• Không có kết quả nào được tìm thấy

CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ"

Copied!
10
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

Tập 179, số 03, 2018

Tập 179, Số 03, 2018

(2)

T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ

CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ

Môc lôc Trang

Nghiêm Thị Hồ Thu - Cơ sở hình thành đặc điểm văn xuôi Ngọc Giao 3

Vũ Thị Hạnh - Từ ý thức về phái tính đến hình tượng người phụ nữ hiện đại trong tiểu thuyết Việt Nam đầu thế

kỷ XXI 9

Phạm Thị Ngọc Anh - Ứng dụng hoa văn thủy ba trong điêu khắc tượng đài đương đại ở Việt Nam 15 Phùng Phương Nga, Đoàn Đức Hải - Biểu tượng trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh (Khảo sát qua Hồ Quý

Ly, Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa) 21

Vũ Thúy Hằng, Đoàn Thị Hồng Nhung - Luận bàn về cách phân loại tín ngưỡng thờ Mẫu 25 Phạm Văn Hùng, Nguyễn Huy Hùng, Nguyễn Thị Thu Hương - Đại học Thái Nguyên với hoạt động đánh

giá đầu ra của chương trình đào tạo qua mức độ đáp ứng chuẩn đầu ra của sinh viên chuẩn bị tốt nghiệp 31 Hoàng Duy Tường - Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục thể chất cho sinh viên trường Đại học Y Dược - Đại

học Thái Nguyên 37

Hoàng Thu Thuỷ, Lý Trung Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh – người đặt nền móng cho quan hệ đặc

biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam 45

Trần Thị Lan - Vận dụng thuyết kiến tạo trong dạy học “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin”

ở các trường đại học 49

Nguyễn Thanh Tú - Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Anh tại trường Đại học Giao thông

Vận tải, cơ sở đào tạo Thái Nguyên 55

Nguyễn Thị Hoài Thu - Một số phương pháp dạy học tích cực nhằm phát triển kỹ năng nói tiếng Việt một cách hiệu

quả cho học viên quốc tế tại Học viện Kỹ thuật Quân sự 61

Ngô Thị Lan Anh, Võ Văn Trí - Sự cần thiết của việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường sinh thái cho thanh

niên ở thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang 67 Lê Văn Hiếu - Công tác tuyên truyền qua mô hình “ban tuyên vận” xã, phường, thị trấn và “tổ tuyên vận” thôn,

bản, tổ dân phố ở huyện Bắc Hà (tỉnh Lào Cai) 73

Trần Hoàng Tinh, Trần Văn Khánh, Nguyễn Trung Kiên - Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá hoạt

động giáo dục tính kỷ luật cho sinh viên tại trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh trong giai đoạn hiện nay 79 Nguyễn Mai Anh, Nguyễn Thị Hoàng Lan - Đổi mới nội dung giáo dục pháp luật trong chương trình đào tạo

cử nhân giáo dục chính trị của trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đáp ứng yêu cầu của chương

trình giáo dục phổ thông mới 85

Đỗ Thị Ngọc Phương, Trần Thị Thảo - Phát huy thế mạnh đề án trong ngôn ngữ viết được sử dụng bởi sinh

viên chuyên ngữ năm 2, trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên 91

Vũ Đình Bắc, Lý Mai Hương, Hoàng Thị Hồng Hạnh - Sử dụng hoạt động nhóm để nâng cao kĩ năng nói cho

sinh viên chuyên ngữ năm nhất trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên 97 Nguyễn Thị Hằng, Lê Thị Quyên, Nguyễn Lệ Mai, Vũ Thị Lếnh - Tổ chức học trải nghiệm chủ đề “sâu,

bệnh hại cây trồng” (Công nghệ 10 - THPT) 103

Nguyễn Thị Khương - Vận dụng mô hình lớp học đảo ngược trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trung học

phổ thông 109

Lại Thu Uyên, Vũ Đình Bắc, Nguyễn Thành Long - Nâng cao ngữ pháp cho sinh viên chuyên ngữ năm 3

trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên thông qua kiểm tra chéo 115

