• Không có kết quả nào được tìm thấy

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ (TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC)

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ (TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC) "

Copied!
51
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

ĐẠI HỌC HUẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

KHOA KIẾN TRÚC ---o0o---

BÁO CÁO TỔNG KẾT

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ (TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC)

NĂM 2020

Tên đề tài:

PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG HÌNH THÁI KIẾN TRÚC CÔNG CỘNG PHỤC VỤ DU LỊCH TRỤC CẢNH QUAN

BỜ SÔNG HƯƠNG THÀNH PHỐ HUẾ

Chủ nhiệm đề tài : Nguyễn Phong Cảnh Thành viên tham gia: Nguyễn Văn Thái

Nguyễn Thị Minh Xuân

Thừa Thiên Huế, ngày 28 tháng 5 năm 2021

(2)

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU ... 1

I. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ... 1

II. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI ... 2

III. MỤC TIÊU ĐỀ TÀI ... 3

VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ... 3

V. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ... 4

VI. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ... 4

B. NỘI DUNG ... 5

CHƯƠNG1: TỔNG QUAN KTCC TRỤC CẢNH QUAN BỜ SÔNG HƯƠNG THÀNH PHỐ HUẾ ... 5

1.1. Lịch sử dòng sông Hương và sự hình thành trục cảnh quan hai bờ sông Hương .... 5

1.2. Các thể loại công trình KTCC tiêu biểu trục cảnh quan hai bờ sông Hương ... 9

1.2.1. Kinh thành, Hoàng thành và Tử cấm thành ... 9

1.2.2. Kỳ Đài, Phu Văn Lâu, Nghênh Lương Đình, Đình Thương Bạc ... 9

1.2.3. Chùa, đền thờ, miếu thờ ... 12

1.2.4. Hệ thống các Lăng Vua ... 14

1.2.5. Nhà vườn Huế ... 15

1.2.6. Đường đi bộ, công viên, quảng trường, đài tưởng niệm ... 16

1.2.7. Cầu bắt qua sông Hương ... 17

1.2.8. Trường học, bệnh viện, chợ, cơ quan hành chính ... 19

1.2.9. Nhà Ga Huế, nhà máy xi măng Long Thọ, nhà máy nước Vạn Niên ... 20

1.2.10. Công trình kiến trúc thuộc địa Pháp dọc bờ Nam sông Hương ... 21

CHƯƠNG 2: ĐẶC TRƯNG KHÔNG GIAN KTCC DỌC HAI BỜ SÔNG HƯƠNG ... 25

2.1. Sự phân chia không gian KTCC dọc hai bờ sông Hương thành phố Huế: ... 25

2.2. Sự thay đổi địa hình, thay đổi thiên nhiên tạo nên sự khác biệt về kiến trúc ... 27

2.2. Sự chuyển tiếp và giao thoa các lớp không gian KTCC dọc hai bờ sông Hương .. 28

2.3. Sự tập trung các công trình KTCC (CT KTCC) có giá trị dọc hai bờ sông Hương ... 30

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG HÌNH THÁI KTCC PHỤC VỤ DU LỊCH BỜ SÔNG HƯƠNG ... 37

(3)

3.1. Thực trạng phát triển không gian KTCC hai bờ sông Hương ... 37 3.2. Đề xuất 4 tiêu chí cho phát triển bền vững hình thái KTCC hai bờ sông Hương .. 40 3.3. Đề xuất các giải pháp nhằm phát triển bền vững không gian KTCC hai bờ sông Hương ... 40 C. KẾT LUẬN... 42 TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 43

(4)

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1. Biểu đồ sử dụng đất hai bờ sông Hương trong 3 khu vực nghiên cứu ... 25 Biểu đồ 2.2. Thống kê, phân loại công trình KTCC tiêu biểu dọc bờ sông Hương khu vực chảy qua thành phố Huế (đơn vị: công trình) ... 30 Biểu đồ 2.3. Đánh giá giá trị quỹ KTCC dọc bờ sông Hương ... 33 Biểu đồ 3.1. Khảo sát thăm dò ý kiến phát triển không gian KTCC 2 bờ sông Hương, đối tượng khảo sát là 100 người ngẫu nhiên bao gồm 40 người (15 - 40 tuổi); 40 người (40 – 70 tuổi) ... 39

(5)

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Phân bố các CT KTCC có giá trị 2 bờ sông Hương (đơn vị: công trình) .... 32 Bảng 2.2. Đánh giá giá trị công trình KTCC tiêu biểu dọc sông Hương theo 3 tiêu chí với thang điểm từ 1 – 4 (cầu Tuần đến cầu Dã Viên) ... 34 Bảng 2.3. Đánh giá giá trị công trình KTCC tiêu biểu dọc sông Hương theo 3 tiêu chí với thang điểm từ 1 – 4 (cầu Dã Viên đến cầu Chợ Dinh) ... 35 Bảng 2.4. Phân loại theo thang giá trị các công trình KTCC dọc bờ Bắc sông Hương 36 Bảng 2.5. Phân loại theo thang giá trị các công trình KTCC dọc bờ Nam sông Hương ... 36

(6)

DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1. Sự phát triển đô thị dọc sông Hương qua các thời kỳ ... 6 Hình 1.2. Sự phát triển đô thị dọc bờ Nam sông Hương qua các thời kỳ ... 8 Hình 1.3. Công trình KTCC dọc bờ sông Hương năm 1930 ... 22 Hình 1.4. Một số công trình KTCC theo phong cách thuộc địa Pháp nằm dọc bờ sông Hương hiện nay ... 23 Hình 1.5. Công trình KTCC dọc bờ sông Hương thời Pháp thuộc ... 24 Hình 2.1. Phạm vi nghiên cứu chia làm 3 khu vực (KV1, KV2, KV3) ... 25 ... 25 Hình 2.2. So sánh đô thị sông Hương và các đô thị ven sông khác trên thế giới (từ trái sang phải: sông Nile – Cairo, sông Seine – Paris, sông Hương – Huế, sông Hàn – Seoul) ... 28 Hình 2.3. Sơ đồ sự giao thoa và chuyển tiếp đa dạng các lớp không gian KTCC dọc sông Hương ... 29 Hình 3.1. Đài tưởng niệm chiến sĩ trận vong ảnh nguyên gốc và sau khi tu bổ, từ trái sáng phải chụp năm 1930, 1965, 2017 ... 37 Hình 3.2. Một số tồn tại cần được xử lý trong các KTCC hai bờ sông Hương ... 38

(7)

DANH MỤC VIẾT TẮT

AAVH : Association des Amis du Vieux Huế Hội Đô thành Hiếu Cổ

BAVH : Bulletin des Amis du Vieux Huế

Tạp chí “Những người bạn Cố Đô Huế”

THPT : Trung học Phổ thông TP : Thành phố

TT Huế : Thừa Thiên Huế UBND : Ủy ban Nhân dân CT : Công trình

KTCC : Kiến trúc công cộng

(8)

1

A. MỞ ĐẦU

I. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Hình thái kiến trúc công cộng (sau đây xin được gọi là KTCC) dọc sông Hương là sự tổng hòa và giao thoa các lớp không gian kiến trúc xét trong mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa ba yếu tố: tự nhiên - không gian công cộng - công trình công cộng.

Hình thái KTCC dọc sông Hương mang đặc thù riêng với nhiều yếu tố đặc trưng khác biệt của một đô thị di sản Cố đô ven sông. Đây cũng là một trong những nhân tố cốt lõi hình thành nên hình thái kiến trúc đô thị Huế. Bài viết dựa trên việc nghiên cứu tổng quan các không gian KTCC dọc hai bờ sông Hương phạm vi thành phố Huế, phân tích thực trạng, khảo sát lấy ý kiến người dân và khách du lịch, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển bền vững giá trị KTCC dọc sông Hương làm cơ sở cho việc phát triển du lịch di sản, du lịch sinh thái tại Thành phố Huế. Thực tế cho thấy việc quản lý xây dựng và phát triển các công trình KTCC dọc sông Hương đang thiếu sự đồng bộ, thường tập trung vào các dự án được cấp vốn đầu tư, chưa có khảo sát phân loại mức độ bảo tồn và phát triển trên toàn tuyến. Trong “Một số nét đặc trưng trong quy hoạch xây dựng Khu phố Tây ở Huế thời kỳ Pháp thuộc” của TS.

kts. Nguyễn Vũ Minh đã nêu ra được lịch sử và đặc điểm hình thành, phát triển mở rộng các khu phố dọc bờ Nam sông Hương, các đặc trưng chủ yếu trong quy hoạch kiến trúc cảnh quan khu phố Tây ở Huế lấy sông Hương làm trục bố cục của quy hoạch và phát triển đô thị [3]. Báo cáo quy hoạch chi tiết hai bờ sông Hương và dự án thí điểm do tổ chức KOICA Hàn Quốc thực hiện đã đưa ra những phân tích khá chi tiết và cụ thể về thực trạng và giải pháp phát triển cho không gian KTCC hai bờ sông Hương [5]. Tuy nhiên giải pháp đưa ra chưa xét trong bối cảnh phát triển du lịch và nhu cầu du lịch sinh thái, du lịch văn hóa đang tăng cao tại thành phố Huế. Báo cáo vẫn còn mang tính chủ quan, chưa chú trọng việc lấy ý kiến và khảo sát đối tượng là khách du lịch, chưa đánh giá hết yếu tố lịch sử cũng nhưng đặc điểm kiến trúc các điểm di tích dọc sông Hương. Trong nghiên cứu này tác giả xét đến yếu tố tổng thể không gian KTCC, phân loại, đánh giá tổng quát đặc trưng cũng như giá trị quỹ KTCC hai bờ sông Hương làm cơ sở đề xuất giải pháp bảo tồn, phát triển bền vững.

