• Không có kết quả nào được tìm thấy

T h à n h n g ữ có từ c h ỉ bộ p h ậ n cơ t h ế con người trong tiếng N ga và đối chiếu với tiếng Việt (Đỗ Hoà ng Ngân, 1996)

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "T h à n h n g ữ có từ c h ỉ bộ p h ậ n cơ t h ế con người trong tiếng N ga và đối chiếu với tiếng Việt (Đỗ Hoà ng Ngân, 1996)"

Copied!
12
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

TẠP CHÌ KHOA HỌC ĐHQGHN, NGOẠI NGỮ, T.XVIII, N01, 2002

V Ể MỘT H Ư Ớ N G Đ I TR O N G N G H IÊ N

cứu

SO S Á N H Đ Ố I C H IẾ U TH À N H N G Ử

N g ô M i n h T h ủ y

Khoa Ngôn ngữ & Văn hóa Phương Đông Trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội

T h à n h ngữ là một tr on g n h ữ n g đơn vị ngôn ngữ cơ b ả n t ro ng hệ t h ô n g các đơn vị ngôn ngữ. Đó là một loại đơn vị ngôn ngữ đặc trưng, t r o n g đó k ế t t i n h n h ừ n g yếu tô' văn hóa của một dâ n tộc, t h ể hiện một cách c h â n thực và vô cùng ph o n g ph ú t h ế giới qua n, n h â n sin h q u a n của n h ữ n g cộng đồng người thuộc các nể n v ă n hóa khác n ha u . Bởi vậy, ng hi ên cứu t h à n h ngừ, đặc biệt là n g h i ê n cứu so s á n h đôi chiếu t h à n h ngữ của ha i ha y nhi ều ngôn ngữ khác n h a u , người ta sẽ tìm ra được n h ữn g nét độc đáo tr o n g văn hóa của mỗi dân tộc, đồng thòi tìm ra được n h ữ n g nét tương đồng và khác biệt giữa nền văn hóa này với n ề n vă n hóa khác.

Có th ể nói t ro n g n h ữ n g nă m gần đây, t h à n h ngữ được n g h i ê n cứu rắ t nhiều và từ n h ữ n g góc độ khác n ha u. Đặc biệt, nếu nói về các n g h i ê n cứu so s á n h đối chiếu thì có th ể nói r ằ n g t h à n h ngừ của một sô" ngôn ngữ ch âu Âu đã được so sá nh đôi chiếu với tiếng Việt. Điểm qua tên các đề tài ng hi ên cứu của các lu ận v ă n thạc sỷ ở trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội kề từ khi có khóa đào tạo t h ạ c sỹ (1992) đến nay, ta sẽ t h ấ y một loạt các l u ậ n văn n g h iê n cứu so sá n h đối chiếu t h à n h ngữ, như: T h à n h n g ữ có từ chỉ con vật trong tiếng N g a tro n g sự so sá n h đôi chiếu với tiếng A n h và tiếng Việt (Ngô Minh Thủy, 1996); T h à n h n g ữ có từ c h ỉ bộ p h ậ n cơ t h ế con người trong tiếng N ga và đối chiếu với tiếng Việt (Đỗ Hoà ng Ngân, 1996); T h à n h n g ữ tiếng N ga có n h ữ n g từ chỉ s ố đ ế m tự n h iên so sá n h với n h ữ n g th à n h n g ữ tương đương trong tiếng A n h và tiếng Việt (Ph ạ m T h ế Minh, 1997);

T h à n h ngữ có từ "tay" trong tiếng N ga so sá n h đôi chiếu với tiếng A n h và tiếng Việt (Nguyễn Thị Thu, 1997); T h à n h ngữ tiếng N ga có từ "m ắ t ", trong s ự đối chiếu với các đơn vị tương đương trong tiếng A n h và tiếng Việt (Lê Sỹ Sen, 1999); T h à n h ngữ có các từ chí bộ p h ậ n trên k h u ô n m ặ t trong tiếng N g a đôi chiếu với các đơn vị tương đương trong tiếng Việt (Tô Thị Ng ân Anh, 1999); T h à n h n g ữ so s á n h trong tiếng Nga và tiếng Việt (Hoàng Thị T h a n h Nhàn, 2000); T h à n h n g ữ tiếng N g a có từ

"chân" đôi chiếu với các đơn vị tương đương trong tiếng Việt (Đinh Trọng Nghĩa,

•2001); T h à n h n g ữ tiếng N ga có từ "tâm hồn" và "trái tim ' đôi chiếu với tiếng Việt (Nguyễn Văn Hòa, 2001); T h à n h n g ữ tiếng Nga biểu thị k h á i n iệ m "tiền tệ", đôi chiếu với các đơn vị tương đương trong tiếng A n h và tiếng Việt (Nguyễn Thị Định, 2001) và một sô" l u ậ n vă n khác. Bên cạnh n h ữ n g l u ậ n văn t h ạc si nói t r ê n của trường Đại học Ngoại ngữ - ĐH'QG Hà Nội còn có t h ể t h ấ y nh iều công tr ìn h ng hiên cứu kh ác n h ư ha i l u ậ n vă n t h ạc sỹ của trường Đại học Khoa học xã hội và N hâ n

40

(2)

Vê môt hưởng đi trong nghiên cứu so sánh dôi chiếu thành ngừ 41 văn - ĐHQG Hà Nội: Đối chiếu th à n h ngữ chỉ trạng thá i tă m lý trong tiếng A n h và tiếng Việt (Lâm Thị Hòa Bình, 2000) và Khảo sát th à n h n g ữ gốc H án có yếu t ố chỉ con s ố trong sự đôi chiếu với th à n h n gữ tiếng Việt có yếu tô là con sô (Giang Thị Tám, 2001). Ngoài các l u ậ n văn thạc sỹ, một sô" luận á n tiến sỹ cũng nghiên cửu so sán h đối chiếu t h à n h ngừ, Nguyễn Xuân Hòa (Đối chiếu th à n h n g ữ N ga - Việt trẽn binh diện giao tiế p, 1996), P h a n Văn Qu ế (N g ữ nghĩa của th à n h n gữ - tục n g ữ có thành tô ch ỉ độ n g vật trong tiếng A n h trong sự so sánh đôi chiếu với tiếng V iệ t, 1996), T r ầ n Thị L an {Phương thức dịch các th à n h n gữ đ á n h giá con người trên tư liệu của ba ngổn n g ữ A n h - Nga - V iệt, 2002). Trong các công tr ìn h nghiên cứu trên, mỗi tác giả đã chọn cho mình một nhóm t h à n h ngừ riêng. Mặc dù tiếp cận t h à n h ngữ từ n h ữ n g góc độ khác n ha u, với mục đích nghiên cứu khác nh au , hầu hết các tác giá đều đi sâ u p h â n tích cấu trúc hình thái và ngữ nghĩa của các t h à n h ngữ thuộc nhóm đó t r o n g một ngoại ngữ tr ên cơ sở so sánh, đôì chiếu với t h à n h ngữ cùng nhóm t r o n g t iế ng Việt, hoặc trong tiếng Việt và một ngôn ngừ th ứ ba. Một số tác giả còn p h â n tích, so s á n h đỏì chiếu cách sử dụng t h à n h ngữ trong lòi nói.