Nguyễn Thị Hồng Chuyên, Hà Thị Như Quỳnh - Sử dụng kỹ thuật bắt chước trong việc nâng cao khả năng nói

tiếng Anh của sinh viên năm 2 không chuyên trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên 121

Journal of Science and Technology

179 (03)

N¨m

2018

(3)

Nguyễn Nam Hà, Nguyễn Thị Thủy - Đánh giá thực trạng thể chất của sinh viên Đại học Thái Nguyên 127 Vũ Thị Thanh Thủy, Chu Văn Trung, Cao Thùy Linh - Nghiên cứu thực trạng và tiềm năng phát triển du

lịch tỉnh Thái Nguyên 133

Trần Thị Ngọc Hà - Nghiên cứu mô hình kinh tế nông hộ nhằm quản lý và sử dụng đất dốc bền vững tại vùng

trồng chè La Bằng, Đại Từ, Thái Nguyên 139

Nguyễn Văn Tâm, Hà Thị Hòa, Bùi Thị Minh Hà, Lê Thị Hoa Sen, Đặng Thị Hương - Ảnh hưởng của yếu

tố nguồn lực đến đa dạng sinh kế nông hộ trồng chè trên địa bàn huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên 143 Hoàng Văn Hải, Hoàng Thị Thu Hằng - Ảnh hưởng của phân bón đến năng suất lúa tại Thái Nguyên 149 Đặng Thương Hoài Linh, Lý Thu Trang - Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật quốc tế và pháp

luật Việt Nam 155

Đỗ Tuyết Ngân - Vai trò của phụ nữ trong phát triển du lịch cộng đồng ở thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái 163 Vũ Thị Thu - Đánh giá sự thay đổi sử dụng đất nông nghiệp trong điều kiện biến đổi khí hậu tại huyện Giao Thuỷ,

tỉnh Nam Định 169

Phạm Thị Thanh Mai,Trần Lệ Kim, Nguyễn Thị Lan - Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ

trong sản xuất chè tại thành phố Thái Nguyên 175

Nguyễn Thị Bích Hạnh, Nguyễn Thị Thu Thủy - Đánh giá hiệu quả của các loại hình sử dụng đất nông nghiệp

xã Yên Phúc, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn 181

Đặng Quỳnh Trinh, Trần Văn Hùng - Công tác kiểm tra thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp

ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên 187

(4)

Đỗ Tuyết Ngân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 179(03): 163 - 167

163 VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỘNG ĐỒNG

Ở THỊ XÃ NGHĨA LỘ, TỈNH YÊN BÁI

Đỗ Tuyết Ngân* Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên

TÓM TẮT

Thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái là nơi cộng đồng người Thái sinh sống chủ yếu bằng nghề nông – lâm nghiệp, đời sống còn nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, của quá trình đô thị hóa, đồng bào Thái với rất nhiều nét văn hóa truyền thống đã bị biến đổi, mai một, nhiều phong tục gần như mất hẳn. Phát triển du lịch cộng đồng là một hướng phát triển mới tạo ra sinh kế cho người dân địa phương vừa góp phần bảo vệ môi trường tự nhiên, vừa góp phần bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Trong khuôn khổ bài báo, tác giả tập trung phân tích cụ thể thực trạng phát triển du lịch cộng đồng tại thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái, trong đó nhấn mạnh hiệu quả việc nâng cao nhận thức xã hội về vai trò của người phụ nữ khi tham gia các hoạt động du lịch.

Từ khóa: Cộng đồng địa phương; Nâng cao nhận thức; Vai trò của phụ nữ; Du lịch cộng đồng;

Thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái.