(9)

2

Một số nét đặc trưng trong quy hoạch xây dựng Khu phố Tây ở Huế thời kỳ Pháp thuộc của TS. kts Nguyễn Vũ Minh đã nêu ra được lịch sử và đặc điểm hình thành và phát triển mở rộng các khu phố dọc bờ Nam sông Hương, các đặc trưng chủ yếu trong quy hoạch kiến trúc cảnh quan khu phố Tây ở Huế lấy sông Hương làm trục bố cục của quy hoạch và phát triển đô thị. Tuy nhiên nghiên cứu vẫn chưa đi sâu vào các đặc trưng KTCC dọc sông Hương trong quá khứ và hiện nay.

Luận án Tiến sĩ, Chuyên ngành Kiến trúc, Đại học Kiến trúc Hà Nội của kts Dư Tôn Hoàng Long (2020) về “Sự hòa nhập của kiến trúc thuộc địa Pháp với các thuộc tính đô thị Huế” đã khảo sát và đánh giá khá cụ thể về mức độ hòa nhập của các công trình kiến trúc thuộc địa Pháp trên địa bàn thành phố Huế. Phần lớn các công trình này nằm rải rác ở bờ Nam sông Hương. Tuy nhiên luận án chưa nghiên cứu về các thể lại KTCC khác ngoài công trình Pháp thuộc dọc sông Hương.

Báo cáo quy hoạch chi tiết hai bờ sông Hương và dự án thí điểm do tổ chức KOICA Hàn Quốc thực hiện đã đưa ra những phân tích khá chi tiết và cụ thể về thực trạng và giải pháp cho không gian kiến trúc hai bờ sông Hương. Tuy nhiên giải pháp đưa ra chưa xét trong bối cảnh phát triển du lịch và nhu cầu du lịch sinh thái, du lịch văn hóa đang tăng cao tại thành phố Huế. Báo cáo vẫn còn mang tính chủ quan, chưa chú trọng việc lấy ý kiến và khảo sát đối tượng là khách du lịch, chưa đánh giá hết yếu tố lịch sử cũng nhưng đặc điểm kiến trúc các điểm di tích dọc sông Hương.

II. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Kiến trúc và du lịch tại thành phố Huế có một mối liên hệ hết sức mật thiết.

Hình thái KTCC trục cảnh quan dọc sông Hương là một trong những nhân tố quan trọng trong sự phát triển du lịch Huế.

Hiện nay các công trình công cộng trục cảnh quan dọc sông Hương đang phát triển mạnh đặc biệt các công trình công cộng phục vụ du lịch. Các kiến trúc này được biết như bến thuyền, đường đi bộ, cầu đi bộ, chòi nghỉ, nhà vệ sinh công cộng, bãi đỗ xe, nhà hàng,…

Tuy nhiên hiện nay chưa có một nghiên cứu cụ thể định hướng cho sự phát triển này do đó hiện trạng phát triển đang tự phát, cục bộ, không mang tính tổng thể, không có gắn kết dẫn đến việc đi ngược lại với phát triển du lịch bền vững.

(10)

3

Vấn đề nghiên cứu đặt ra là rất cấp thiết nhằm chứng minh sự bất cập và so sách với các mô hình phát triển bền vững phục vụ du lịch sông nước. Từ đó đưa ra được những định hướng và giải pháp tối ưu nhất nhằm phát triển bền vững hình thái KTCC dọc hai bờ sông Hương phục vụ du lịch thành phố Huế.

III. MỤC TIÊU ĐỀ TÀI

Tìm ra đặc trưng khác biệt tạo nên hình thái KTCC hai bờ sông Hương thành phố Huế nhằm phục vụ việc bảo tồn và phát triển. Phân loại giá trị và khoanh vùng mức độ can thiệp bảo tồn phát triển không gian KTCC hai bờ sông Hương. Đề xuất giải pháp tổng quát và cụ thể nhằm phát triển bền vững không gian KTCC hai bờ sông Hương dựa trên các tiêu chí phát triển bền vững.

VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để đạt dược những mục tiêu đã đề ra như trên, đề tài đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu như sau:

Phương pháp phân tích và tổng hợp các thông tin thứ cấp có sẵn: Thu thập các tài liệu, nghiên cứu có liên quan trước đây như bài báo, tạp chí, đề tài nghiên cứu, hình ảnh, bản đồ, bản vẽ,… Qua đó, tổng hợp chung về tổng quan những nghiên cứu hình thái KTCC phục vụ du lịch hai bờ sông Hương phạm vi Thành phố Huế.

Phương pháp khảo sát thực địa: Số liệu sơ cấp của đề tài chủ yếu dựa vào khảo sát thực địa qua quan sát, chụp ảnh hiện trạng, đo vẽ kiến trúc.

Phương pháp điều tra xã hội học: Nhóm tác giả đề tài tiến hành phỏng vấn, lấy ý kiến người dân địa phương, khách du lịch, chuyên gia, các nhà nghiên cứu Huế, các kiến trúc sư và nhà chuyên môn.

Phương pháp phân tích, tổng hợp: Các yếu tố kiến trúc khảo sát được định vị vị trí trên nền bản đồ Google maps. Các số liệu thu thập từ khảo sát thực địa được số hóa 2D bằng phần mềm AutoCad. Các dữ liệu cũng được tổng hợp, phân tích thành các bảng biểu, bảng thống kê bằng phần mềm Excel. Cuối cùng, đưa ra đề xuất giải pháp nhằm phát triển bền vững hình thái KTCC phục vụ du lịch trục cảnh quan bờ sông Hương thành phố Huế.

(11)

4

V. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu

Hình thái KTCC phục vụ du lịch bao gồm: Các công trình KTCC, hạ tầng công cộng, đường giao thông công cộng, cây xanh, mặt nước, các trang thiết bị KTCC.

2. Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu khoảng không gian 100m tính từ mép nước vào sâu trong phần đất dọc hai bờ sông Hương đoạn chảy qua thành phố Huế. Dựa vào các đặc điểm văn hóa xã hội, quy hoạch và kiến trúc có thể chia ra làm 3 khu vực nghiên cứu:

Khu vực 1 – KV1 (thượng nguồn) – từ cầu Tuần đến cầu Dã Viên thuộc địa bàn phường Kim Long, xã Hương Long, xã Hương Hồ, phường Phường Đúc, phường Thủy Biều, xã Thủy Bằng.

Khu vực 2 – KV2 (trung tâm thành phố) – từ cầu Dã Viên đến Đập Đá thuộc địa bàn phường Phú Thuận, phường Phú Hòa, phường Vĩnh Ninh, phường Phú Nhuận, phường Phú Hội.

Khu vực 3 – KV3 – từ Đập Đá đến cầu Chợ Dinh thuộc địa bàn phường Phú Cát, phường Phú Hiệp, phường Phú Hậu, phường Vĩ Dạ, xã Phú Thượng.

VI. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

Phân tích đặc trưng hình thái KTCC dọc sông Hương và sự khác biệt của nó.

Lập danh mục đánh giá các công trình KTCC theo thang giá trị, khảo sát, phân tích tổng hợp nhằm khoanh vùng bảo tồn và phát triển. Từ đó có giải pháp phát triển phù hợp.

Đánh giá hiện trạng tổng quát, đề xuất tiêu chí phát triển bền vững trong bối cảnh nghiên cứu.

Lấy ý kiến khảo sát nhằm đề xuất những giải pháp định hướng phát triển bền vững hình thái KTCC dọc bờ sông Hương khu vực thành phố Huế hiện nay và trong tương lai hướng đến phục vụ tốt du lịch di sản, du lịch sinh thái.

(12)

5

B. NỘI DUNG

CHƯƠNG1: TỔNG QUAN KTCC

TRỤC CẢNH QUAN BỜ SÔNG HƯƠNG THÀNH PHỐ HUẾ

1.1. Lịch sử dòng sông Hương và sự hình thành trục cảnh quan hai bờ sông Hương Theo như các tài liệu lịch sử, bắt đầu từ thời kỳ Huế bị vương quốc Chămpa thống trị thì lưu vực sông Hương đã là một khu vực trung tâm có vị trí quan trọng ở miền Bắc vương quốc Chămpa. Vào khoảng thế kỷ thứ 7, người Chămpa đã xây dựng tường thành quy mô lớn để phòng ngự ở Thượng lưu sông Thành Lồi (hiện tại là Phường Đúc của TP Huế), và ở khu vực hợp lưu ở hạ lưu cũng đã xây dựng tường thành lớn để phòng ngự. Là tiền thân của đô thị Huế sau này.

Sông Hương hoang vắng xưa kia thuộc châu Lý, được Chế Mân, vua Chămpa trao cho nhà Trần như một phần tặng phẩm để cưới công chúa Huyền Trân năm 1306, nhưng sau cái chết của Chế Mân, quan hệ Việt Nam – Chămpa trở nên căng thẳng.

