ý chí, vì trong quá trình thực hiện các bài tập phát triển thể lực chung, người tập phải vượt qua những khó khăn ở mức độ khác nhau do việc thực hiện các bài tập mang lại [ 47; 48 ].

Việc huấn luyện thể lực chung phải đạt được khả năng làm việc của các cơ quan chức phận ở mức độ cao. Đó chính là nhiệm vụ cơ bản của quá trình chuẩn bị thể lực chung. Chuẩn bị thể lực chung nhờ vào các bài tập có và không có dụng cụ, đồng thời cũng có thể nhờ vào việc sử dụng bài tập của các môn thể thao khác, vai trò quan trọng trong quá trình chuẩn bị thể lực chung là việc chọn lựa các bài tập buộc cơ thể phải huy động một số lượng lớn cơ bắp, các cơ quan chức phận của cơ thể tham gia (bài tập chạy, bài tập thể dục…) Song, mặt khác cũng cần thiết phải chọn lựa các bài tập có những ảnh hưởng chọn lọc nhất định. Nói một cách khác, các bài tập này phải hướng tới việc phát triển một bộ phận nào đó của cơ thể hoặc tổng hợp các bộ phận, các tố chất vận động sẽ tác động làm tăng cường khả năng thể chất người tập nói chung.

Điểm đặc biệt của quá trình chuẩn bị thể lực chung là phải củng cố được những điểm còn yếu trong cơ thể, những cơ quan chậm phát triển.

Tổng quan các ý kiến nêu trên, chúng tôi nhận thấy chuẩn bị thể lực chung là sự tác động có hướng đích của lượng vận động (bài tập thể chất) đến người tập nhằm hình thành và phát triển lên một mức độ mới của khả năng vận động biểu hiện ở sự hoàn thiện các năng lực thể chất, đồng thời còn nhằm nâng cao khả năng hoạt động của các cơ quan chức phận tương ứng với các năng lực vận động của người tập, nâng cao các yếu tố tâm lý trước hoạt động đặc trưng của mỗi môn thể thao.

Hoạt động thể lực rất đa dạng và phức tạp, phụ thuộc vào công suất hoạt động, cấu trúc động tác và thời gian gắng sức. Mỗi một dạng hoạt động đòi hỏi cơ thể phải thể hiện khả năng hoạt động thể lực của mình về mọi mặt nào đó. Như vậy khả năng hoạt

(20)

động thể lực có thể biểu hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau. Hay nói cách khác hoạt động thể lực có thể phát triển các mặt khác nhau của năng lực hoạt động thể lực. Các mặt khác nhau đó của khả năng hoạt động thể lực được gọi là các tố chất thể lực (tố chất vận động). Dựa trên quan điểm về tố chất thể lực chúng tôi đi sâu vào đặc điểm của từng tố chất. Và dựa trên cơ sở sinh lý, lý luận và phương pháp TDTT. [ 31; 41; 48].

1.5.2. Các tố chất của thể lực 1.5.2.1. Tố chất sức mạnh:

Sức mạnh là khả năng khắc phục lực đối kháng bên ngoài, hoặc đề kháng lại nó bằng sự nổ lực cơ bắp. Cơ bắp có thể sinh ra lực trong các trường hợp như: không thay đổi độ dài cơ (chế độ tĩnh), giảm độ dài của cơ (chế độ khắc phục). Tăng độ dài của cơ (chế độ nhượng bộ). Trong chế độ hoạt động như vậy cơ bắp sản ra các lực cơ học, các trị số khác nhau cho nên có thể coi chế độ hoạt động của cơ là cơ sở phân biệt các loại sức mạnh. Bằng thực nghiệm và phân tích khoa học người ta đã đi đến một số kết luận có ý nghĩa cơ bản trong phân loại sức mạnh [ 31; 41; 47].