Có t h ê nói, các công trìn h nghiên cứu tr ên đã có đóng góp đ á ng kế trong việc nghiên cứu t h à n h ngữ nói c hu ng và nghiên cứu so sá nh đôi chiếu t h à n h ngừ nói riêng. N h ữ n g kết q u ả của việc so sán h đối chiếu cấu trúc hì nh th ái của t h à n h ngừ trong các công t r ì n h này đã chỉ ra được nh ữn g điểm giông và khác n h a u trong cấu trúc h ì n h t há i giữa t h à n h ngừ tiếng Việt và t h à n h ngữ của một sô' ngôn ngữ khác.

P h ầ n so s á n h đôi chiêu ý nghĩa từ vựng của t h à n h ngữ trong các ngôn ngừ khác n h a u cũng đem lại một kết quả có giá trị là p hâ n tích và giải thích được ý nghĩa của một số* lượng lớn t h à n h ngữ, tìm được n h ữ n g t h à n h ngữ tương đương giữa hai hay n hi êu ngôn ngữ, đồng thời cung câp n h ữ n g bản dịch các t h à n h ngừ của một sô"

ngôn ngữ không có t h à n h ngừ tương đương sa ng tiếng Việt. Bên cạnh đó, nhiều tác giả còn nghiên cứu và đê xuấ t một sô" phương ph áp n â n g cao n ă n g lực sử dụng t h à n h ngữ cho người học ngoại ngữ (Ngô Minh Thủy, P h ạ m T h ế Minh), phương pháp giảng dạy t h à n h ngữ cho người học ngoại ngừ (Đỗ Hoà ng Ngân, Tô Thị Ngân Anh, Đinh Trọng Nghĩa , Nguyễn Văn Hòa). Nh ừng kết qua t r ê n có ý nghĩa không nhỏ đôi vói việc dạy - học ngoại ngừ, đốì với việc dịch t h u ậ t cũng nh ư đôi với việc biên soạn t ừ điển t h à n h ngừ song ngữ.

Tuy nh iên, n h ư t r ê n đã nói, t h à n h ngữ là đơn vị ngôn ngữ p h ả n ánh đậm nét n h ấ t các đặc điểm văn hóa của một dân tộc. Nếu ngôn ngữ là phương tiện của tư duy, phả n á n h t ư duy, th ì trong các đơn vị ngôn ngữ, t h à n h ngữ là nơi dấu ấn của tư duy con người đọng lại rõ n é t n h ấ t. Khi nghiên cứu so s á nh đối chiếu t h à n h ngữ của hai h a y n h i ề u ngôn ngữ, người ta tìm ra được n h ữ n g điểm tương đồng và dị biệt vê văn hóa giữa các dân tộc, và ngược lại, người ta có t hể sử dụ ng các đặc tr ưng văn hóa, hay các “kiên thức n ề n” về v ă n hóa để giải thích n h ừ n g tương đồng và dị biệt t r o n g t h à n h ngữ của hai hay nhiều ngôn ngừ. Bới vậy theo c hú ng tôi, một hướng mới t r on g nghi ên cứu so s á n h đối chiếu t h à n h ngữ là nghiên cứu gắn với văn hóa. T rê n thực tê, một sô" công t rìn h ng hiên cứu đã đề cập đến vấn đề văn hóa khi

(3)

42 Ngỏ Minh Thủy so sá n h đôi chiếu t h à n h ngữ. Lâm Thị Hòa Bình (2000) khi p h â n tích cơ chế tạo nghĩa của t h à n h ngừ chỉ t r ạ n g th á i t â m lý trong tiếng Anh và tiếng Việt đã đẻ cập đến vấ n đề tri thức văn hóa d â n tộc trong th à n h ngữ. Gian g Thị Tám (2001) khi p h â n tích các đặc điểm của t h à n h ngữ cũng đã đề cập đến đặc trưng văn hóa của các th à n h n g ữ nói c h u n g và th à n h n g ữ tiếng H án nói riêng. Đặc biệt, Nguyễn Xuân Hòa (1996) đã d à n h t r ọ n một chương t ro ng l uận án của m ình đế nói về các đặc trư ng văn hóa d â n tộc n h in t ừ góc độ giao tiếp của th à n h n g ữ tiếng N ga và tiếng Việt. Tuy n h iê n , nếu đ á n h giá một cách khách qu an thì chưa có một công t r ì n h ngh iên cứu nào ng hi ên cứu một cách có hệ th ông các yếu tô" vă n hóa trong t h à n h ngữ hoặc sử d ụ n g các yếu tô" vă n hóa đế nghiên cứu t h à n h ngừ, mà th ưòng chỉ đê cập đến vă n hóa khi p h â n tích các đặc t r ư n g ngữ nghĩa hay cơ chê hình t h à n h ngừ nghía của t h à n h ngữ. Theo c h ú n g tôi, việc gắn văn hóa với ngôn ngữ trong nghiên cứu so s á n h đổì chiếu t h à n h ngữ t h ê hi ện ở ha i mặt: 1) P h â n tích, so sá nh, đối chiếu t h à n h ngữ của ha i h a y nh i ề u ngôn ngữ đế tìm ra các đặc t r ư n g vể văn hóa, nghĩa là tìm ra các n é t tương đồng và dị biệt về văn hóa của hai ha y nhiêu dâ n tộc thê hiện qua t h à n h ngừ và 2) Dù ng các đặc t r ư n g về vă n hóa trong hai hay nh iều nền vă n hóa đê p h â n tích ý ng h ĩ a của t h à n h ngữ, giải thích các điếm tương đồng và khác biệt về đặc điểm cấu t r ú c h ì n h t h á i cũng n h ư ý ng h ĩa từ vựng của các t h à n h ngữ t ro ng các ngôn ngữ được n g h i ê n cứu. Dưới đây, ch ú n g tôi xin t r ì n h bày một số ý kiến về ph ươ ng p h á p n g h i ê n cứu vă n hóa qua so sá n h đối chiếu t h à n h ngữ.