Mảnh đất mới ở biên cương phía nam với “toà thành Hoá Châu nằm khoá chặt lấy cửa sông” Linh Giang, tên gọi thuở đó của sông Hương, là nơi diễn ra những trận thuỷ chiến ác liệt, cả với quân Chămpa và quân Minh. [5]

Nửa sau thế kỷ XVI, khi Nguyễn Hoàng đến phía nam dãy Hoành Sơn mưu đồ

“dung thân vạn đời” thì cư dân hai bên bờ sông Hương đã hình thành. Năm 1636 khi Nguyễn Phúc Lan (chúa Thượng) dời phủ chúa từ Phước Yên (Quảng Điền) vào Kim Long, sau đó Nguyễn Phúc Thại (chúa Nghĩa) dựng phủ mới ở Phú Xuân, Nguyễn Phúc Khoát (Võ Vương) xây dựng Chính Dinh và Đô Ấp, bộ mặt hai bên bờ sông Hương trù phú hẳn. Năm 1776, Lê Quý Đôn vào Phú Xuân đã mô tả “Chính Dinh … trông xuống bến sông, đằng trước là quần sơn chầu về la liệt, vật lực thịnh giàu”. Ông đã liệt kê trên hai chục công trình kiến trúc phủ, điện, đài, gác, tạ, đình, hiên, am, công đường… “mái ngói nguy nga, đài cao rực rỡ, tường bao quanh, cửa bốn bề khắc chạm, vẽ vời, khéo đẹp cùng cực… Nhà vườn của các công hầu quyền quý thì chia bày ở hai bờ phía thượng lưu sông Phú Xuân, cùng hai bờ sông con bên phải ở Phủ Cam. Ở thượng lưu, hạ lưu phía trước Chính Dinh thì phố chợ liền nhau, đều là mái ngói. Cây to bóng mát, tả hữu thành hàng. Thuyền buôn bán, đò dọc ngang, đi lại như mắc cửi”.

(13)

6

Sông Hương trở thành mạch máu kinh tế của Phú Xuân, thuyền buôn trong và ngoài nước, theo sông Hương cập bến cảng Thanh Hà là nơi đô hội nổi tiếng. Khi những gò nổi trước bến sông bị bồi đắp thành cồn, buôn bán không thuận lợi, thuyền buôn lại cập bến phố Lở, Bao Vinh, đem đến cả tơ lụa, đồ sứ, trái cây ướp muối, đường, đồ chơi trẻ em… của Trung Quốc, Nhật Bản và mua đi trầm hương, ngà voi, mật ong, cau khô, hồ tiêu và các đặc sản địa phương. Dọc theo sông dần dần hình thành những chợ lớn như chợ Phú Xuân, chợ Dinh với những chuyến đò ngang Phú Xuân thượng – Phú Xuân hạ, chợ Dinh – Cồn Hến, Cồn Hến – Vĩ Dạ, đò dọc khứ hồi Phú Xuân – Tư Hiền, chợ Dinh – Ai Tử, chợ Sãi, Cam Lộ, Phả Lại, ngược xuôi trên sông. [5]

Khi họ Nguyễn bị quân Lê – Trịnh đánh đổ (1775), sông Hương bớt náo nhiệt.

Nhưng 11 năm sau (1786) những chiến thuyền dũng mãnh của Nguyễn Huệ đã theo sông Hương, thừa dịp nước dâng sát chân thành, kết hợp với bộ binh vây đánh thành Phú Xuân, quân Trịnh tan tát. Và cũng chính bên bờ sông này, quy tụ quanh Quang Trung- Nguyễn Huệ, những danh sĩ đương thời như Trần Văn Kỷ, Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích, công chúa Ngọc Hân, Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng… đã sống một phần đời đầy sôi nổi, sáng tạo và cống hiến.

Năm 1801 Nguyễn Anh đưa thuỷ binh trở lại đánh chiếm Phú Xuân, xây dựng cơ nghiệp lâu dài của triều Nguyễn. Kinh thành Thuận Hoá được Gia Long cho khởi công, lấy núi Ngự làm “tiền án”, lấy hai gò nổi giữa sông Hương làm thế “tả phò hữu bật”, “tả thanh long hữu bạch hổ”. Sông Hương bị nắn dòng đổ nước bao lấy kinh thành, các nhánh sông Kim Long, Bạch Yến được điều chỉnh, sông Đông Ba, sông An Hoà, sông Kẻ Vạn, Ngự Hà được đào mới, tạo thế sông bảo vệ kinh thành.

Hình 1.1. Sự phát triển đô thị dọc sông Hương qua các thời kỳ (nguồn: KOICA)

(14)

7

Năm 1836 Minh Mạng tuyển chọn 153 cảnh vật tiêu biểu, từ tinh tú, núi sông, chim thú, cây cỏ, thành luỹ, vũ khí, xe thuyền,… để khắc chạm vào Cửu Đỉnh, đặt uy nghi trước Thế Miếu, tượng trưng cho thế bền vững của nhà Nguyễn. Sông Hương và núi Ngự được Minh Mạng dành riêng, đưa lên Nhân đỉnh, chiếc đỉnh tượng trưng cho triều đại của chính Minh Mạng. Thiệu Trị làm hai mươi bài vịnh “Thần kinh nhị thập cảnh”, cho khắc vào bia đá dựng ở hai mươi điểm có cảnh đẹp, mong ước sông Hương sẽ là nguồn nước sâu thẳm bảo vệ đế thành cho nhà Nguyễn (nhất phiến uyên nguyên hộ đế thành).

Năm 1873 sau thất bại mất thành Hà Nội và một số tỉnh phía bắc, nhà Nguyễn phải ký hiệp ước hoà bình và liên minh 15-3-1874. Con sông “nhất phiến uyên nguyên hộ đế thành” mà Thiệu Trị mơ tưởng trở thành “nhất giang lưỡng quốc” (một sông hai nước). Bên bờ nam là bộ máy xâm lược của thực dân, bên kia là chiếc ngai vàng bốn tháng ba vua đang lung lay.

Đêm 22 tháng năm Ất Dậu (4-7-1885) cuộc tiến công của Tôn Thất Thuyết vào kinh thành Huế thất bại để lại bên bờ sông Hương một Kinh thành tàn lụi, lần lượt đón các hoàng thân, quốc thích, quan lại thoả hiệp trở về, lập lại bộ máy thống trị bù nhìn dưới bóng thực dân. Hình ảnh những chiếc thuyền rồng rực rỡ màu vàng son, rộn ràng ca nhạc do các đội lệ thuyền kéo trên sông Hương dần dần nhường chỗ cho cảnh sinh hoạt ăn chơi. [5]

Phải đợi đến cao trào cách mạng tháng Tám 1945, sông Hương mới sống dậy, náo nức với hàng vạn 21 bước chân rầm rập qua cầu Trường Tiền, hàng trăm chuyến đò cập bến Đập Đá, Thừa Phủ, đưa người dân đổ về sân vận động dự mitting “ra mắt”

Uỷ ban khởi nghĩa Thuận Hoá ngày 23-8-1945. Hàng vạn đồng bào Thừa Thiên Huế, thay mặt cả nước, tận mắt nhìn Bảo Đại giao ấn kiếm cho đại diện của Chính phủ Cách mạng lâm thời trong khí thế đổi đời của cách mạng; nhìn cờ đỏ sao vàng bay trên đỉnh cao của Kỳ đài Huế, in màu đỏ lồng lộng giữa trời xanh, dội bóng xuống dòng sông Hương.

Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ (1946-1954), trên vùng đầu nguồn sông Hương, lớp lớp gái trai, già trẻ lại vạch rừng mở chiến khu Dương Hoà; luồn sâu vào khe Bún để lập xưởng in, trạm xá, xưởng dệt vải xi-ta kháng chiến. Thuyền của một số người dân lại ngược dòng sông Hương, lên chiến khu lập vạn đò Độc Lập.

(15)

8

Trong kháng chiến chống Mỹ (1955-1975), chiến khu đầu nguồn sông Hương một lần nữa lại tiếp thêm sức sống, chỉ đạo, động viên nhân dân Huế đi vào cuộc chiến đấu mới, liên tục làm bùng nổ phong trào kháng chiến mới. Dọc hai bờ sông Hương những cuộc mitting, biểu tình, chiếm đài phát thanh, đốt Nhà Thông tin, Toà Lãnh sự,… diễn ra sôi nổi. Sông Hương cũng như những dòng sông anh hùng trên đất nước đã vùng lên, nhận chìm nhiều đội quân xâm lược. [5]

Sông Hương, một dòng sông đẹp, dòng sông lịch sử, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một giải lụa; hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải; với những mảnh vườn và con người xứ Huế là nguồn cảm hứng vô tận của những nghệ sĩ, là sự thu hút say mê với khách phương xa.

Hình 1.2. Sự phát triển đô thị dọc bờ Nam sông Hương qua các thời kỳ (nguồn: Dư Tôn Hoàng Long)

(16)

9

1.2. Các thể loại công trình KTCC tiêu biểu trục cảnh quan hai bờ sông Hương 1.2.1. Kinh thành, Hoàng thành và Tử cấm thành

Đại diện cho nguồn tài nguyên du lịch Huế và được công nhận là công trình di sản văn hóa UNESCO (Complex of Hue Monuments) vào năm 1993, và vẫn đang được bảo tồn quản lý với tư cách là một khu vực trọng tâm về bảo tồn di tích văn hóa.

Hiện tại, căn cứ theo như Quy hoạch vùng Tỉnh Thừa Thiên Huế 2030 (năm 2012) đã hình thành nên quy hoạch năng động hóa và bảo tồn nguồn tài nguyên văn hóa lịch sử thành phố Huế.