ĐẶT VẤN ĐỀ *

Với sự phát triển của xã hôi, nhu cầu của du khách tìm hiểu về cộng đồng, các nền văn hóa ngoài phạm vi cư trú của mình ngày càng gia tăng. Vai trò của phụ nữ góp phần để du lịch cộng đồng phát triển, tạo công ăn việc làm cũng như quảng bá văn hóa của cộng đồng mình rất lớn. Để phát triển du lịch cộng đồng đúng hướng, và đặc biệt để khai thác hiệu quả vai trò phụ nữ trong hoạt động này, chúng ta cần nghiên cứu cách thức, mô hình thành công của thế giới và trong nước ta đang triển khai hiện nay.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

- Phương pháp thống kê: Thu thập các tin, bài viết và nguồn tư liệu phục vụ đề tài.

- Phương pháp thu thập và xử lý thông tin:

Tác giả đã thu thập các tài liệu về du lịch, du lịch cộng đồng, về vai trò của phụ nữ trong khai thác, phát triển du lịch cộng đồng, cơ chế tham gia của phụ nữ và các chính sách của chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội và các bên liên quan trong việc tạo điều kiện để phụ nữ có thể tham gia vào mô hình du lịch cồng đồng, từ đó phân tích hiện trạng, kết

*Tel: 0969 72 63 09; Email: dtngandl52@gmail.com

luận và đưa ra dự đoán xu hướng cho vấn đề nghiên cứu.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH CÔNG ĐỒNG

Khái niệm du lịch cộng đồng (Community Based Tourism - CBT) bắt nguồn từ đầu thế kỉ XX ở phương Tây, được nhiều tác giả khác nhau căn cứ vào nhiều góc nhìn khác nhau đưa ra định nghĩa. Theo Võ Quế: “CBT là loại hình du lịch mang lại cho du khách những trải nghiệm về cuộc sống địa phương, trong đó, các cộng đồng địa phương tham gia trực tiếp vào hoạt động du lịch và thu được các lợi ích kinh tế - xã hội, chịu trách nhiệm bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường và văn hóa địa phương” [1].

Trong CBT, khách du lịch ghé thăm địa phương, sẽ trực tiếp gặp gỡ giao lưu và chia sẻ kiến thức văn hóa bản địa. Người dân địa phương sẽ có cơ hội đóng góp nhiều hơn trong phát triển địa phương mình, họ sẽ cảm thấy tự hào khi được góp phần tham gia phát triển kinh tế - xã hội.

Trong bối cảnh kinh tế - xã hội thế giới đương đại, CBT mang trong mình các đặc trưng tiêu biểu sau:

(5)

Đỗ Tuyết Ngân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 179(03): 163 - 167

164

(1) Bình đẳng xã hội: các thành viên cộng đồng tham gia lập kế hoạch, thực hiện và quản lý các hoạt động du lịch của cộng đồng mình.

(2) Tôn trọng bản sắc văn hóa địa phương và các di sản thiên nhiên: Việc tôn trọng và bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên và sắc thái văn hóa địa phương sẽ là động lực và nền tảng cho sự tái tạo nguồn tài nguyên cho hoạt động du lịch.

(3) Sẻ chia lợi ích và trách nhiệm: Không những lợi ích được chia đều mà các bên tham gia (doanh nghiệp, cộng đồng) phải có trách nhiệm đóng góp trùng tu, cải thiện, nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động du lịch và hoạt động dân sinh từ nguồn thu hoạt động CBT.

(4) Quyền sở hữu tài nguyên và nguyên tắc tham gia quản lý của cộng đồng: Trong CBT, cộng đồng sở hữu các tài nguyên du lịch, họ trực tiếp chia sẻ các tri thức dân gian trong các bình diện của đời sống dân sinh như ẩm thực, âm nhạc, văn học dân gian, phong tục – tập quán, nghề truyền thống, phong cách sống v.v.