1. N g h iê n cứu c á c đ ặ c t r ư n g v ă n h ó a dân tộc q u a sự p h â n tíc h , so sá n h đ ôi c h iế u t h à n h n g ữ v ề m ặ t c â u t r ú c h ìn h thái

Không ít ngưòi cho rằn g, n h ữ n g đặc điểm về văn hóa chí th ể h iện t ro ng bình diện ý ng hĩ a của t h à n h ngữ, n h ư n g theo chúng tôi, ngay cả trong các đặc điểm vê câu t rú c h ì n h t h á i của t h ả n h ngữ, các đặc trư ng văn hóa cũng thể hiện k h á rõ nét.

C h ú n g tôi xin lấy m ột ví dụ nhỏ: Nếu chia t h à n h ngữ ra từn g nhóm có câu t r ú c là một cụm từ (trong đó c h ủ yếu là cụm d a n h từ, cụm động từ, cụm tính từ) h a y là một câu để so s á n h thì ta sẽ t h ấ y sự p h â n bô" các kiểu cấu trúc nà y của các t h à n h ngữ t ro ng các ngôn ngữ r ấ t kh á c n h a u . Một trong n h ữ n g điểm khá c n h a u đó là sô' lượng các t h à n h ngữ có cấu t r ú c là một cụm tính từ (tức là các t h à n h ngữ có t í n h từ đóng vai trò t r u n g t â m , ví dụ: B ấ n n h ư lợ n, ngu n h ư òò, n h a n h n h ư g ió, gầ y n h ư que c ủ i, nghèo rớt m ù n g tơi) tr o n g t i ế n g Việt là 12% (gồm 36 tr o n g 300 t h à n h ngừ được kh ảo sát), ti ế n g N h ậ t là 0,5% (gồm 2 trong 300 t h à n h ngữ được khảo sát).

Loại t h à n h ngữ nà y tr o n g ti ế n g Anh cũng r ấ t nhiều. Theo Lâm Thị Hòa Bình (2000), chỉ* tr o n g 380 t h à n h ngữ chỉ t r ạ n g thái t â m lý của tiếng Anh (những t h à n h ngừ chỉ cảm xúc và t â m t r ạ n g con người, ví dụ : Down in the d u m p s (“chìm t ro ng sự buồn c h á n ” = r ấ t buồn = buồn n h ư c h ấ u c ắ n, iu xỉu n h ư bánh đa n h ú n g nước)] like a cat on hot bricks (“n h ư con mèo ở t r ê n gạch nóng” = r ấ t sôt ruột, lo lắng = lòng nóng n h ư lửa đ ố t, đ ứ n g ngồi k h ô n g yên); as keen as m u s ta r d (“cay như tương mù tạc” = h ă n g say, n h i ệ t tìn h) thì n h ữ n g t h à n h ngữ có cấu trúc là một cụm t ín h từ

(4)

Vê một hướng đi trong nghiên cứu so sánh đối chiếu t h à n h ngữ 43 chiếm 12%. Có t h ể kế ra một loạt các t h à n h ngữ có câu tr úc là một cụm tín h từ trong tiêng Anh, n h ư : as h a p p y as a lark (“vui n h ư chim chiền c h iệ n ”); as m a d as a hatter (“điên n h ư gã bán m ũ ”); as m a d as a M arch hare (“điên n h ư thỏ t h á n g ba”); as p r o u n d as a peacock (“kiêu h ã n h n h ư con công”), as red as a lobster (“đỏ n h ư tôm h ù m ”). Nh ìn vào các con sô' thô n g kê t r ê n có t h ể t h ấ y r ằ n g t h à n h ngữ tiế ng N h ậ t r ấ t đặc biệt, bởi vì h ầ u n h ư khô ng t h ấ y bóng d á n g của các t ín h từ vối vai trò t r u n g t â m của t h à n h ngữ, đặc biệt là tro ng loại t h à n h ngữ so s á n h mà sự có m ặ t của tính từ là r ấ t phô biến trong các ngôn ngừ khác, n h ư t iế ng Anh hay tiếng Việt. Hãy so s á n h n h ữ n g t h à n h ngữ có cùng ý n g h ĩa từ v ự n g sa u :

Tiếng Anh : A s d u m p as a fish (“im n h ư cá”) Tiếng Việt : Im n h ư thóc, cảm n h ư hến

Tiếng N h ậ t : Kai no yo u (“n hư h ế n ”)

Tiếng Anh : A s strong as an elephant (“khoẻ n h ư voi”) Tiếng Việt : Khỏe n h ư voi (hùm, tr âu )

Tiếng N h ậ t : Tobu tori wo otosu ikioi (“Sức m ạ n h kéo được con chim đa ng bay xuôYig”)

T ấ t n hi ên có trường hợp t h à n h ngữ tiế ng N h ậ t c ũn g d ù n g t í n h từ n h ư các t h à n h ngữ có ý ngh ĩa tương đương trong tiến g Anh, t iế ng Việt n h ư t r o n g ví dụ sau :

Tiếng Anh : A s stubborn as a m u le (“bướng n h ư con l a ”) Tiếng Việt : N g a n g n h ư cua

Tiếng N h ậ t : Ganko ittetsu (“ngoan cố n h ấ t t r i ệ t ” = r ấ t ng oa n cô", r ấ t ng an g bướng).

Tuy vậy, kiểu t h à n h ngữ này tro ng t iế ng N h ậ t r ấ t hiếm. N h ư t r ê n đã nói, trên sô" liệu khảo s á t (300 t h à n h ngữ tiến g Nhật), c h ú n g tôi chỉ gặp h a i t rư ờn g hợp là g a n ko ittetsu (đã d ẫ n ở trên) và m u s h i no ii (“tố t kiểu s â u bọ” = q uá đáng).

Từ đặc đi ểm t r ê n sẽ r ú t ra được điều gì vê đặc t r ư n g văn hóa của ngưòi Nhật, người Việt và người Anh thể hiện qua t h à n h ngữ? Theo c h ú n g tôi, một trong nh ữn g đặc t r ư n g văn hóa r ú t ra được là sự t r á n h né nói t h ẳ n g của ngưòi N h ậ t về các đặc điếm hình d á n g hay t ín h c hất của người và sự vật, h i ệ n tượng. Khác với người Việt hay người Anh thư ờn g t h ẳ n g t h ắ n , rõ r à n g khi diễn đ ạ t các ý nghĩ hay kêt luận của mình, người N h ậ t yêu t h 'c h cách nói h à m ý, t h ư ờ n g chỉ đưa ra n h ữ n g hình ảnh, n h ừ n g đặc điểm để liên tưởng, còn p h ầ n k ế t l uậ n , p h ầ n cô't lõi của vấn đề thì nhường lại cho người đọc, người Iighe tự r ú t ra, tự nói ra.