Trị số lực sinh ra trong các động tác chậm hầu như không khác biệt với các trị số lực phát huy trong điều kiện đẳng trường. Trong chế độ nhượng bộ khả năng sinh lực của các cơ là lớn nhất, đôi khi gấp hai lần lực phát huy trong điều kiện tĩnh. Trong các động tác nhanh trị số lực giảm dần theo chiều tăng tốc độ. Khả năng sinh ra trong các động tác nhanh tuyệt đối (tốc độ) và khả năng sinh lực trong các động tác tĩnh tối đa (sức mạnh tĩnh) không có tương quan với nhau. Trên cơ sở đó, sức mạnh được phân chia thành sức mạnh đơn thuần (khả năng sinh lực trong các động tác chậm hoặc tĩnh) sức mạnh tốc độ (khả năng sinh lực trong các động tác nhanh). Sức mạnh tốc độ còn được chia nhỏ tùy theo chế độ vận động thành sức mạnh động lực và sức mạnh hoãn xung [ 32; 41; 48].

Ngoài những loại sực mạnh cơ bản trên trên, trong thực tiễn và tài liệu khoa học còn thường gặp khái niệm sức mạnh bột phát. (sức mạnh bột phát là khả năng con người phát huy một lực lớn trong khoảng thời gian ngắn nhất).

Trong vận động thể thao, sức mạnh luôn có quan hệ với các tố chất thể lực khác, cụ thể là sức mạnh và sức bền. Do đó, năng lực sức mạnh được phân thành 3 hình thức năng lực sức mạnh tối đa, năng lực sức mạnh nhanh, năng lực sức mạnh bền.

Đồng thời các năng lực sức mạnh này rất có ý nghĩa trong hoạt động TDTT. Có vai trò quyết định đến thành tích của hoạt động. Song năng lực của sức mạnh nhanh, sức mạnh bền đặc trưng cho phần lớn các môn hoạt động thể thao.

Có nhiều cơ chế sinh lý tạo điều kiện cho sự phát triển sức mạnh bằng cách cải thiện sự phối hợp hoạt động giữa các chức năng vận động và chức năng thực vật.

Trong đó những cơ chế quan trọng nhất gồm :

- Tăng số lượng đơn vị vận động được động viên trong các cơ chủ vận (muscles agonistes).

(21)

- Ức chế hoạt động của các cơ đối kháng.

- Truyền đến cơ những xung động thông qua hệ thần kinh giao cảm.

- Lực căng cơ tối đa phụ thuộc vào số lượng sợi cơ. Những nghiên cứu thực nghiệm của nhiều tác giả đã chứng minh rằng trong những phản ứng không điều kiện chỉ có một số sợi cơ co chứ không phải tất cả các sợi của cơ co. Huấn luyện để phát triển sức mạnh làm hình thành ở người những phản xạ có điều kiện cho phép động viên một số lượng lớn đơn vị vận động vào hoạt động.

Để phát triển sức mạnh tối đa trong huấn luyện cần phải hình thành những phản xạ có điều kiện phối hợp hoạt động của các trung tâm thần kinh để các cơ chủ vận có thể co trong khi hoạt động của các cơ đối kháng bị ức chế.

Có thể sử dụng cả động lực và tĩnh lực để phát triển sức mạnh. Cho các cơ tập luyện theo chế độ đẳng trường với lực tăng cơ tối đã sẽ làm cho sức mạnh của cơ tăng cao.

1.5.2.2. Tố chất sức nhanh

Là khả năng thực hiện động tác trong một khoảng thời gian ngắn nhất. Hay là một tổ hợp thuộc tính chức năng của con người. Nó quy định chủ yếu và trực tiếp đặc tính tốc độ động tác cũng như thời gian phản ứng vận động

Người ta phân biệt ba hình thức đơn giản biểu hiện sức nhanh như:

- Thời gian tiềm phục của phản ứng vận động.

- Tốc độ động tác đơn (với lượng đối kháng bên ngoài nhỏ) - Tần số động tác.

Các hình thức đơn giản của sức nhanh tương đối độc lập với nhau. Đặc biệt như chỉ số về thời gian phản ứng vận động hầu như không tương quan với tốc độ động tác.