(5) Phát triển kinh tế bền vững: để tránh những tác động có hại đến kinh tế, xã hội và môi trường du lịch, việc tìm kiếm một mô hình du lịch bảo tồn đã dẫn đến sự ra đời của du lịch bền vững vừa kết hợp giữa sinh thái và văn hoá làm tâm điểm, vừa đáp ứng nhu cầu giải trí vừa nâng cao giá trị cuộc sống.

CBT bắt đầu phát triển ở Việt Nam vào cuối những năm 1980 với những du khách đầu tiên đến từ Đông Âu cũ. Vào đầu những năm 1990, thị trường du lịch đã mở cửa đón khách du lịch phương Tây và dần dần là khách nội địa. Hòa Bình (Bản Lác, Mai Châu) là nơi đầu tiên ở Bắc Bộ hoạt động du lịch cộng đồng.

Tiếp đó nhiều điểm đến du lịch được hình thành đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển du lịch của đất nước ta trong nhiều năm qua [1].

VAI TRÒ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG PHÁT TRIỂN CBT

Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều coi trọng phát triển du lịch. Ở Việt Nam,

du lịch được coi là xu hướng tất yếu và là đầu tàu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Ngành “công nghiệp không khói” mang về một nguồn thu không nhỏ cho nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những tiềm năng trên, hiện nay, ngành Du lịch Việt Nam còn gặp không ít khó khăn và thách thức. Một trong những nguyên nhân của hiện trạng này là do chưa khai thác được hết tiềm lực dồi dào của nguồn lao động, trong đó phải kể đến vai trò của phụ nữ trong hoạt động sản xuất, khai thác kinh doanh du lịch. Qua dự án “Tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong phát triển du lịch cộng đồng” tại năm tỉnh Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La và Hoà Bình của Tổng cục Du lịch đã cho thấy sự đóng góp tích cực của phụ nữ trong việc góp phần đa dạng hóa các sản phẩm du lịch theo hướng bền vững, giữ gìn và khai thác tối đa, hiệu quả các giá trị độc đáo, bản sắc văn hóa, thiên nhiên của du lịch Việt Nam như du lịch có trách nhiệm, du lịch biển, du lịch sinh thái, du lịch văn hóa.

MỘT SỐ MÔ HÌNH CBT THÀNH CÔNG CÓ SỰ THAM GIA CỦA PHỤ NỮ

Mô hình tại Hua Hin – Thái Lan

Thực hiện các chương trình áp dụng thay đổi cách thức tiếp cận xu hướng du lịch của thế giới thời hậu hiện đại, ngành du lịch Thái Lan đã chủ động tiếp cận xu hướng tập trung vào lượng khách du lịch có thu nhập cao đến du lịch tại Thái Lan. Hua Hin cách thủ đô Bangkok khoảng 250 km, thủ phủ tỉnh Prachuap Khiri Khan, thành phố có khoảng 50 ngàn dân, một thành phố nghỉ dưỡng, thời tiết ấm quanh năm, có địa hình đa dạng và cũng là nơi có những bãi biển tuyệt đẹp.

Người dân nói chung và phụ nữ ở Hua Hin nói riêng tham gia vào các hoạt động du lịch khá lớn, bằng nhiều hình thức và góp phần cho du lịch ở đây trở thành một điểm du lịch hết sức độc đáo. Bằng việc sáng tạo ra các sản phẩm lưu niệm đa dạng, mang đặc trưng của vùng Hua Hin. Ngoài ra, phụ nữ làm du lịch ở Hua Hin còn tham gia dạy các lớp ẩm thực địa

(6)

Đỗ Tuyết Ngân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 179(03): 163 - 167

165 phương, trang trí hoa quả, mát xa, Yoga cho

khách du lịch, từ đó góp phần quảng bá du lịch cho Hua Hin. Các dịch vụ giáo dục cũng bắt đầu được tính đến khi các trường danh tiếng được mời đến đặt trụ sở dạy các chương trình cao học hay quản trị doanh nghiệp, du lịch, các lớp đào tạo ngắn hạn, dù chưa thể bằng các trường lớn đặt tại Bangkok nhưng Hua Hin bước đầu đã có thay đổi tích cực [2].