T rê n đây chỉ là một ví dụ nhỏ vé việc đi tìm n h ữ n g đặc t r ư n g văn hóa dân tộc qua sự so sánh, đôi chiếu về cấu trúc của t h à n h ngữ t r o n g các ngôn ngữ khác nhau. Còn n hi ểu đặc điểm về văn hóa n ữ a t h ể h i ện t r on g sự k h á c n h a u về cấu trúc

(5)

44 Ngô Minh Thủy hình thái của t h à n h ngữ mà người nghiên cứu có th ể tìm ra được t ù y theo các tiêu chí ph ân loại và các góc độ p h â n tích.

2. N g h iê n cứu đ ặc trứ n g văn h óa dân tộ c q ua sự so sá n h đ ôi c h iế u th à n h n g ữ trên p h ư ơ n g d iệ n n g ữ n g h ĩa

Cũng n h ư sự so sá n h đối chiếu t h à n h ngữ t r ê n phương diện cấu tr úc h ì n h thái, việc so s á n h đối chiếu t h à n h ngữ của hai hay nhiều ngôn ngữ kh ác n h a u có th ể tiến h à n h từ nh iề u góc độ, theo nh iều phương pháp khá c n h a u . Ý n g h ĩ a từ vựng (ngữ nghĩa) của các đơn vị ngôn ngữ nói chun g và của t h à n h ngữ nói r i ê n g r ấ t đa dạng, phức tạp, p h ụ thuộc vào nh iều yếu tô", mà các yếu tô" thì lại đ a n xen n h a u , tác động lẫn n h a u , nên khi ngh iên cứu ý nghĩa từ vựng của t h à n h ngữ, đặc biệt là khi so sá n h đối chiếu ý nghĩa từ vựng của t h à n h ngữ trong các ngôn ngữ khá c n h a u sẽ có r ấ t nh iều vấ n đề cần phải xem xét. Ó đây ch úng tôi chỉ xin đưa ra một gợi ý về hướng nghiên cứu các đặc t r ư n g văn hóa dâ n tộc qua sự so sá n h đôi chiêu t h à n h ngữ về phương diện ngữ nghĩa.

a. Tìm đ ặ c t r ư n g văn hóa d à n tộc dự a vào các từ - t h à n h p h ầ n cáu tao của t h à n h ngữ

Khi so s á n h đối chiếu ngữ nghĩa của t h à n h ngữ trong các ngôn ngữ khác nhau, một xu hướng được ưa chuộng là quy t h à n h ngữ về các trường ng hĩ a rồi so sá nh nhóm các t h à n h ngữ thuộc cùng một trường nghĩa trong các ngôn ngữ đó.

Trường nghĩa ở đâv có th ể là trường nghĩa của toàn bộ t h à n h ngữ hoặc là tr ường nghĩa của các từ được sử cỉụng để cấu tạo nên các t h à n h ngữ. Dựa vào tr ường nghĩa của toàn bộ t h à n h ngữ người ta có thể chia t h à n h ngữ t h à n h các nhóm n h ư “T h à n h ngữ chỉ t r ạ n g t h á i t â m lý con ngươi”, "Thành ngữ về các đặc điểm h ì n h d á n g con người”, “T h à n h ngừ về lao động s ả n x u ấ t ”, “T h à n h ngữ về ẩm thực” v.v... Dựa vào trường nghĩa của các từ được sử d ụ n g để cấu tạo t h à n h ngữ, người t a có t h ê quy t h à n h ngữ về t h à n h t ừ ng nhóm, n h ư “T h à n h ngữ có từ chỉ động v ậ t ”, “T h à n h ngữ có từ chỉ thực v ậ t ”, “T h à n h ngữ có từ chỉ bộ p h ậ n cơ t h ể ”, “T h à n h ngữ có từ chỉ các bộ p h ậ n tr ên k h u ô n m ặ t ”, "T hàn h ngữ có từ chỉ con sỗ'’ v.v... Cho đên n a y đã có nhiều công t r ì n h ngh iên cứu so sá n h đối chiếu các t h à n h ngữ thuộc các trườn g nghĩa nh ư trên.

Khi so s á n h các t h à n h ngừ thuộc cùng một trường nghĩa, việc đầ u tiên các tác giả thường làm là thông kê sô" lượng t h à n h ngữ, sa u đó là th ông kê các yêu tô, hay các đối tượng mà n h ữ n g từ được dùn g trong t h à n h ngữ đề cập đên. Ví dụ, khi so sá n h đôì chiếu nhóm t h à n h ngữ có từ chỉ bộ p h ậ n cơ th ế t ro ng các ngôn ngữ khác n ha u , việc đ ầu tiên là th ông kê sô" lượng t h à n h ngữ loại n à y t ro ng t ừ n g ngôn ng*ữ, sau đó t h ô n g kê các bộ p h ậ n cơ thể được d ù n g trong t h à n h ngữ của mỗi ngôn ngữ, tính tỷ lệ x u ấ t h iện của mỗi bộ ph ận cơ thể. Đỗ Hoà ng Ngâ n (1996) đã thông kê được 1000 t h à n h ngữ có từ chỉ các bộ p h ậ n cơ th ể t ro ng 4000 t h à n h ngữ tiêng Nga được khảo sát, và 550 th à n h ngữ loại‘này trong tổng sô' 2500 th à n h ngữ được kháo

(6)

Vê một hướng đi trong nghiên cứu so sánh đôi chiếu thành ngừ 45 sát của tiếng Việt, Vê số lượng các bộ phận cơ thế được dùng trong th à n h ngữ thì công trình nghiên cứu này đã chỉ ra được trong tiếng Nga là 41, tiếng Việt là 46.

Một ví dụ khác về k ế t quả thông kê t h à n h ngữ theo các bước nh ư tr ên là việc thông kê t i ế n h à n h với nhóm các t h à n h ngữ có từ chỉ các bộ p h ậ n tr ên đầu ( th àn h ngữ có từ “đ ầ u ” và các từ khác n h ư “m ặ t ”, “cằm”, “m ắ t ” v.v...). Khi so sánh đổĩ chiếu nhóm các t h à n h ngữ loại này trong tiếng N h ậ t và tiếng Việt chúng tôi tìm ra được 333 t h à n h ngữ t ro ng tiếng N h ậ t và 736 t h à n h ngữ trong tiếng Việt. Sô"

lượng các bộ p h ậ n t r ê n đầu được sử dụ ng trong t h à n h ngừ trong cả hai ngôn ngừ là 14. Trong các bộ p h ậ n t r ê n đầ u được sử dụn g trong t h à n h ngữ, trong cả hai ngôn ngữ, miệng (mồm, khấu) có tỷ lệ x u ấ t hiện cao n h ấ t (20,88% trong tiêng Việt và 30,12% trong ti ế n g Nhật).