Những hình thức trên là thể hiện các năng lực tốc độ khác nhau.

Trong nhiều tác động thực hiện với tốc độ tối đa người ta quan sát thấy hai giai đoạn:

+ Giai đoạn tăng tốc độ.

+ Giai đoạn tốc độ ổn định tương đối.

Đặc điểm của giai đoạn thứ nhất là chuyển động nhanh dần hay chuyển động có gia tốc. Khi tốc độ không tăng thêm được nữa thì chuyển sang giai đoạn hai – giai đoạn chuyển động đều.

Theo quan điểm sinh lý, về thời gian tiềm phục của phản ứng vận động gồm năm thành phần:

+ Xuất hiện hưng phấn trong cơ quan cảm thụ

+ Dẫn truyền hưng phấn vào hệ thần kinh trung ương

(22)

+ Truyền hưng phấn trong tổ chức lưới hình thành tín hiệu ly tâm + Truyền tín hiệu từ hệ thần kinh trung ương tới cơ

+ Hưng phấn cơ và hoạt động tích cực

Trong đó giai đoạn thứ ba chiếm nhiều thời gian nhất. Những động tác được thực hiện với tốc độ tối đa khác nếu với động tác chậm về đặc điểm sinh lý sự khác biệt cơ bản thể hiện ở chỗ: khi thực hiện với tốc độ tối đa thì khả năng điều chỉnh bằng cảm giác trong tiến trình thực hiện động tác sẽ gặp nhiều khó khăn. Do đó, với tốc độ cao khó có thể thực hiện động tác thật chính xác. Trong các động tác rất nhanh và thực hiện với tần số cao. Động năng được truyền cho bộ phận nào đó có thể, sau đó nó bị tiêu phí các cơ đối kháng tham gia hoạt động và truyền cho bộ phận này, sau đó nó bị tiêu phí các cơ đối kháng tham gia hoạt động và truyền cho bộ phận này gia tốc theo hướng ngược lại, trong động tác, tốc độ lớn hoạt động của cơ diễn ra trong thời gian ngắn đến mức cơ không kịp co lại nhiều và thực tế cơ hoạt động theo chế độ đẳng trường. Người ta thừa nhận rằng tần số động tác phụ thuộc vào tính linh hoạt của quá trình thần kinh – tức là phụ thuộc vào tốc độ chuyển trạng thái hưng phấn – với chế độ của khu vận động.

1.5.2.3. Tố chất sức bền

Sức bền là năng lực thực hiện một hoạt động với cường độ cho trước, hay là năng lực duy trì khả năng vận động trong thời gian dài nhất mà cơ thể chịu đựng được.

Do thời gian hoạt động đó cuối cùng bị giới hạn bởi sự xuất hiện của mệt mỏi, nên sức bền còn có thể nói là năng lực của cơ thể chống lại mệt mỏi trong hoạt động nào đó.

Như vậy, khái niệm sức bền luôn luôn liên quan đến khái niệm mệt mỏi

Sức bền đảm bảo cho người tập đạt được cường độ tốt nhất (tốc độ, dùng lực, nhịp độ thi đấu, sử dụng sức lực) trong thời gian vận động kéo dài. Tương ứng khả năng huấn luyện của mình. Sức bền còn đảm bảo chất lượng động tác cao và giải quyết hoàn hảo kỹ – chiến thuật tốt ở cuối cuộc đấu và khi vượt qua một khối lượng vận động lớn trong tập luyện. Do đó, sức bền không những là một nhân tố xác định và ảnh hưởng lớn đến thành tích thi đấu, mà còn là một nhân tố xác định thành tích tập luyện và khả năng chịu đựng lượng vận động của người tập. Sức bền phát triển tốt là một điều kiện quan trọng để hồi phục nhanh sức bền gồm: Sức bền chung và sức bền chuyên môn.