Như vậy, Hua Hin phát triển du lịch theo một hệ thống toàn diện từ chính phủ, đến chính quyền địa phương, các đơn vị làm du lịch, người dân cùng tham gia đáp ứng các nhu cầu của du khách, tạo nên sự phát triển du lịch bền vững thành phố này.

Mô hình tại Vàng Pheo (Lai Châu)

Hiện nay trên địa bàn tỉnh Lai Châu có bốn điểm du lịch cộng đồng được tỉnh công nhận đó là bản Nà Luồng, bản Hon (huyện Tam Đường), bản Gia Khâu I (thị xã Lai Châu) và bản Vàng Pheo (huyện Phong Thổ). Đến năm 2013, Vàng Pheo trở thành một điểm đến du lịch cộng đồng trọng điểm của Lai Châu và Vùng Tây Bắc. Nhằm tăng cường vai trò của phụ nữ trong phát triển du lịch, bản Vàng Pheo đã thành lập 2 đội văn nghệ của Chi hội Người cao tuổi và Chi hội Phụ nữ bản. Đó chính là hạt nhân thúc đẩy phong trào văn hoá, văn nghệ, thể thao của bản ngày càng phát triển. Các đội thường xuyên luyện tập, không chỉ để biểu diễn vào các dịp lễ tết, hội hè mà bất cứ khi nào du khách tới thăm bản có nhu cầu các đội đều sẵn sàng phục vụ.

Phát triển du lịch đem lại lợi ích chung về văn hóa xã hội và môi trường cho toàn dân bản.

Đặc biệt đem lại lợi ích kinh tế trực tiếp cho:

 Có ít nhất 15 hộ gia đình tham gia cung cấp dịch vụ lưu trú;

 Có 10 hướng dẫn viên thôn bản;

 Toàn đội văn nghệ với 20 người bao gồm cả người già, thanh niên và trẻ em thành thạo các điệu hát, múa và chơi nhạc cụ truyền thống góp phần duy trì bản sắc dân tộc và có năng lực biểu diễn phục vụ khách;

 30 phụ nữ có thu nhập từ phục vụ dịch vụ ẩm thực, bán các đặc sản địa phương, hàng thổ cẩm.

Rõ ràng với những định hướng phát triển du lịch đúng đắn và hợp xu thế, kết quả của mô hình CBT tại Vàng Pheo đã tạo ra hiệu quả tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo nhiều việc làm, xóa đói giảm nghèo; tạo điều kiện thuận lợi và đảm bảo môi trường cho phát triển du lịch.

VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ NGHĨA LỘ TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH CBT

Dự án “Tăng cường năng lực ngành Du lịch Việt Nam trong thực hiện Chiến lược phát triển du lịch giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn 2030” do Chính phủ Tây Ban Nha tài trợ thông qua cơ quan Hợp tác phát triển quốc tế Tây Ban Nha (Aecid). Với kinh phí 400 nghìn euro được triển khai từ tháng 11 năm 2011 đến tháng 2 năm 2013 đã thực hiện khảo sát thực tế tại năm tỉnh Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La và Hoà Bình góp phần nâng cao nhận thức của xã hội về hoạt động du lịch với sự tham gia của phụ nữ. Ngoài ra, dự án xây dựng tài liệu hướng dẫn cho phụ nữ ở các địa phương nâng cao năng lực kinh doanh du lịch, tổ chức tập huấn cho hơn 200 phụ nữ và cộng đồng tại địa phương về du lịch văn hoá [3].