Ví dụ :

kuchi ga ogoru (“mồm xa hoa” = ăn cả tiêu rộng)

kuchi ga h i agaru (“mồm vêu ra, vêu mõm” = tiền hết gạo khô n g, nghèo rớt m ù n g tơi)

kuchi wo tozasu (“đóng mồm” = im n h ư thóc, câm n h ư hến)

Nêu chỉ d ừ n g ở n h ữ n g con sô* thông kê đơn giản n h ư v ậ t thì quả t h ậ t đôi khi có cảm giác r ằ n g th on g kê chỉ để mà thông kê, hay là chỉ đế biết được đối tượng nghiên cứu là bao nh iê u t h à n h ngữ. Nh ưn g t r ê n thực t ế t hì n h ữ n g th ôn g kê đó có một giá trị kh ôn g nhỏ, là tiền đê qu a n trọng để đi một bước tiếp theo là tìm ra nh ữ n g nét tương đồng hay b ấ t tương đồng trong văn hóa của hai ha y nhi ều dân tộc. Ví dụ, dựa vào tỷ lệ x u ấ t hiện ít hay nhiều của các bộ p h ậ n cơ t h ể trong t h à n h ngừ, người ta biêt được r ằ n g trong t â m thức của dân tộc này hay dân tộc khác, C01Ì m ắ t qu an t rọn g hơn h ay đôi tai qu an trọng hơn, lục phủ ngũ tạ n g có p hả i là tr u n g t âm và là nơi qu y êt định đời sông t âm hồn của một con người không. Và nếu tìm ra câu t r ả lòi n h ư vậy từ t h à n h ngữ, người ta sẽ có cơ sở để giải thích một loạt các hiện tượng văn hóa khác, c h ẳn g h ạ n nh ư tại sao n h ữ ng con người có khí phách ở N h ậ t lại thường tự tử bằ ng cách tự mổ bụ ng p h a n h t h â y mình? Có phải là vì họ COI bụng là bộ p h ậ n q u a n trọng, nơi chứa đựng t âm hồn và k hí phách họ, nên khi quyên sinh họ m u ô n cho mọi người t h ấ y rõ tâm hồn khí ph ách của m ình không?

Đôi với tr ư ò n g hợp ng h iê n cứu nhóm t h à n h ngữ có từ chỉ con v ậ t trong tiếng N h ậ t và tiêng Việt c ũng n h ư vậy. Thực t ế là khi so sá n h đôi chiếu nhóm t h à n h ngữ này trong tiêng N h ậ t và t iến g Việt ch ún g tôi đã tìm ra được r ấ t nh iều điểm tương đồng và dị biệt r ấ t lý t h ú n h ư n g do p hạ m vi bài viết này có hạn, ch ún g tôi sẽ trình bày kê t quả n g h i ê n cứu đó t ro ng một bài viết khác. Chỉ xin nói về kế t quả thông kê nhóm t h à n h ngữ nà y t ro ng tiêng N h ậ t là 316 và tiếng Việt là 330, sô lượng các con vật được d ù n g tr o n g t h à n h ngữ tiếng N h ậ t là 74, trong t h à n h ngữ tiếng Việt là 77, trong đó có 20 con vậ t x u ấ t hiện t ro ng t h à n h ngữ tiếng Việt n h ư n g không x u ấ t hiện trong t h à n h ngừ t iến g Nh ậ t, ví dụ n h ư con t r â u , con chấy, con cóc, con đỉa v.v... và

(7)

46 Ngô Minh Thủy ngược lại, có 17 con vậ t chỉ x u ấ t hiện trong t h à n h ngữ t iế n g N h ậ t n h ư n g k hô ng xu ấ t hiện trong t h à n h ngữ tiếng Việt nh ư con ng an, con cá mập, con bạch tuộc, con nh ệ n v.v... Nếu nói về tỷ lệ x u ấ t hiện của các con vậ t t ro ng t h à n h ngữ thì các con vật xu ất hiện nh iêu n h ấ t trong tiếng N h ậ t là con cá, con chó, con mèo, con ngựa, con thỏ, con sâu, con bò, con chuột, trong tiếng Việt là con cá, con gà, con chó, con mèo, con hổ, c©n t r â u , con chuột, con bò (theo th ứ tự t ầ n sô" x u ấ t hi ện từ cao đến thấp). Chính từ n h ữ n g con sô" thông kê n h ư vậy ch ún g tôi đã tìm ra được n h ữ n g điểm tương đồng và b ấ t tương đồng về văn hóa của h a i d ân tộc tr o n g một sô' phương diện, c hẳn g h ạ n n h ư trong mối qu an hệ giữa COI1 người vối t h ế giới tự nhiên nói ch u ng và động vậ t nói riêng, trong mức độ t h â n thuộc của con người đôi với các c o a vật. Bên c ạn h đó, dựa vào tỷ lệ x u ấ t hiện của các con v ậ t t ro ng t h à n h ngữ có được qua sự t hô n g kê đó, chúng tôi còn có thể biết th êm được vê các đặc điểm của điều kiện sông, hoàn cảnh địa lý của ha i d â n tộc.

Một m ặ t nữa có t h ể kh ai thác được để ng hi ên cứu các đặc t r ư n g vă n hóa thể hiện qua t h à n h ngữ khi dựa vào các từ - t h à n h p h ầ n cấu tạo của t h à n h ngừ là so s á n h cách sử d ụn g các đốì tượng hay các yếu tỏ" mà t h à n h ngữ “mượn” đê cắu tạo (tức là các yếu tô" h ay đổì tượng mà các từ - t h à n h p h ầ n cấu tạo của t h à n h ngữ - biểu đạt, trong hai ví dụ nêu t r ê n thì các đối tượng đó là các bộ p h ậ n cơ thể, h ay là các con vật). Ví dụ, trong trường hợp t h à n h ngữ có từ chỉ con vật thì c h ú n g tôi t hấy rằ ng các dân tộc sử d ụ ng các con vậ t trong t h à n h ngữ theo h a i cách.

Trong cách sử d ụ n g t h ứ n h ấ t, người ta chỉ đơn t h u ầ n mượn t ê n con v ậ t để nói về con người h ay n h ữ n g t ìn h t h ế của con người mà k h ô ng dựa vào các đặc điểm về con vật hay qu a n niệm về con vậ t trong tiêm thức của họ. Ví dụ :

Tiếng Việt : Ông nói gà bà nói vịt.