Hiện tại đối với Kinh thành cũng như khu vực Đại Nội (Imperial City and Forbidden Purple City) được định hướng là khu vực trọng tâm phát triển du lịch, và các dự án phục hồi cũng như bảo tồn của UNESCO vẫn đang được thực hiện một cách liên tục, đều đặn. Căn cứ theo nhu cầu, đã mở rộng các công trình cơ sở du lịch (như là công trình tiện ích, công tình nghỉ dưỡng, hệ thống giao thông du lịch nội bộ). [2]

1.2.2. Kỳ Đài, Phu Văn Lâu, Nghênh Lương Đình, Đình Thương Bạc

Kỳ đài: được xây dựng vào năm Gia Long thứ 6 (1807) cùng thời gian xây dựng kinh thành. Đến thời Minh Mạng, Kỳ Ðài được tu sửa vào các năm 1829, 1831 và 1840. Kỳ đài gồm hai phần: đài cờ và cột cờ. Đài cờ gồm ba tầng hình chóp cụt chữ nhật chồng lên nhau. Tầng thứ nhất cao hơn 5,5 m, tầng giữa cao khoảng 6 m, tầng trên cùng cao hơn 6 m. Tổng cộng của ba tầng đài cao khoảng 17,5 m. Từ mặt đất lên tầng dưới bằng một lối đi nhỏ ở phía trái Kỳ Ðài, tầng dưới thông với tầng giữa bằng một cửa vòm rộng 4 m, tầng giữa thông với tầng trên cùng cũng bằng một cửa vòm rộng 2 m. Ðỉnh mỗi tầng có xây một hệ thống lan can cao 1 m được trang trí bằng gạch hoa đúc rỗng. Nền ba tầng lát gạch vuông và gạch vồ, có hệ thống thoát nước mưa xuống dưới. Trước đây còn có hai chòi canh và tám khẩu đại bác. Cột cờ nguyên xưa làm bằng gỗ, gồm hai tầng, cao gần 30 m. Năm Thiệu Trị thứ sáu (1846), cột cờ được thay bằng một cây cột gỗ dài hơn 32 m. Đến năm Thành Thái thứ mười sáu (1904), cột cờ này bị một cơn bão lớn quật gãy, nên sau phải đổi làm bằng ống gang. Năm 1947, khi quân Pháp tái chiếm Huế, cột cờ lại bị pháo bắn gãy một lần nữa. Năm 1948, cột cờ bằng bê tông cốt sắt với tổng chiều cao 37 m hiện nay mới được xây dựng. Thời Nguyễn, trong tất cả các dịp lễ tiết, chầu mừng, tuần du cho đến việc cấp báo đều có

(17)

10

hiệu cờ. Trên đỉnh cột cờ còn đặt một trạm quan sát gọi là Vọng Đẩu. Thỉnh thoảng, lính canh phải trèo lên Vọng Đẩu dùng kính Thiên lý quan sát ngoài bờ biển. Ngày 23/8/1945, sau khi Bảo Đại thoái vị, lá cờ đỏ sao vàng của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thay thế cho lá cờ hình quẻ ly của triều đình Nguyễn. Trong Sự kiện Tết Mậu Thân năm 1968, 8 giờ sáng ngày 31/1/1968, Quân Giải phóng miền Nam chiếm được Kỳ đài và lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được kéo lên trong 26 ngày đêm. Đến ngày 24/2/1968, Đại đội Hắc Báo, thuộc Sư đoàn bộ binh 1 - Quân lực Việt Nam Cộng hòa chiếm lại Kỳ đài và hạ lá cờ này xuống. Ngày 26/3/1975, sau khi giành thắng lợi trong Chiến dịch Huế - Đà Nẵng, lá cờ dài 12 m, rộng 8 m của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lại được kéo lên Kỳ đài. [15]

Phu Văn Lâu: Đây là ngôi nhà hai tầng, quay mặt về hướng nam. Dưới thời vua Minh Mạng, triều đình cho dựng ở hai bên hai tấm bia đá khắc 4 chữ "khuynh cái hạ mã", nghĩa là ai đi qua đều phải cởi mũ và xuống ngựa. Từ năm 1821, sau khi truyền lô, danh sách các khoa danh tiến sĩ được đem niêm yết tại đây. Vì tính cách long trọng như vậy nên hai bên lầu có hai bia đá "khuynh cái hạ mã" nhắc nhở tất cả mọi người đi ngang qua Phu Văn lâu phải "nghiêng nón xuống ngựa" để tỏ lòng kính cẩn. Hai bên mặt trước Phu Văn lâu có đặt hai khẩu súng thần công nhỏ bằng đồng hướng vào nhau.

Phía trước mặt Phu Văn lâu là một tiểu đình nằm kề bên sông Hương gọi là Nghinh Lương Ðình. Ðây là nơi dùng để các vua tắm sông, hóng gió, ngắm cảnh. Phu Văn lâu tuy đã được tu bổ nhiều lần nhưng vẫn giữ nguyên cốt cách đặc trưng của kiến trúc thời Nguyễn. Vào đầu thời Gia Long (1802-1819), đây chỉ là một toà nhà nhỏ có tên Bảng đình, dùng làm nơi công bố các chiếu thư, chỉ dụ của nhà vua hoặc các bảng thi Hội, thi Đình cho dân chúng. Năm 1819, Bảng đình được thay thế bằng một một to kiến trúc hai tầng mái với 16 cây cột, xung quanh không có vách, tạo nét thanh tú và độc đáo với tên gọi là Phu Văn lâu. Phu Văn lâu còn là nơi ban phát lịch hoặc các sinh hoạt vui chơi dành cho dân chúng do triều đình tổ chức...Thời Minh Mạng, nhà vua quy định sau khi các chiếu thư được tuyên đọc ở Ngọ Môn hoặc điện Thái Hoà sẽ được đặt trên long đình, có che lọng và quân lính theo hầu hai bên để đưa ra niêm yết tại Phu Văn lâu. Các quan hàng tỉnh và hương lão phải đến quỳ lạy trước chiếu thư.

Năm 1829 đã từng có một cuộc đấu giữa voi và cọp trước lầu để cho vua Minh Mạng

(18)

11

ra xem. Vào các dịp tứ tuần, ngũ tuần của Minh Mạng có nhiều cuộc vui khác được tổ chức ở đây. Về sau các vua Thiệu Trị, Tự Ðức cũng giữ cái lệ ấy nhân những ngày khánh thọ của mình. Vua Thiệu Trị xem sông Hương và lầu Phu Văn là một trong 20 cảnh đẹp ở chốn Thần Kinh. Năm 1843, Thiệu Trị cho dựng một nhà bia bên phải của lầu để khắc bài thơ Hương Giang Hiểu Phiếm (Buổi sớm bơi thuyền trên sông Hương). Bão năm Giáp Thìn (1904) đã thổi bay lầu Phu Văn, vua Thành Thái đã hạ lệnh xây dựng lại, giống y như cũ. Năm 1916, Trần Cao Vân, Thái Phiên đã giả vờ ngồi câu cá ở bến Phu Văn lâu để bí mật gặp vua Duy Tân bàn việc khởi nghĩa. Chẳng may việc bất thành, vua Duy Tân bị quân Pháp bắt và đày ra đảo Réunion. [15]

Nghênh Lương đình hay Nghênh Lương tạ là một công trình nằm trên trục dọc từ Kỳ đài ra đến Phu Văn Lâu được xây dựng dưới thời Nguyễn dùng làm nơi nghỉ chân của nhà vua trước khi đi xuống bến sông để lên thuyền rồng hoặc làm nơi hóng mát. Đây là một di tích trong quần thể di tích cố đô Huế. Nghênh Lương tạ được xây dựng dưới triều vua Tự Đức thứ 5 (1852), năm Thành Thái thứ 15 (1903) được trùng tu cẩn thận và đến năm Khải Định thứ 3 (1918) lại được tôn tạo thêm một lần nữa để phục vụ vua thường xuyên đến nghỉ mát, từ thời Khải Định về sau gọi là Nghênh Lương đình - chữ Nghênh Lương tạ có nghĩa là nhà Thủy tạ để hóng mát. Trước đây, triều đình cho ngăn con đường đi từ cửa Thể Nhơn (tức Cửa Ngăn) ra Nghênh Lương đình, không cho ai qua lại hoặc thấy mặt vua. Nghênh Lương tạ có kết cấu kiến trúc kiểu phương đình 1 gian 4 chái, phía trước và phía sau đều có nhà vỏ cua nối dài ra.

Bộ khung gỗ ở phần trên, nhất là các vì vỏ cua cùng hệ thống liên ba được chạm trổ công phu. Mái nhà chính lợp ngói ống lưu ly vàng, hai nhà vỏ cua lợp ngói liệt men vàng. Nền Nghênh Lương tạ cao 90 cm, bó vỉa bằng gạch vồ và đá thanh, phía bờ sông có 13 bậc cấp dẫn xuống một hành lang xây sát mặt nước sông Hương. Cảnh quan xung quanh nhà tạ thoáng đãng và rất trữ tình. Xét về cấu trúc không gian ở trục trước mặt Kinh thành, Nghênh Lương tạ là điểm nối kết giữa Kỳ Đài - Phu Văn Lâu - Hương Giang - Ngự Bình. Và đây cũng là vị trí đẹp để ngắm nhìn, cảm nhận vẻ đẹp lãng mạn của sông Hương vào lúc bình minh, khi hoàng hôn hay trong đêm trăng sáng. Nguyên xưa Nghênh Lương tạ là một phần của hành cung Hương Giang dựng từ năm Tự Đức thứ 5 ở bờ bắc sông Hương, trước mặt toà Phu Văn Lâu. Ngoài hành cung này, tại khu vực Huế, các vua Nguyễn còn có nhiều hành cung khác như hành

(19)

12

cung Thần Phù, hành cung Thuận Trực, hành cung Thuận An, hành cung Thúy Vân...

Tất cả các hành cung này đều có dựng nhà tạ để phục vụ nhà vua, tuy nhiên, đến nay duy chỉ có Nghênh Lương tạ của hành cung Hương Giang là còn tồn tại. [15]

Đình Thương Bạc: Năm 1870, vua Tự Đức đã cho xây mới một tòa nhà đặt tên là Thương Bạc (tại địa điểm Nhà văn hóa thành phố hiện nay) để làm nơi tiếp các sứ đoàn. Và trước tòa nhà có xây một ngôi Đình gần bờ sông để tiếp các thương nhân.