Tiếp nối thành công của dự án, hiện nay thị xã có khoảng 20 hộ dân đã và đang làm du lịch với hình thức du lịch cộng đồng, tập trung tại bản Đêu, xã Nghĩa An và bản Chao Hạ, xã Nghĩa Lợi. Với nhiều nỗ lực trong việc quảng bá giới thiệu về một vùng đất văn hóa, tạo ra một sức hút mới đối với nhiều du khách trong và ngoài nước. Hơn nữa đó là sự thay đổi cách nghĩ, cách làm du lịch của người dân và các cấp chính quyền hướng tới giá trị bền vững. Trong quá trình khai thác du lịch, phụ nữ Nghĩa Lộ đã thể hiện vai trò, trách nhiệm của mình thông qua các hoạt động như: cung cấp các dịch vụ lưu trú homestay tại địa phương, trực tiếp hướng dẫn tham quan tour

(7)

Đỗ Tuyết Ngân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 179(03): 163 - 167

166

làng bản, phối hợp mở các lớp truyền nghề, dạy nghề nấu ăn (các học viên được truyền đạt, hướng dẫn nấu các món ăn truyền thống của dân tộc Thái như cơm lam, gà nướng, nộm hoa chuối, mọc, các loại bánh, v.v. cũng như các món ăn hiện đại như sườn nướng, thịt nướng, cá hấp, cá kho, sa lát, v.v. để phục vụ theo nhu cầu của du khách, đặc biệt là du khách nước ngoài).

Ngoài phục vụ nhu cầu ăn, nghỉ, đi lại thăm quan của du khách thì hoạt động văn hoá, văn nghệ tìm hiểu các nét văn hóa đặc sắc của đồng bào dân tộc Thái - Nghĩa Lộ cũng được đẩy mạnh khai thác. Nhiều gia đình đã vận động được anh em con cháu trong gia đình và bà con dân bản thành lập được đội văn nghệ thường xuyên luyện tập các điệu múa, đặc trưng của dân tộc Thái như: Múa Khăn, múa Quạt, các bài hát Khắp Thái, v.v. để biểu diễn phục vụ du khách.

Về cơ chế chia sẻ lợi ích, hiện tại ở Nghĩa Lộ đang xây dựng đề án hướng dẫn định mức ngày công làm việc của các tổ dịch vụ khai thác du lịch, ưu tiên cho những người nghèo, phụ nữ vào tham gia cung cấp các hoạt động dịch vụ cho khách du lịch để được hưởng lợi từ du lịch. Cụ thể:

- Các thành viên tham gia biểu diễn văn nghệ được hưởng 40.000 đồng cho mỗi xuất diễn.

- Các thành viên phục vụ nấu ăn được hưởng 50.000 đồng một người nếu nấu cho 1 bữa ăn chính; và 15.000 đ nếu nấu cho bữa ăn sáng.

- Các thành viên tổ phục vụ đón tiếp và nghỉ qua đêm tại nhà sàn được hưởng 80.00đồng/ngày làm việc.

- Các hướng dẫn viên đưa khách đi tham quan suối, rừng thác được hưởng 100.000 đồng cho mỗi chuyến đi.

- Các hướng dẫn viên đưa khách đi tham quan thôn bản được hưởng 50.000 đồng cho mỗi chuyến tham quan.

- Các hộ gia đình làm nghề dệt vải, đan lát và làm vườn có nhận khách tham quan tại

nhà được hưởng 20.000 đồng cho mỗi đoàn tham quan.

- Thành viên các tổ thủ công mỹ nghệ không được trả công mà chỉ được hưởng lợi khi bán được sản phẩm cho khách

Theo kết quả khảo sát tại địa bàn xã Nghĩa Lợi cho thấy toàn xã có 17 hộ gia đình hội viên phụ nữ tham gia làm du lịch công đồng (trong đó ở bản Xà Rèn có 9 hộ, bản Chao Hạ 1, Chao Hạ 2 có 8 hộ) với thu nhập bình quân đạt 50 - 80 triệu đồng/hộ/năm ; 100% các hộ làm du lịch cộng đồng ở đây đều là do những hội viên phụ nữ làm chủ. Mô hình du lịch cộng đồng của chị em hội viên phụ nữ xã Nghĩa Lợi đều mang lại hiệu quả tích cực, giúp các hộ gia đình nâng cao thu nhập, ngoài ra còn giúp giải quyết công ăn việc làm cho phụ nữ tại địa phương và góp phần thúc đẩy ngành thương mại dịch vụ trên địa bàn xã phát triển theo hướng tích cực và hiệu quả hơn.