- Sức bền chung: là sức bền trong các hoạt động này sang hoạt động khác tức là khi được nâng cao trong một loại bài tập nào đó, nó có khả năng biểu hiện trong các loại bài tập khác có cùng tính chất. Điều này có ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Để nâng cao sức bền chung của VĐV ở một môn nào đó có thể sử dụng nhiều hình thức bài tập khác nhau.

(23)

- Sức bền chuyên môn: là năng lực duy trì khả năng vận động cao trong những loại hình bài tập nhất định.

Sức bền trong từng loại bài tập có tính chuyên biệt phụ thuộc vào những nhân tố khác nhau, đặc biệt là phụ thuộc vào mức độ hoàn thiện kỹ thuật. Do đó, khi nâng cao sức bền chuyên môn trong loại bài tập xác định nào đó thì hầu như không có tác dụng làm tăng sức bền chuyên môn trong một loại bài tập khác tức là đây hầu như không có sự chuyển của sức bền. Sự chuyển của sức bền có thể xảy ra hay không tùy thuộc vào cơ chế cung cấp năng lượng và đặc điểm các tố chất vận động của bài tập, tác dụng tương hỗ của kỹ năng, kỹ xảo vận động sức bền nói chung rất cần thiết cho con người.

Vì sức bền luôn luôn là thành phần của nhân tố thành tích thể lực, nên nó quan hệ chặt chẽ với các tố chất thể lực khác như sức mạnh, sức nhanh. Những mối quan hệ này được thể hiện bằng các tố chất như: sức mạnh bền, sức nhanh bền. Như vậy, có thể nói rằng sức bền rất đa dạng nó đặc trưng cho các môn thể thao.

Nâng cao sức bền thực chất là quá trình làm cho cơ thể thích nghi dần dần với lượng vận động ngày càng lớn. Điều này một mặt đòi hỏi người tập phải có ý chí kiên trì chịu đựng những cảm giác mệt mỏi đôi khi rất nặng nề về cảm giác nhàm chán do tính đơn điệu của bài tập. Mặt khác đòi hỏi phải có sự tích lũy, thích nghi dần dần và kéo dài liên tục trong nhiều năm. Những ý đồ nôn nóng, gò ép đốt cháy giai đoạn chẳng những không đem lại kết quả mà còn có hại cho người tập. Nâng cao sức bền chung là cơ sở để nâng cao sức bền chuyên môn và nâng cao năng lực vận động của cơ thể nói chung.

Tập luyện có hệ thống sẽ nâng cao được sức bền một cách đáng kể. Nhưng cũng cần thấy khả năng về sức bền phụ thuộc rất lớn vào yếu tố di truyền (đặc điểm cơ bắp, năng lực hấp thụ ô xy của cơ thể…). Vì vậy ngoài việc tổ chức tập luyện đúng phương pháp thì còn cần các thử nghiệm dự báo, để tuyển chọn và xác định các cự ly chuyên môn hóa phù hợp nhất cho đối tượng.

1.5.2.4. Tố chất mềm dẻo

Mềm dẻo là năng lực thực hiện động tác với biên độ lớn. Biên độ tối đa của động tác là thước đo của năng lực mềm dẻo.

Năng lực mềm dẻo được chia làm 2 loại: Mềm dẻo tích cực và mềm dẻo thụ động.

- Mềm dẻo tích cực: là năng lực thực hiện động tác với biên độ lớn ở các khớp nhờ sự nổ lực của cơ bắp.

- Mềm dẻo thụ động: là năng lực thực hiện tác động với biên độ lớn các khớp nhờ tác động của ngoại lực như: trọng lượng của cơ thể, lực ấn ép của HLV hoặc bạn tập.

Mềm dẻo là tiền đề quan trọng để đạt được yêu cầu về số lượng và chất lượng động tác. Nếu năng lực mềm dẻo không được phát triển đầy đủ sẽ dẫn đến những hạn chế và khó khăn trong quá trình phát triển năng lực thể thao. [ 31; 41; 47;48;].