Năm Ất Dậu (1885) Tòa Thương Bạc được làm phủ của Nguyễn Văn Tường, rồi thành trường Hậu Bổ, trường Uyên Bác, Cổ Học viện, hiện nay tòa nhà này đã không còn dấu tích và thay vào đó là Nhà Văn hóa thành phố. Ngôi Đình Thương Bạc ở gần bờ sông, năm 1921, vua Khải Định cho xây lại thành một ngôi lầu hình bát giác bằng các vật liệu mới (xi măng, cốt thép). Toàn bộ công trình được dựng trên một nền vuông cao 1,3m, xung quanh có lan can, mặt trước và mặt sau đều có gắn chữ Thương Bạc đúc bằng xi măng. Phần trên là một lầu hình vuông không cao lắm. Phía trong là sân rộng, xây hai hồ bằng xi măng có đắp giả sơn, đứng chầu hai bên hồ cân đối với tòa nhà là 4 con rồng đá chạm trổ tinh vi; hướng ra ngoài phố là 4 trụ biểu hình vuông cao lớn, trên đỉnh đều gắn bông sen, trên mỗi trụ biểu còn gắn câu đối bằng sành sứ ghi lại cảnh đẹp trù phú của Kinh đô Huế. [15]

1.2.3. Chùa, đền thờ, miếu thờ

Chùa Thiên Mụ: Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên - Nguyễn Hoàng. Dưới thời chúa Quốc -Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) theo đà phát triển và hưng thịnh của Phật giáo xứ Đàng Trong, chùa được xây dựng lại quy mô hơn. Năm 1710, chúa Quốc cho đúc một chiếc chuông lớn,nặng tới trên hai tấn, gọi là Đại Hồng Chung, có khắc một bài minh trên đó. Đến năm 1714, chúa Quốc lại cho đại trùng tu chùa với hàng chục công trình kiến trúc hết sức quy mô như điện Thiên Vương, điện Đại Hùng, nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh, phòng Tăng, nhà Thiền... mà nhiều công trình trong số đó ngày nay không còn nữa. Chúa Quốc còn đích thân viết bài văn,khắc vào bia lớn (cao 2m60,rộng 1m2) nói về việc xây dựng các công trình kiến trúc ở đây,việc cho người sang Trung Quốc mua hơn 1000 bộ kinh Phật đưa về đặt tại lầu Tàng Kinh, ca tụng triết lý của đạo Phật, ghi rõ sự tích Hòa thượng Thạch Liêm - người có công lớn trong việc giúp chúa Nguyễn chấn hưng Phật giáo ở Đàng Trong. Bia được đặt trên lưng một con rùa đá rất lớn, trang trí đơn sơ nhưng

(20)

13

tuyệt đẹp. Với cảnh đẹp tự nhiên và quy mô được mở rộng ngay từ thời đó, chùa Thiên Mụ đã trở thành ngôi chùa đẹp nhất xứ Đàng Trong. Trải qua bao biến cố lịch sử, chùa Thiên Mụ đã từng được dùng làm đàn Tế Đất dưới triều Tây Sơn (khoảng năm 1788), rồi được trùng tu tái thiết nhiều lần dưới triều các vua nhà Nguyễn. Năm 1844, nhân dịp mừng lễ "bát thọ" của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu (vợ vua Gia Long, bà nội của vua Thiệu Trị), vua Thiệu Trị kiến trúc lại ngôi chùa một cách quy mô hơn: xây thêm một ngôi tháp bát giác gọi là Từ Nhân (sau đổi là Phước Duyên), đình Hương Nguyện và dựng 2 tấm bia ghi lại việc dựng tháp, đình và các bài thơ văn của nhà vua. [4]

Điện Hòn Chén: Ðiện Hòn Chén là nơi ngày xưa người Chàm thờ nữ thần PoNagar, sau đó người Việt theo Thiên Tiên Thánh Giáo tiếp tục thờ bà với danh xưng là Thánh Mẫu Thiên Y A Na. Điện Hòn Chén nguyên là ngôi đền thờ nữ thần PoNagar (Nữ Thần Mẹ xứ sở) của người Chăm. Theo truyền thuyết dân gian Chăm, nữ thần PoNagar là con của Ngọc hoàng Thượng đế được sai xuống trần gian, bà có công lao tạo ra trái đất và các loại gỗ trầm, lúa gạo. Hương mộc và kỳ nam là thứ gỗ tượng trưng cho sự linh hiển của Nữ thần. Bà còn làm tỏa hương gạo ngọt ngào, cổ vũ dân trồng cây bồ đề. Tiếp nhận từ người Chăm một di tích tôn giáo độc đáo như điện Hòn Chén, người Việt dễ dàng dung hợp được cả một tín ngưỡng thần linh mang sắc thái riêng của người Chăm. Có lẽ vị Nữ thần của dân tộc Chăm xét trên bình diện tâm linh có nét tương đồng với các Nữ thần của người Việt. Đây được xem là sự hòa nhập về tôn giáo hay còn gọi là bản địa hóa . Để ký âm cho danh từ PoNagar bằng Hán văn, các Nho sĩ ngày xưa đã phải tạo ra một âm hưởng hao hao và mang một ý nghĩa tương đương nhất định bằng bốn chữ Hán: Thiên Y A Na. Tên gọi Thiên Y A Na là tên gọi của người Việt hay còn gọi là mẹ Xứ Sở theo tín ngưỡng của các vùng khác như Nha Trang - Khánh Hòa, v..v.. Từ năm 1954, Liễu Hạnh Công Chúa, tức là Vân Hương Thánh Mẫu cũng được đưa vào thờ ở đây. Ngoài ra, tại điện Hòn Chén, người ta còn thờ Phật, thờ Thánh Quan Công và hơn 100 vị thần thánh khác thuộc vào hàng đồ đệ của các thánh thần nói trên. Vua Ðồng Khánh cũng là một trong những đồ đệ ấy. Điện Hòn Chén được vua Minh Mạng cho tu sửa và mở rộng vào tháng 3/1832. Sau đó hai năm, đền lại được trùng tu. Như vậy, xét về mặt tín ngưỡng, điện Hòn Chén bố cục thờ không theo nguyên tắc, mà phối thờ nhiều tín ngưỡng khác nhau. Từ năm 1883 đến năm 1885, vì gặp một giai đoạn éo le của lịch sử triều Nguyễn, vua Ðồng Khánh chờ đợi mãi vẫn chưa được lên nối ngôi cha nuôi là vua Tự Ðức. Ông nhờ mẹ là bà Kiên

(21)

14

Thái Vương lên đền Ngọc Trản cầu đảo và hỏi Thánh Mẫu Thiên Y A Na xem mình có làm vua được không. Mẫu cho biết ông sẽ toại nguyện. Bởi vậy, sau khi tức vị, năm 1886, vua Ðồng Khánh liền cho xây lại đền này một cách khang trang, làm thêm nhiều đồ tự khí để thờ, và đổi tên ngôi đền là Huệ Nam Ðiện để tỏ lòng biết ơn Thánh Mẫu.

Huệ Nam nghĩa là ban ân huệ cho nước Nam, vua Nam. Có một điều kỳ lạ, chính vua Ðồng Khánh đưa cuộc lễ hằng năm tại đây vào hàng quốc lễ và tự nhận mình là đồ đệ của Thánh Mẫu, mặc dù nhà vua chỉ gọi thánh mẫu bằng "Chị". Theo nguyên tắc xưa, ông vua nào cũng đứng trên các thánh thần trong cả nước, nhưng ở đây vua Ðồng Khánh lại hạ mình xuống làm "em" của Mẫu. Hiện nay trong đền vẫn còn thờ vài bức tranh ảnh của chính nhà vua được treo ở đây. [15]

Văn Thánh (Văn Miếu): được xây dựng ngoài việc thờ Khổng Tử còn thờ Tứ Phối: Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư và Mạnh Tử, cùng Thập Nhị Triết. Nơi đây được xây dựng vào năm 1808 trong khoảng thời gian mà vua Gia Long trị vì, sau đó được tiếp tục chỉnh trang bởi vua Minh Mạng và vua Thiệu Trị.Trong khoảng từ năm 1822 đến năm 1919 đã xây dựng 32 tấm bia đá trên đó có khắc tên của 293 vị học giả nổi tiếng. [2]

Võ Thánh (Võ Miếu): được lập ra để tôn vinh những công thần đã đóng góp nhiều công lao cho triều đại, mục đích động viên những người theo đòi võ nghiệp mong lập được chiến tích để lưu danh muôn thuở Triều Nguyễn lập ra Võ Miếu để khuyến khích nhân tài, tỏ sự công bằng giữa văn và võ. [2]

1.2.4. Hệ thống các Lăng Vua

Được bắt đầu xây dựng vào năm 1814 trong khoảng thời gian trị vì của vua Gia Long và hoàn thành vào năm 1820.Vị trí lăng nằm ở phía Nam núi Thiên Thọ khu vực thượng lưu sông Hương, cách hoàng thành Huế khoảng 16km về hướng Tây Nam và phía trước lăng là hồ bán nguyệt.

Lăng Minh Mạng là lăng của vị vua thứ 2, được khởi công xây dựng vào năm 1840 và hoàn thành vào năm 1843. Lăng quay mặt về hướng đông phía bờ Bắc sông Hương và cách hoàng thành Huế khoảng 12km về phía Tây Nam. Các hồ sen xung quanh lăng kết nối với sông Hương nhờ vào hệ thống thành hào. [5]

Lăng của vị vua thứ 3 vua Thiệu Trị, được người con trai là vị vua thứ 4 vua Tự Đức thiết kế xây dựng vào năm 1847. Lăng quay mặt về hướng Tây Bắc, nằm ở phía

(22)

15

Đông sông Hương và cách hoàng thành Huế khoảng 6km về hướng Tây Nam. Xung quanh được bao bọc bởi núi và các cánh đồng lúa, vườn cây xanh rờn.