Lợn là n h chữa th à n h lợn què.

Tiếng N h ậ t : m a n a ita no koi

(“con cá chép t r ê n thớt” = cá n ằ m trên thớt) toranu ta n u k i no kaw a zanyoo

(“t ín h da của con cáo chưa b ắ t được”, = tín h cua trong lỗ)

Rõ r à n g tro n g các ví dụ trên, người ta chỉ mượn t ê n con v ậ t để nói vể con người (dùng “gà” và “vịt” - ha i đối tượng khác n h a u để nói r ằ n g chủ đề câu chuyện của hai ngưòi là khá c n h a u , d ù ng h ìn h ả n h con cá n ằ m t r ê n th ớt để chỉ một ngưòi ở trong t ìn h t r ạ n g nguy hi ểm không lối t h o á t v.v...) chứ k h ô ng dựa vào một đặc điểm nào của con vậ t ha y cách h ì n h d un g có sẵn tro n g tiềm th ức của con người vể con vật đó để cấu tạo t h à n h ngữ.

Trong cách sử d ụ n g t h ứ hai, người ta dựa vào các đặc điểm (gồm đặc điểm về hình dáng bên ngoài và đặc điểm về t ín h cách) của con v ậ t ha y các qu an niệm về con v ậ t trong tiềm t hứ c của họ để cấu tạo t h à n h ngữ. Ví dụ :

(8)

Vé một hướng đi tron g nghiên cứu so sảnh đôi chiêu thành ngữ 47 Tiếng Việt : bán n h ư lợn

lo bò trắ n g răng d ữ n h ư cọp

m iệ n g cọp gan thỏ g iọ n g vịt đực

Tiếng N h ậ t : neko ze (“lưng mèo” - gừ lưng tôm) u m a zu r a (“m ặ t ngựa” = mặt dài)

f u r u d a n u k i (“con lửng già” = con cáo già)

Trong các ví dụ t r ê n , khi cấu tạo t h à n h ngừ người ta đã dựa vào các đặc điểm của con v ậ t (ví dụ, bò thì r ă n g trắng, ngựa thì m ặ t dài), cách hì nh dung của con người vê con v ậ t (ví dụ, lợn th ì bẩn) hay qu an niệm về con vật trong tiềm thức của họ (ví dụ, con lửng già thì r a n h ma). Nếu dựa vào tiêu chí t r ê n để thống kê và so sá n h , người t a sẽ p h á t hiện ra nh iều vấn đê liên q u a n đến cách tư duy của hai dâ n tộc, sẽ biết được d â n tộc nào có cách tư duy giàu hì nh ả n h hơn, ưa lôì nói ví von n h i ề u hơn v.v...

M ặ t khác, t ro ng các t h à n h ngừ mà con v ậ t dược dù n g dựa vào các dặc điêrn hay các q u a n niệm vê nó t r o n g tiềm thức của con người n h ư tro ng các ví dụ đã dẫn ỏ trên, dấu ấn của các q u a n niệm, dâu ấ n của cách hì nh du ng của con người vê các con v ậ t hiện ra r ấ t rõ. Nếu chú trọ ng vào m ặ t đó để so s á n h đôi chiếu, có thế thu được m ộ t kêt quả đ á n g tin cậy vê văn hóa của các dân tộc, cụ t h ể trong trường hợp này nêu so sá nh t h à n h ngữ có từ chỉ con v ậ t giữa tiếng N h ậ t và tiếng Việt người ta sẽ t h ấ y được r ằ n g t r o n g t â m thức của người Việt và người Nhậ t, các con vật có đặc điểm Iìhư thò nào, tốt hay xấu, và các đặc điểm ấy có giông n h a u không giữa hai dân tộc. Một ví d ụ nhỏ là khi so s á n h các t h à n h ngữ có từ “mèo” và “chó” trong tiêng N h ậ t và t i ê n g Việt (Ví dụ : Chó chê mèo lắc; mèo đ à n g chó điếm; đê m ỡ trước m iệng m è o; inu c h ik u sh o o = “đồ súc vật chó” = đồ chó đểu\ neko no mae no nezu m i =

“con chuột trước con mèo” = m ột người đ a n g rất hoảng SỢ; inu mo k u w a n u = “chó cũng không ă n ” = chó c ủ n g kh ông thèm n g ử i; neko no ko ippiki inai = “không có lấy một C011 mèo con” = v ắ n g vẻ = vắng n h ư chùa Bà Đ a n h) c h ú ng tôi th ấy r ằ n g trong t h à n h ngữ của cả hai ngôn ngữ, con chó và con mèo đều có n h ữ n g đặc tín h xấu (đặc tính tiêu cực) và n h ữ n g đặc tính tôt (đặc tín h tích cực), n h ư n g trong tiếng Nhật, con mèo man g n h i ề u đặc t í n h tốt hơn h ẳ n so với con chó, còn tro ng tiến g Việt thì ngược lại, con chó có n h i ề u đặc t í n h tốt hơn con mèo. Như vậy có thế k ế t luận rằng người N h ậ t t h ấ y ở con mèo n h iề u đức tính tốt hơn ở con chó, còn người Việt thì ngược lại, cho r ằ n g con chó có n h i ều đặc tín h tốt hơn con mèo. Với các nhóm t h à n h ngữ có từ chỉ bộ p h ậ n cơ thể, từ chỉ các yếu tô" tự nh iên v.v... việc nghiên cứu văn hóa qua các từ - t h à n h p h ầ n câ\i tạo của t h à n h ngữ cũng có thể tiến h à n h theo hướng n h ư vậy.

(9)

48 Ngô Minh Thủy

b. Tìm các đ ă c t r ư n g vă n hóa d à n tỏc qu a s ư so s á n h đ ô i chiê u ý ngh ĩa từ vựng của t h à n h ngữ

Khi so sá n h đối chiếu t h à n h ngừ của hai hay n h i ể u ngôn ngữ về m ặ t ý nghĩa từ vựng của t h à n h ngữ, việc đầu tiên là phải xác định ý ng h ĩa từ vựng của t h à n h ngữ, sau đó so s á n h đốỉ chiếu các ý ng h ĩ a đó để tìm ra các t h à n h ngừ có tương đương và không có tương đương t ron g h a i hay nhi ều ngôn ngữ. N h ư vậy từ sự so sá n h đôi chiếu này, nếu lấy t h à n h ngữ của một trong các ngôn ngữ đang so sá nh làm gốc, người ta có thế chia t h à n h ngữ ra hai nhóm: 1) nhóm t h à n h ngừ có tương đương và 2) nhóm t h à n h ngừ không có tương đương. Ví dụ:

- T h à n h ngừ tiếng N h ậ t có t h à n h ngữ tương đương t ro ng t iến g Việt:

neko ni katsuyoo bushi (“gửi cá t ù n g khô cho mèo”

= đ ế m ở trước m iệng mèo, gử i trứ n g cho ác)

i no na ka no k a w a ru (“Con ếch tr o n g giếng” = ếch ngồi đá y giếng) inu ni rongo (“lý l u ậ n với chó” = đ ả n g ảy tai trâu, nước đỏ lá khoai, nước đô đ ầ u vịt)

neko no me no yooni k a w a ru (“t h a y đổi n h ư m ắ t mèo” = th a y n h ư thay áo)

- T h à n h ngữ tiếng N h ậ t không có t h à n h ngữ tương đương trong tiếng Việt : neko j it a (“lưỡi mèo” = người k h ôn g ăn đươc đồ nóng)

nekokke (“tóc mèo” = tóc mềm và mượt)

m u s h i no shirase (“sự th ông báo của con s â u ” = linh tính, linh tính mách bảo)

Vậy thì người ta t h u được gì về vă n hóa qua sự s á n h đối chiếu ý nghĩa từ vựng của t h à n h ngữ n h ư vậy?

Như trong các ví dụ trên, ta th ấ y r ằ n g khi lấy t h à n h ngữ có từ chỉ con vật trong tiếng N h ặ t làm gõc đế so sá nh với ti ế n g Việt thì nhóm các t h à n h ngữ tiếng Việt tương đương có thể chia làm 3 loại :

a- Cùn g ý n gh ĩa từ vựng, dùn g cùng một con vật b- Cùng ý nghĩa từ vựng, dù ng các con v ậ t khác n h a u

c- Cùng ý nghla từ vựng, n h ư n g t h à n h ngữ tiếng N h ậ t thì dùng con vật, t h à n h ngữ tiếng Việt thì không d ù n g con vật.

(10)

Vê một hưởng đi t ro n g nghiên cửu so sánh đôi chiếu thành ngừ 49 Trong nhóm t h à n h ngữ có cù ng ý nghía từ vựng, cùng tên con v ậ t thì lại có thể chia làm hai n hó m nhỏ nữa là nhóm có cùng phương thức biểu hiện và nhóm không cùng phươn g thức biểu hiện. Ch ẳ ng hạn, t h à n h ngữ i no n aka no kaiuaru (“ếch tro ng giếng”) t r o n g tiếng N h ậ t và t h à n h ngữ “ếch ngồi đáy giếng” trong tiếng Việt được ch ún g tôi coi là hai t h à n h ngừ cùng ý nghĩa từ vựng, dù ng cùng một con vật và có cùng một phươ ng thức biểu hiện. T h à n h ngừ kenba no kokoro (“trái tim chó và n g ự a ”) và t h à n h ngữ chó ngao đạo Chích sủa vua N g h iê u, t h à n h ngừ neko baba su ru (“mèo và b à ”) và t h à n h ngữ giấ u n h ư mèo g iá u cứt là n h ữ n g cặp t h à n h ngừ có cũng ý n g hĩ a từ vựng, sử dụ n g cùng một con vật, n h ư n g không cùng phương thức biểu hiện.

Dựa vào sự p h â n tích này, trước h ế t là dựa vào con số’ thông kê t h à n h ngữ của t ừ n g nhóm, người ta biết được tro ng hai ngôn ngữ có bao nhiêu phầ n tr ăm t h à n h ngữ tương đương, bao nhiêu p h ầ n tr ăm t h à n h ngữ tương đương có cùng một con vật, bao n hi êu t h à n h ngừ tương đương có cùng con vặt và cùng phương thức biểu hiện, bao n h i êu t h à n h ngữ tương đương có cùng con vật n h ư n g không cùng phương thức biếu h i ện V . V . , từ đó sẽ t h ấ y được hai nền văn hóa có gần n h a u không.

Tiếp đó, với nhóm t h à n h ngữ có cùng ý nghĩa từ vựng n h ư n g khác tên con vật, n h ấ t là n h ừ n g con v ậ t được d ù n g trong t h à n h ngữ dựa cách hì n h du ng của con người hay n h ữ n g h ìn h ả n h t ro ng tiềm thức của con người về con v ậ t đó, ta có thề r ú t ra được n h ữ n g kêt l u ậ n liên q ua n đến việc hai dân tộc tìm th ấy ở n h ữ n g con vật khác nha u n h ữ n g đặc điểm giông nh au , có nghĩa là cùng một đặc điểm, một hiện tượng nh ưn g h a i dân tộc đó lại tìm th ấy ỏ t ro ng nh ữn g con vật khác n ha u, hoặc là trong mối liên tưởng về n h ữ n g con vật khác nh au .

Kết lu ậ n

T r ê n đây c h ú n g tôi đã t r ì n h bày một số vấn đề về phương ph áp nghiên cứu so sá nh đôi chiêu t h à n h ngữ gắn với văn hóa. T h à n h ngữ là một trong n h ữ n g đơn vị ngôn ngữ thế hi ện rõ n é t n h ấ t các đặc t r ư n g văn hóa của một dân tộc nói các ngôn ngữ đó. Việc đi tìm các đặc t r ư n g văn hóa của các dân tộc qua nghiên cứu so sánh đôi chiêu t h à n h ngừ của hai hay nh iều ngôn ngữ sẽ giúp ta tìm ra được đặc t r ưn g văn hóa của các d â n tộc. Việc ng hiên cứu đôì chiếu t h à n h ngữ của hai hay nhiều ngôn ngừ có thê được ti ế n h à n h theo n h i ều cách, trong đó có sự p h â n tích so sánh đôi chiêu cấu t r ú c h ì n h t h á i của t h à n h ngữ, các yếu tô" hay đổi tượng mà các t h à n h tô cấu tạo t h à n h ngữ biểu đạt, ý nghĩa từ vựng của t h à n h ngữ, cũng n h ư các con sô"

thông kê dựa vào các t iê u chí khác n h a u của t h à n h ngữ.