(24)

1.5.2.5. Tố chất khéo léo (năng lực phối hợp vận động)

Khéo léo là một tố chất thể lực tổng hợp, có thể định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Có quan điểm cho rằng : Khéo léo là năng lực định hướng và phản ứng nhanh chóng khi có tình huống mới nảy sinh. Quan niệm khác lại cho rằng: Khéo léo là khả năng phối hợp động tác tốt của người tập trong các hoạt động vận động. Cho dù hiểu khéo léo theo các góc độ khác nhau, song người ta đều thừa nhận tố chất này bao hàm trong đó nhiều năng lực thành phần để tạo nên khả năng phối hợp vận động cao [31; 41]].

- Tố chất khéo léo là khả năng tổng hợp có cấu trúc đa dạng, nên việc định nghĩa nó rất khác nhau, rất khó chặt chẽ.

- Bên cạnh hệ thống thích ứng về mặt năng lượng bao gồm: Sức nhanh, sức mạnh, sức bền, mềm dẻo còn có một hệ thống phối hợp vận động. Hệ thống này được xác định thông qua quá trình điều khiển.

- Có tồn tại một hệ thống các khả năng phối hợp vận động đa dạng và phức tạp.

Hệ thống này có mối quan hệ chặt chẽ với các khả năng thể lực và đặc biệt là các kỹ xảo vận động.

- Đặc biệt quan trọng là công trình nghiên cứu Schnabel, tác giả đã lựa chọn trên lý luận về phối hợp vận động và đề nghị được sử dụng khái niệm phối hợp vận động.

Theo Schnabel thì khả năng phối hợp vận động là khả năng của người tập. Khả năng này trước hết được xác định thông qua quá trình điều khiển và điều khiển vận động.

- Nghiên cứu khả năng vận động, tác giả đã dựa trên khái niệm về năng lượng theo quan điểm tâm lý học Macxit: Coi năng lượng là tiền đề và không khi nào tách rời hoạt động.

Từ những cơ sở nghiên cứu trên, nhiều tác giả đã rút ra các kết luận trong việc nghiên cứu và giáo dục khả năng phối hợp vận động.

Các khả năng phối hợp vận động luôn có mối quan hệ với các khả năng thể lực, tâm lý được coi là tiền đề cho các hoạt động thể thao. Các tiền đề này được phân biệt bởi cấu trúc và trình độ của nó.

Các khả năng phối hợp vận động có đặc điểm là luôn thể hiện ở một tập hợp nhiều khả năng phối hợp riêng lẻ.

Các khả năng phối hợp vận động thể hiện một mặt trong hoạt động, mặt khác nó được phát triển thông qua kết quả của các hoạt động này.

Vì hoạt động thể thao cụ thể là các quá trình và kết quả của nó thể hiện năng lực con người nên các khả năng phối hợp vận động được coi là các tư chất của năng lực với tinh thần là tiền đề.

(25)

Các khả năng phối hợp vận động trước hết là các khả năng thể hiện sự phối hợp. Nghĩa là được xác định thông qua các quá trình điều khiển và điều chỉnh vận động. Với ý nghĩa đó, lý luận về phối hợp vận động là cơ sở quan trọng để nghiên cứu khả năng phối hợp vận động và giáo dục nó.

Các quá trình cảm giác vận động, đặc biệt là chức năng của các cơ quan phân tích và hệ thống thần kinh trung ương là các thành phần chính, quan trọng của khả năng phối hợp vận động. Nó là những điều kiện sinh lý bên trong cho sự phát triển khả năng này.

Chỉ có thể đánh giá một cách chính xác bản chất của các khả năng phối hợp vận động nếu coi nó như tiền đề của năng lực trong phạm vi điều khiển hành động, trong đó đặc biệt là mối quan hệ giữa chương trình hành động (điều khiển hướng) với thực hiện hành động (điều khiển việc thực hiện) và kiểm tra hành động (điều khiển việc kiểm tra).