Lăng của vị vua thứ 4 vua Tự Đức, lăng được vua Tự Đức trực tiếp thiết kế xây dựng trong khoảng thời gian ông trị vì, bắt đầu xây dựng vào năm 1864 và hoàn thành vào năm 1867, và có một khoảng thời gian thi công bị gián đoạn. Lăng quay mặt về hướng Đông, nằm ở phía đông sông Hương cách hoàng thành Huế khoảng 4km về phía Tây Nam. Lăng Tự Đức cùng với lăng Minh Mạng được xem là một trong số những lăng tẩm đẹp nhất của các vị vua ở Huế. [5]

Lăng của vị vua thứ 5 của triều đại nhà Nguyễn - vua Dục Đức, sau khi vua lên ngôi vào năm 1883 thì ít lâu sau ông mất, tuy nhiên vào khoảng 6 năm sau sau khi con của ông là vua Thành Thái lên ngôi thì mộ vua Dục Đức mới được xây dựng đàng hoàng, và vào năm 1945 thì mộ của vua Thành Thái và con của ông là vua thứ 11 vua Duy Tân được xây dựng bổ sung vào khu vực lăng mộ của vua Dục Đức. Khu vực lăng mộ này nằm khá gần hoàng thành và có vị trí trung tâm nên rất dễ dàng tiếp cận.

Lăng của vua Đồng Khánh vị vua thứ 9 của triều Nguyễn, lăng được xây sau khi vua Đông Khánh qua đời, và về sau vua Thành Thái và vua Khải Định đã cho xây dựng thêm.

Lăng Khải Định- lăng của vị vua thứ 12 triều Nguyễn, lăng được xây dựng trong khoảng thời gian ông trị vì, khởi công vào năm 1920 và hoàn thành vào năm 1931. Đây là lăng mộ chịu sự ảnh hưởng của kiến trúc Pháp, vì vậy đây là khu lăng mộ có hình thức kiến trúc kết hợp giữa kiến trúc truyền thống và kiến trúc của phương Tây. Đồng thời đây cũng là lăng mộ cuối cùng của triều Nguyễn, mang cấu trúc không gian lăng mộ Việt Nam và trang trí bên trong rất tráng lệ. [5]

1.2.5. Nhà vườn Huế

Dọc bờ sông Hương đặc biệt khu vực Kim Long, Vĩ Dạ xuất hiện nhiều nhà vườn là hình thức kiến trúc nhà ở đặc trưng. Nhà vườn Huế chủ yếu được xem là nơi sinh sống của giới quý tộc thượng lưu hoặc dòng dõi gia tộc hoàng gia vào thời nhà Nguyễn. Được xây theo luật “dịch lý” và “phong thủy”, nhà vườn Huế là tập hợp của một hệ thống kiến trúc sắp xếp theo chiều Bắc-Nam. Tuy rộng hẹp khác nhau, nhưng nhà nào cũng có kiến trúc tổng thể giống nhau, bao gồm: cổng, ngõ, bình phong, hòn

(23)

16

non bộ, bể cạn, sân, nhà. Cổng thường xuyên xây bằng gạch, lối vào ngõ thường được trồng những hàng râm bụt hoặc chè tàu cắt xén cẩn thận. Bình phong cũng thường xây bằng gạch. Sau bình phong là bể cạn có hòn non bộ, một mảnh sân rộng rồi mới đến nhà. Xung quanh nhà trồng rất nhiều cây, hoa quanh năm tươi tốt. Trong khu nhà vườn ấy, không thể không nói tới ngôi nhà rường cổ. Nhà rường thường được làm bằng gỗ, chúng được cầu kỳ hóa bằng nhiều nét văn hoa chạm trổ, trong liên kết của kết cấu nhà, thay cho đóng đinh là kỹ thuật mộng tinh xảo. Nhà rường có nhiều dạng: một gian hai chái, ba gian hai chái, năm gian hai chái, nhà rường lầu… rường là cách nói ngắn gọn của rường cột, nhà có hệ thống cột kèo gỗ được dựng lên theo những quy cách nhất định. Dù lớn đến đâu, nhà rường cũng được kết cấu hoàn toàn bằng chốt, mộng gỗ để có thể lắp ráp và tháo dỡ dễ dàng. Trong nhà bày sập gụ, tủ chè, treo hoành phi, câu đối, đồ đạc được bài trí hài hòa hợp lý, tạo cho nhà rường cái thần thái riêng biệt.

Nhìn cảnh quan một nhà vườn Huế, người ta dễ dàng nhận ra được tâm hồn và phong cách sống của chủ nhân. Nhà vườn Huế thể hiện sự hòa hợp giữa đời sống con người và cây cỏ, giữa nếp sống tinh thần và vật chất, tất cả đều bổ sung cho nhau, để tạo nên sự cân bằng trong cuộc sống. Một số nhà vườn hiện nay còn nguyên vẹn, tiêu biểu như nhà vườn An Hiên, nhà vườn công chúa Ngọc Sơn, Lạc Tịnh, nhà vườn Ý Thảo… [16]

1.2.6. Đường đi bộ, công viên, quảng trường, đài tưởng niệm

Đường Nguyễn Đình Chiểu nằm trên địa bàn hai phường Phú Nhuận và Vĩnh Ninh, sát bờ Nam sông Hương, khởi đầu từ đường Lê Lợi (sát chân cầu Trường Tiền), chạy men theo sông Hương qua ngã ba đường Phạm Hồng Thái đến đường Bà Huyện Thanh Quan, dài 560m. Đường này ô tô chỉ được lưu thông một chiều, cấm xe tải xe ca hạng lớn. Đường hình thành từ đầu thế kỷ 20, cùng thời với việc người Pháp xây dựng khách sạn Morin. Từ năm 1955 trở về trước, đường này thường được gọi là Bờ sông Pát-tơ (Quai Pasteur). Sau năm 1956, đặt tên là đường Nguyễn Đình Chiểu cho đến ngày nay. Đường này trước năm 1990 chỉ dài hơn 300m, đoạn còn lại được mở tiếp từ năm sau năm 1991 đến năm 2002 mới hoàn chỉnh. Là con đường chỉ một mặt phố có nhà ở quay ra sông Hương. [15]

Đường đi bộ trên sông Hương: Là nỗ lực của tình hữu nghị Việt Nam – Hàn Quốc, công trình được khởi công từ năm 2018 nằm trong Dự án Quy hoạch chi tiết hai bờ sông Hương. Với cổng bằng pháp lam, một bên là công viên với nhiều cây xanh,

(24)

17

hoa thơm cỏ lạ, một bên là dòng sông Hương, cây cầu hiện là một địa điểm check in lý tưởng, một không gian mới thú vị cho giới trẻ. Cầu có diện tích mặt sàn 2440m2 được lát bằng gỗ lim Nam Phi đắt đỏ dày 5cm. Việc lựa chọn gỗ lim vừa cứng, bền, lại thân thiện với môi trường đã tạo nên giá trị cho chiếc cầu. Cầu có chiều dài khoảng 450m, rộng 4m cùng với hệ thống lan can 2 bên là 4100 thành đồng (nặng 7 tấn) nhập từ Hàn Quốc. Ngoài ra, cầu còn được đặt thêm nhiều bồn hoa, cây cảnh tạo không gian xanh mát dọc hành lang. [16]

Đài tưởng niệm chiến sĩ trận vong: Đài tưởng niệm những binh sĩ người Pháp và người Việt đã bỏ mạng trong cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), tọa lạc sát bờ nam sông Hương, trước mặt trường Quốc Học Huế. Đài được khởi công xây dựng ngày 12/5/1920, hoàn thành ngày 18/9/1920. Đồ án thiết kế đài tưởng niệm này của ông Tôn Thất Sa, giáo viên hội họa trường Bá Công Huế. Đài được xây dựng dưới hình thức một chiếc bình phong truyền thống có mái che giả ngói. Thân và bệ đài được trang trí bằng các mô típ rồng, lân, chữ thọ cách điệu, mai, lan, cúc, trúc hết sức linh hoạt, và đạt hiệu quả cao. Phía trước đài, xây hai trụ biểu cao bằng gạch khiến đài càng có vẻ uy nghiêm. Mặt trước thân đài trước đây có ghi tên 31 người Pháp và 78 người Việt sau bị xóa. Đài tưởng niệm chiến sĩ Trân Vong tuy xây dựng theo đường lối mị dân của thực dân Pháp nhưng lại bị một di tích có giá trị về kiến trúc, nghệ thuật. Di tích này đặc biệt phù hợp với trường Quốc Học và cảnh quan cổ kính thơ mộng bên dòng sông Hương. [2]

1.2.7. Cầu bắt qua sông Hương

Cầu Trường Tiền: nguyên cây cầu bằng sắt này do Hãng Schneider et Cie et Letellier thiết kế, khởi công vào tháng 5 năm 1899 và khánh thành vào ngày 18 tháng 12 năm 1900. Cơ bản cầu có 6 vài, mỗi vài dài 66,66 mét. Mặt cầu rộng 4.5 m và có hai lề đường hai bên, mỗi bên rộng 0,75m. Chí phí hoàn thành là 732.456 Francs. Trận lụt năm Thìn (11/9/1904) đã cuốn trôi 4 vài xuống sông. Hãng Daydéet Pillé được giao cho việc sửa chữa hai vài cầu còn lại và làm 4 vài cầu mới khác theo kiểu cũ. Năm 1907, khi vua Thành Thái bị thực dân Pháp đày sang đảo Réunion, thì chính quyền thực dân Pháp cho đổi tên là cầu Clémenceau, theo tên của Georges Clemenceau, một Thủ tướng Pháp thời Thế chiến thứ nhất. Trong những năm 1905-1915, mặt cầu được phủ lớp bê tông cốt sắt. Cầu bị xuống cấp do rỉ sét và lưu lượng qua lại ngày càng