Việc nghiên cứu t h à n h ngữ gắn với văn hóa, n h ư ở p h ầ n đầu đã nói, còn có thê thự c hi ện theo chiều ngược lại, có n g h ĩ a là dựa vào các đặc điểm về văn hóa của

(11)

50 Ngô Minh Thủy mỗi dân tộc (hay nói chính xác hơn là dựa vào nhữ n g “tri t h ứ c n ề n ” vê văn hóa) đê ph ân tích quá t r ì n h h ì n h t h à n h nghla của t h à n h ngữ, để giải thích ý nghĩa của t h à n h ngữ, giải thích n h ừ n g điểm giông và khác n h a u về c ấu trúc h ì n h th á i và vê ngữ nghĩa của t h à n h ngữ, giải thích sự giông và khác n h a u về sô" lượng của nhóm t h à n h ngữ này hay nhóm t h à n h ngữ khác cũng như sự giông và k há c n h a u trong cách sử dụn g các yếu tô", đối tượng n h ư động vật, bộ p h ậ n cơ thể, các hi ện tượng tự nhiên v.v... mà các t h à n h tô' cấu tạo t h à n h ngữ biểu đạt. Ngoài ra, theo chún g tôi, một công tr ìn h nghiên cứu t h à n h ngữ gắn với văn hóa có th ế đồng thòi tiến hà n h theo hai chiểu : 1/ Nghiên cứu các đặc tr ư n g văn hóa thê h i ệ n tro ng t h à n h ngừ, và 2) Thông qua các đặc t r ư n g vă n hóa giải thích nh ữn g sự giông n h a u và khác nh au trong t h à n h ngữ ha i ngôn ngữ. Trong khuôn khổ của bài báo này, c h ú n g tôi mới chi đề cập đến một m ặ t của vấn đề là nghiên cứu các đặc t r ư n g văn hóa d ân tộc qua việc so sá n h đổì chiếu t h à n h ngữ. Các vấn đê còn lại c h ú n g tôi xin tr ìn h bày trong một bài viết khác.

TƯ LIỆU THAM KHẢO

1. Lâm Thị Hòa Bình, Đốì chiếu t h à n h ngữ chỉ t r ạ n g t h á i t â m lí t ron g tiếng Anh và tiếng Việt, L u ậ n văn thạc sĩ, 2000

2. Hoàng Văn Hà nh, T h à n h n g ữ học tiếng V iệt, Nxb Khoa học Xã Hội, 2002

%

3. Nguyễn Xuân Hòa, Đôi chiếu t h à n h ngữ Nga - Việt t r ê n bình diện giao tiếp, Lu ậ n án phó tiến sĩ khoa học n g ữ ưăn, 1996.

4. T rầ n Thị Lan, Phương thức dịch t h à n h ngữ đánh giá con người tr ên tư liệu của ba ngôn ngữ Anh - Nga - Việt, L u ậ n án tiến sĩ ngữ v ă n, 2002

5. Nguyễn Văn Khang, Bình diện vă n hóa, xã hội - ngôn ngữ học của t h à n h ngữ gốc Há n t ro ng tiếng Việt, Tạp chí Văn hóa d â n g i a n, số 1, 1994

6. Đỗ Hoàng Ngân, T h à n h ngữ có từ chỉ bộ p h ậ n cơ t h ể tr o n g tiêng Nga và đỏi chiếu với tiếng Việt, L u ậ n văn thạc sĩ, 1996

7. P h a n Văn Quế, Ngữ nghĩa của t h à n h ngữ - tục ngữ có t h à n h tô" chỉ động vật trong tiếng Anh (trong sự so sá nh đôi chiếu với tiếng Việt), L u ậ n án p h ó tiến sĩ, 1996.

8. Giang Thị Tám, Khảo s á t t h à n h ngữ tiếng H á n có yếu tô chỉ con sõ tro n g sự đôì chiếu với t h à n h ngừ tiếng Việt có yếu tô" là con sô", L u ậ n văn thạc sĩ, 2001

9. Ngô Minh Thủy, T h à n h ngữ có từ chỉ c o n ‘vậ t trong ti ế n g Nga so sá nh đối chiếu vỏi tiếng Anh và tiếng Việt, L u ậ n văn thạc sĩ, 1996

(12)

về

một hướng đi t ro n g nghiên cứu so sánh đôi chiêu thành ngừ 51 10. Ngô Minh Thủy, Một sô' yếu tổ* ả n h hưởng đến sư khá c biệt của t h à n h ngữ trong

hai ngôn ngừ N h ậ t - Việt, Tạp c h í Ngôn ngữ và đời sống, sô' 5 (67), 2001

11. Nguyễn Như Ý (chủ biên), Hoàng Văn Hành, Lê Xuân Thại, Nguyễn Văn Khang, P h a n Xu ân T h à n h , T ừ điên giải thích th à n h n gữ tiếng Việt, Nxb Giáo dục, ] 998.

12. Một số luận văn t h ạ c sĩ liên qua n đến so sá nh đối chiếu t h à n h ngữ, trường Đ H N N- Đ HQ GH N

VNU. JOURNAL OF SCIENCE, Foreign Languages, T.XVIII, N01, 2002

AN A P P R O A C H TO CONTRASTIVE RE SEA RCH OF IDIOMS

N go M inh T h u y

D ep a rtm en t o f Oriental Languages a n d Cultures College o f Foreign Languages - V N U

Ba sin g on t h e v iew po int t h a t idioms are special l an g u a g e u n i ts in which the c u l t u r a l value of a n a ti o n is crystallized a n d the view of world, t he view of life of people can be showed t h e most truthfully, obviously a n d copiously, the a u th o r considers t h a t s t u d y i n g idioms in the connection between la n gu a ge a n d c u ltu re is a good and effective way for a comparative stu dy of idioms in two or more langua ges.

According to t he a u t h o r , the connection of la n gu a ge ele m e n ts a n d cult ur al e le m e n t s in a c o m p a r a t i v e stu dy of idioms can be done from two sides: 1) Using c u lt u r a l e le m e nt s to s t u d y idioms a n d 2) St ud yi ng idioms to find the c ul tu ra l elements.

Using m an y e x a m p le s of English, J a p a n e s e a nd V i e tn a m e se idioms, basing on the m a t e r i a l s of p re vi o us studies, the pa per describes a nd anal ysis the way to study idioms in connection with cult ur e from the first side: St u d yi n g cult ur e of two or more na tio ns t h r o u g h t h e compa rative study of idioms.

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

It has been proven in theory and practice that organizational culture plays an important role in creating rapid and sustainable development for an organization

TAP CHl KHOA HỌC ĐHQGHN... Taylor and

[r]

ỏng cho ràng vàn hoả lúa nước Viẻt Nam ỉà vân hoá lũa nước (ĩnh cỏn Trung Quốc là văn hóa lua nưòc đỏng (Trần Ngoe Thêm 2001.. Mường hợp lát mong đợi.. đại học còng

A part from this, th e article points out the m istakes made by some approaches to poetry which ignore the analysis of th e image revealed in some types of word

[r]

[r]

(c) highlighting tho contradictoiy nature of tho descrih<*ci; (2) rrflection of the vivicl Mìiotional expression of speech; and (3) creation of oxymoron