Các hành động thể thao được thực hiện dưới hình thức kỹ xảo vận động (kỹ xảo kỹ thuật và kỹ xảo chiến thuật). Với ý nghĩa đó, trình độ của khả năng phối hợp vận động thể hiện trước hết ở kỹ xảo vận động và ngược lại các kỹ xảo này rất quan trọng đối với việc giáo dục các khả năng phối hợp vận động.

Khả năng phối hợp vận động khác với kỹ xảo vận động ở chỗ nó là một tập hợp tiền đề cho nhiều hoạt động. Trong khi đó, kỹ xảo vận động (theo khái niệm tâm lý học) là bộ phận của hành động, nó là những yếu tố được tự động hóa trong thực hiện hành động cũng như trong ứng dụng. Khả năng phối hợp vận động là tiền đề giải quyết hàng loạt hành động và qua đó các kỹ xảo vận động thường chỉ giải quyết một nhiệm vụ hành động.

Năng lực phối hợp vận động gồm các năng lực thành phần sau :

- Năng lực liên kết vận động: Là năng lực nhằm liên kết các hoạt động vận động của từng bộ phận cơ thể, các phần của động tác trong mối quan hệ với hoạt động nhất định. Nó thể hiện sự kết hợp các yếu tố về không gian thời gian và dùng sức trong quá trình vận động.

-Năng lực định hướng: Là năng lực xác định thay đổi tư thế và hoạt động của cơ chế trong không gian và thời gian.

- Năng lực thăng bằng: Là năng lực ổn định trạng thái thăng bằng của cơ thể (thăng bằng tĩnh) hoặc duy trì và khôi phục nó trong và sau khi thực hiện động tác (thăng bằng động).

- Năng lực nhịp điệu: Là năng lực biết được sự luân chuyển các đặc tính chuyển động trong quá trình một động tác hoặc thể hiện nó trong khi thực hiện động tác.

- Năng lực cảm ứng: Là khả năng nhận biết được sự luân chuyển các đặc tính chuyển động trong quá trình một động tác hoặc thể hiện nó trong khi thực hiện động tác.

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Trả lời câu hỏi 1 trang 10 SGK Lịch sử 7 - KNTT: Quan sát hình 2, em hãy cho biết lãnh chúa phong kiến và nông nô được hình thành từ những tầng lớp

+ Ở con ếch: sự hình thành các cơ quan và phát sinh hình thái của ấu trùng, sự hình thành chân trong giai đoạn chuyển từ giai đoạn ấu trùng sang giai đoạn ếch trưởng

Vì: khi chế độ phong kiến phân quyền bị xóa bỏ, sự thống nhất của quốc gia, dân tộc sẽ được thiết lập, từ đó tạo tiền đề cho sự phát triển của các nước Tây Âu ở

Câu hỏi mở đầu trang 18 Bài 6 Lịch Sử lớp 7: Năm 690, hoàng hậu của vương triều Đường là Võ Tắc Thiên tuyên bố lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Thành Thần Hoàng Đế và là

+ Cùng với sự phát triển kinh tế của khu vực, những giá trị văn hóa truyền thống, văn minh của các nước Đông Nam Á luôn trường tồn, thách thức thời gian và ngày càng

- Nghệ thuật điêu khắc ở Đông Nam Á chịu ảnh hưởng rõ nét của điêu khắc Ấn Độ và Trung Quốc, đã phát triển đạt trình độ cao với nhiều tác phẩm như tượng thần,

Trả lời câu hỏi Hình thành kiến thức, kĩ năng 6 trang 9 SGK Sinh học 10: Nêu mối quan hệ giữa hệ kinh tế, hệ tự nhiên và hệ xã hội trong phát triển bền vững. Cho

- gv chuẩn bị một số túi hình trong bộ đồ dùng. Cho HS các nhóm lên nhận túi hình về xếp vào bảng con, đếm số hình và trả lời câu hỏi của cô giáo : + Nhóm em có bao nhiêu