(25)

18

nhiều nên chính phủ thời đó đã thương lượng với Hãng Eiffel (tên lúc đó là Công ty Xây dựng Levallois Perret - La Société Constructions Levallois-Perret) tìm phương pháp tu bổ cây cầu này. Theo đó, các nhà chuyên môn đã quyết định: thay thế những khung dần sắt bị hư hỏng, mặt cầu đúc xi măng cốt sắt, lòng đường rộng hơn, hai lề đường cho người đi bộ rộng 1,95, làm ra phía ngoài và mỗi chỗ trụ cầu phải nới rộng hơn để làm chỗ tránh. Toàn bộ cầu được sơn phủ nhiều lớp để trảnh rỉ sét. Chi phí nâng cấp lần này là 435.000 $. Ngày 20 tháng 6 năm 1937, Hãng Eiffel - lúc đó mang tên mới là Anciens Etablissements Eiffel - dưới sự chỉ huy của giám đốc - kỹ sư Martin André đã tiến hành thi công mở rộng cầu. Vào tháng 11/1939, sau 29 tháng thi công, cầu Tràng Tiền hoàn thành. Năm 1945 chính phủ Trần Trọng Kim đổi tên là cầu Nguyễn Hoàng. Năm 1946, trong chiến tranh Việt - Pháp, cầu bị Việt Minh đặt mìn, giật sập hai nhịp phía tả ngạn. Hai năm sau cầu được tu sửa tạm để qua lại. Năm 1953, cầu được sửa chữa hoàn chỉnh như cũ. Trong Sự kiện Tết Mậu Thân, trụ 3 và nhịp 4 bị phá hủy, khi quân Mặt trận Giải phóng miền Nam cho giật sập để cắt đường phản công của quân đội Việt Nam Cộng hòa. Sau đó, một chiếc cầu phao được dựng tạm lên bên cạnh để nối đôi bờ; rồi cầu được tu sửa tạm thời. Sau khi kết thúc chiến tranh Việt Nam cầu được đổi tên thành "Tràng Tiền"; mãi tới năm 1991 cầu mới được khôi phục lại tên cũ là Trường Tiền, trùng tu lần nữa. Ở lần trùng tu này do Công ty Cầu 1 Thăng Long đảm nhiệm, kéo dài trong 5 năm (1991-1995), có nhiều thay đổi quan trọng, đó là việc dỡ bỏ các ban công ở hành lang hai bên tại vị trí các trụ cầu, lòng cầu (cả đường chính và phụ) bị hẹp lại do phải nẹp thêm hai ống lan can, màu sơn ghi xám thay cho màu nguyên bản từ xưa của cầu là màu nhũ bạc,... Từ Festival Huế năm 2002, cầu Tràng Tiền được lắp đặt một hệ thống chiếu sáng đổi màu hiện đại... và đến năm 2004 cầu lại 1 lần nữa được đổi tên là Trường Tiền. [15]

Cầu Bạch Hổ: Trước khi có "cầu đường bộ Bạch Hổ" (tức cầu Dã Viên), thì nơi đây đã có "cầu sắt Bạch Hổ" dùng cho tàu hỏa. Theo bài viết "Cồn Dã Viên - Bạch Hổ của kinh thành Huế" đăng tải trên website Đài Tiếng nói Việt Nam, thì vào năm 1908, tuyến đường sắt Huế – Quảng Trị được thiết lập, và hai cây cầu Bạch Hổ và Dã Viên có kết cấu bằng thép giống nhau đã được xây dựng. [15]

Cầu Phú Xuân: Lúc mới xây xong (1971), cầu được đặt tên theo tên dòng sông mà nó bắc qua, cầu Sông Hương. Sau năm 1975, nó được chính quyền đổi tên là cầu

(26)

19

Phú Xuân. Nhưng từ ngày chiếc cầu này hoàn thành, người dân địa phương thường gọi một cách nôm na, dễ nhớ, ngắn gọn là cầu Mới, với hàm ý là chiếc cầu được xây dựng gần đây nhất so với cầu Trường Tiền và cầu Dã Viên. [15]

1.2.8. Trường học, bệnh viện, chợ, cơ quan hành chính

Trường THPT Quốc Học: Được xây dựng từ năm 1896 theo chỉ dụ của vua Thành Thái, mới đầu trường có tên là Pháp tự Quốc học Đường với cấp bậc tiểu học chuyên giảng dạy tiếng Pháp, ngoài ra còn có thêm chữ Quốc ngữ, chữ Nho. Trường đã trải qua nhiều lần đổi tên từ trường Quốc học (1896 – 1936), trường Trung học Khải Định (1936 – 1954), trường Trung học Ngô Đình Diệm (1955 – 1956) sau đó vào năm 1956 – nhân kỉ niệm 60 năm thành lập, trường đã được đổi về tên cũ là trường Quốc học. Trường Quốc học được đặt móng trên nền của Dinh Thủy sư (nơi huấn luyện binh lính đường thủy của quân đội triều Nguyễn), ban đầu trường chỉ có ba tòa nhà xây dựng theo kiểu cũ, nhà tranh vách đất nhưng đến khoảng những năm đầu của thế kỉ XX trường được xây cất lại bằng gạch ngói kiên cố theo kiểu Pháp. Ngày nay, khi đã trải qua hơn 100 năm, Quốc học đã được tu sửa khá nhiều và xây thêm dãy nhà mới nhưng trường vẫn giữ được nét riêng của mình. [15]

Trường THPT Hai Bà Trưng: Là một trong những ngôi trường lớn ở miền Trung và trên toàn quốc, được thành lập ngày 15 tháng 7 năm 1917. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, trường mang nhiều tên khác nhau. Từ năm 1919 đến năm 1954, trường mang tên Cao đẳng tiểu học Đồng Khánh. Từ năm 1955 đến năm 1975 là trường Nữ trung học Đồng Khánh gồm hai cấp: Đệ Nhất cấp và Đệ Nhị cấp. Sau ngày hòa bình thống nhất đất nước, trường mang tên Trường cấp III Trưng Trắc, và từ năm 1983 đến nay là trường THPT Hai Bà Trưng. [15]

Bệnh viện Trung ương Huế: Là bệnh viện Tây y đầu tiên của Việt Nam và Đông Dương, thành lập năm 1894, đến nay đã trên 127 năm. Tháng Ba năm 1961, bệnh viện đã được tân trang với sự hỗ trợ của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và xây thêm Khoa Nhi (cũ) với hơn 100 giường. Đến năm 1972 Bệnh viện được xây dựng lại lần thứ 2 với sự hỗ trợ của chính phủ CHLB Đức, KTS Trần Đình Quyền là người thiết kế bệnh viện.

(27)

20

Chợ Đông Ba: Trước khi hình thành chợ Ðông Ba, bên ngoài cửa Chánh Ðông (tức cửa Ðông Ba theo cách gọi dân gian) dưới thời Gia Long có một chợ lớn mang tên Quy Giả thị, nghĩa là chợ cho những người trở về. Tên chợ đánh dấu sự kiện trở lại Phú Xuân của quan quân nhà Nguyễn khi đánh thắng nhà Tây Sơn[3]. Ngoài ra, do được đặt ở gần cửa Chánh Đông của kinh thành nên chợ còn có tên là Đông Hoa. Năm 1885, kinh đô thất thủ, Quy Giả thị bị thực dân Pháp đốt sạch. Năm 1887, vua Đồng Khánh cho xây dựng lại và đổi tên thành chợ Đông Ba (do kỵ tên húy của bà Hồ Thị Hoa, mẹ vua Thiệu Trị). Đến năm 1899, trong công cuộc chỉnh trang đô thị theo phong cách phương tây, vua Thành Thái cho xây dựng lại chợ tại vị trí hiện nay. Còn Đình chợ cũ trở thành trường tiểu học Pháp-Việt Đông Ba. Năm 1967, chính quyền Sài Gòn cho phá chợ cũ và xây lại chợ mới. Công trình đang dang dở thì bị bom Mỹ trong chiến dịch Huế Xuân Mậu Thân (1968) bắn phá tan tành. Sau ngày thống nhất đất nước, chợ được nâng cấp cải tạo lại với quy mô như hiện nay. [15]

1.2.9. Nhà Ga Huế, nhà máy xi măng Long Thọ, nhà máy nước Vạn Niên

Ga Huế: Năm 1908,Ga được người Pháp cho xây dựng với cái tên là ga Trường Súng và là một nhà ga trên tuyến đường sắt Đông Hà - Đà Nẵng.Sau cuộc khởi nghĩa không thành năm 1916,Vua Duy Tân đã bị đưa lên ga Huế để bắt đầu cuộc đày ải sang đảo Réunion thuộc Pháp.Vào ngày 25/2/1946, đã diễn ra hội nghị "Việt Nam Công nhân Hỏa xa Cứu quốc" toàn quốc lần thứ nhất, sáng lập ra tiền thân của Tổ chức Công đoàn Đường sắt Việt Nam, công đoàn ngành đầu tiên thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.Sau Hiệp định Geneve 1954, đường sắt Bắc - Nam bị chia cắt cùng đất nước, ga Huế chủ yếu chỉ còn phục vụ các chuyến tàu quân sự.Sau ngày 30/4/1975, đường sắt Bắc Nam đã được khơi thông.

Nhà máy xi măng Long Thọ: Năm 1885, sau khi chiếm xong kinh thành Huế, thực dân Pháp đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất cho chính quyền cai trị tại Miền Trung lấy Huế làm Thủ phủ. Do đó nhu cầu về vật liệu xây dựng rất lớn. Năm 1896 hãng xây dựng tư nhân Bogaert đã xây dựng xí nghiệp vôi nước Long Thọ nhằm giải quyết nhu cầu nói trên. Nhà máy đặt ở chân đồi Long Thọ trên bờ phải sông Hương, đối diện với chùa Thiên Mụ, cách trung tâm Thành phố Huế chừng 7km về phía Tây, giữa làng Nguyệt Biều và làng Dương Xuân (nay là Thủy Biều và Phường Đúc).

(28)

21

Nhà máy nước Vạn Niên: Nhà máy nước Vạn Niên khởi công xây dựng năm 1909 và hoàn thành vào năm 1911. Huế đã có một nhà máy nước đầu tiên độc đáo, mang dáng vóc của một ngôi chùa nhỏ phương Đông với 5 trụ biểu, mái ngói âm dương và các đầu hồi uốn cong, môtíp của các đình làng. Toàn bộ công trình kiến trúc của một nhà máy công nghiệp nằm hài hoà cùng với cảnh quan hết sức thơ mộng của vùng thượng lưu sông Hương. [15]

1.2.10. Công trình kiến trúc thuộc địa Pháp dọc bờ Nam sông Hương

Xuất phát từ năm 1873 sau thất bại mất thành Hà Nội và một số tỉnh phía Bắc, nhà Nguyễn phải ký hiệp ước hoà bình và liên minh 15-3-1874. Khu phố Tây được hình thành bên bờ Nam sông Hương, đối diện với Kinh thành Huế. Theo một điều khoản trong Hiệp ước ký với triều Nguyễn năm 1874, Pháp cử một phái bộ ngoại giao đến cư trú thường xuyên tại Huế, sau đó vài năm bắt đầu xây dựng nhà cửa để thường trú lâu dài. Từ chỗ trú chân ban đầu này, do những nhu cầu về sử dụng, người Pháp đã quy hoạch và xây dựng tại Huế nhiều công trình kiến trúc Pháp có giá trị về kiến trúc, văn hóa và nghệ thuật. Ban đầu phong cách kiến trúc nhà Pháp hơi cục mịch, nặng nề gồm có các đồn lính, công sở, bệnh viện. Đến chục năm sau, mới có sự cải cách để có nét đẹp, thanh lịch hơn, gồm có khách sạn, ngân khố, thư viện, biệt thự, trường học.

Hiện quỹ kiến trúc này vẫn còn tồn tại bao gồm: Dòng con Đức mẹ vô nhiễm, Nhà thờ Kim Long, Ga Huế, Học viện âm nhạc Huế, Đại học Huế, Khách sạn La Residence, Đài tưởng niệm chiến sĩ trận vong, Trường Quốc Học, Trường Hai Bà Trưng, Nhà hàng Festival, Trung tâm nghệ thuật Điềm Phùng Thị, Khách sạn Morin, Bảo tàng văn hóa Huế, Trụ sở Hội văn học nghệ thuật tỉnh TT Huế. [12]

(29)

22

Hình 1.3. Công trình KTCC dọc bờ sông Hương năm 1930 (Nguồn: AAVH, Dư Tôn Hoàng Long)

(30)

23

Hình 1.4. Một số công trình KTCC theo phong cách thuộc địa Pháp nằm dọc bờ sông Hương hiện nay (nguồn: Dư Tôn Hoàng Long)

(31)

24

Hình 1.5. Công trình KTCC dọc bờ sông Hương thời Pháp thuộc (nguồn: AAVH, Internet)

(32)

25

CHƯƠNG 2: ĐẶC TRƯNG KHÔNG GIAN KTCC DỌC HAI BỜ SÔNG HƯƠNG

2.1. Sự phân chia không gian KTCC dọc hai bờ sông Hương thành phố Huế:

Hình 2.1. Phạm vi nghiên cứu chia làm 3 khu vực (KV1, KV2, KV3) (nguồn: tác giả)

Biểu đồ 2.1. Biểu đồ sử dụng đất hai bờ sông Hương trong 3 khu vực nghiên cứu (nguồn: tổng hợp từ bản đồ quy hoạch thành phố năm 2015)

(33)

26

Nghiên cứu khoảng không gian 100m tính từ mép nước vào sâu trong phần đất dọc hai bờ sông Hương đoạn chảy qua thành phố Huế. Dựa vào các đặc điểm văn hóa xã hội, quy hoạch và kiến trúc có thể chia ra làm 3 khu vực nghiên cứu:

Khu vực 1 – KV1 (thượng nguồn) – từ cầu Tuần đến cầu Dã Viên thuộc địa bàn phường Kim Long, xã Hương Long, xã Hương Hồ, phường Phường Đúc, phường Thủy Biều, xã Thủy Bằng. Địa hình bao gồm đồi núi kết hợp đồng bằng, bãi bồi dọc sông.

Công trình kiến trúc phần lớn là nhà ở trong các làng, nhà ở dọc núi. Mật độ xây dựng trung bình thấp (10 – 15%). Mật độ cây xanh, mảng xanh lớn. Khu vực cầu Tuần địa hình cao dãy núi trải dài dọc sông xen kẽ là các làng dọc sông dưới chân núi. Nhà ở người dân tại đây có xu hướng tựa lưng vào núi và mặt hướng ra sông Hương. Trục đường Minh Mạng chạy qua khu vực này cũng bám theo núi tạo cảnh quan hùng vĩ và nên thơ với một bên là sông kết hợp bãi bồi, một bên là núi cao. Khu vực này cũng tập trung nhiều lăng vua và chùa phật giáo như Lăng Minh Mạng, Lăng Khải Định, Lăng Cơ Thánh, Lăng Thiệu Trị, Lăng Xương Thọ, Điện Hòn Chén, Lăng Đồng Khánh, Chùa Khải Ân, Chùa Phước Thiện Lan Nhã, Chùa Thiên Mụ, di tích Thành Lồi. Khu vực đồi Vọng Cảnh địa hình đồi cao với thảm thực vật rừng thông. Tại đây phổ biến với loại hình kiến trúc nghĩa trang. Phía bờ Bắc sông là địa bàn xã Hương Hồ với địa hình bằng phẳng hơn. Mật độ xây dựng thấp, loại hình kiến trúc chính là nhà vườn nông thôn. Do quá trình đô thị hóa tỷ lệ nhà 2 tầng, 3 tầng đang dần tăng lên. Có một số cơ sở dịch vụ nghĩ dưỡng sinh thái như: Hue Riverside Boutique Resort & Spa, Làng Văn hóa Về Nguồn, Đường giao thông nhỏ phần lớn là đường bê tông liên Thôn. Khu vực này kiến trúc KTCC hầu như rất ít. Phần giáp với trung tâm thành phố xuất hiện một số công trình kiến trúc thời Nguyễn có giá trị như Văn Thánh, Võ Thánh, Hổ Quyền, Điện Voi Ré.

Khu vực 2 – KV2 (trung tâm thành phố) – từ cầu Dã Viên đến Đập Đá thuộc địa bàn phường Phú Thuận, phường Phú Hòa, phường Vĩnh Ninh, phường Phú Nhuận, phường Phú Hội. Khu vực này tập trung dày đặc những công trình kiến trúc có giá trị lịch sử và giá trị kiến trúc: Kinh thành Huế, Phu Văn Lâu, Nghênh Lương Đình, Tòa Thương Bạc, Cầu Trường Tiền, Ga Huế, Đại học Huế, trường Quốc Học… Khu vực này địa hình bằng phẳng, mật độ xây dựng cao. Phía bờ Bắc tập trung chủ yếu các công trình mang phong cách kiến trúc gỗ truyền thống. Phía bờ Nam là các công trình mang phong cách Pháp và phong cách Đông Dương. Ngoài ra còn có các công viên

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Các thầy cô giáo Trường Đại Học Kinh Tế Huế, đặc biệt là các thầy cô trong khoa Quản trị kinh doanh đã tận tình dạy dỗ, truyền đạt kiến thức cho tôi

 Kết quả nghiên cứu này cho thấy các yếu tố cá nhân (ví dụ như mối quan tâm đến môi trường, ý thức về sức khỏe, và kiến thức về TPHC) có sự ảnh hưởng lớn đến hành vi

Do đó, đề tài chọn mô hình chấp nhận công nghệ TAM làm mô hình nghiên cứu để đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ví điện tử của người tiêu

Mô hình “Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn sản phẩm gạo hữu cơ Quế Lâm của người tiêu dùng Thành phố Huế” sẽ sử dụng mô hình hành động hợp lý (TRA)

Đề tài “Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định sử dụng dịch vụ 4G của tổng công ty viễn thông MobiFone trên địa bàn Thừa Thiên Huế” trong khuôn

Trong mô hình này có 3 nhóm nhân tố ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa thái độ và ý định hành vi, sự khác biệt giữa thái độ và ý định sẽ xảy ra khi người tiêu dùng không

miễn, giảm thuế; hoàn thuế; xử phạt vi phạm thuế; cưỡng chế thuế; khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế...; Xây dựng cơ chế quản lý thuế,

Đầu tiên, sự sẵn sàng về công nghệ (bao gồm: sự lạc quan, sự đổi mới, sự khó chịu, sự bất an) được giả định là tiền đề của cả sự hữu ích cảm nhận và sự dễ sử dụng