KẾT LUẬN

Với mục tiêu phát triển du lịch cộng đồng tập trung vào kinh tế địa phương và sự tham gia của phụ nữ là hướng đi mới để người dân nơi đây thoát nghèo, không những góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhiều gia đình mà còn góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn, đóng góp tích cực trong xây dựng nông thôn mới ở Nghĩa Lộ. Những kết quả đó có vai trò đóng góp tích cực của các chị em hội viên phụ nữ. Du lịch cộng đồng không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của địa phương mà còn góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, đặc biệt là các cộng đồng cư dân trong khu vực hưởng dự án. Chính vì vậy, để phát triển du lịch cộng đồng, một trong những vấn đề cốt lõi là nâng cao trình độ nhận thức và phát huy vai trò chủ thể của người dân địa phương, trong đó phụ nữ đóng vai trò nhất định, vì phụ nữ vừa là người trực tiếp tham gia, vừa là hình ảnh đại diện cho văn hóa, con người của vùng đất bản địa.

(8)

Đỗ Tuyết Ngân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 179(03): 163 - 167

167 TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Võ Quế (2011), Du lịch cộng đồng - lý thuyết và vận dụng. Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

2. Kedwadee Sombultawee, Sitanan Vongsakulpaisad (2014), The destination image of Hua Hin: Envidence from Thai Couple, Kỷ yếu hội

thảo “Làng nghề và phát triển du lịch”, Nxb Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh, ISBN: 978-604-73- 2448-4: tr-688.

3. Cục thống kê tỉnh Yên Bái (2017), Niên giám Thống kê tỉnh Yên Bái năm 2016, Nxb Thống kê, Hà Nội.

SUMMARY

THE ROLE OF WOMEN WITH COMMUNITY BASED TOURISM DEVELOPMENT IN NGHIA LO TOWN, YEN BAI PROVINCE

Do Tuyet Ngan* TNU University of Sciences

Nghia Lo town, Yen Bai province is home of the Thai ethnic group, which still preserves traditional cultural features. Thai community mainly live in agriculture - forestry and their life is extremely difficult. In addition, due to the influence of the market economy and the urbanization process, Its culture has been transformed gradually and many customs are almost lost. Community based tourism creates livelihoods for local people, contributing to the preservation of the natural environment as well as traditional cultural values. Within the framework of the article, the author focused on the specific situation of community based tourism development of Nghia Lo town, Yen Bai province and emphasized on raising awareness of society about the participation of women in tourism activities.

Key words: Local community; enhance awareness; the role of women; community based tourism;

Nghia Lo town; Yen Bai province.

Ngày nhận bài: 18/12/2017; Ngày phản biện: 25/01/2018; Ngày duyệt đăng: 21/3/2018

*Tel: 0969 72 63 09; Email: dtngandl52@gmail.com

(9)

soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ

SOCIAL SCIENCE – HUMANITIES – ECONOMICS

Content Page

Nghiem Thi Ho Thu - Formation basis of Ngoc Giao’s prose characteristics 3

Vu Thi Hanh - From new consiousness of gender characteristics to new women in Vietnamese novels at the

beginning of 21st century 9

Pham Thi Ngoc Anh - Applications of water-wave icons on contemporary sculpture of monuments in Viet Nam 15 Phung Phuong Nga, Doan Duc Hai - Symbols in Nguyen Xuan Khanh's novels (the cases of novels Hồ Quý

Ly, Mẫu thượng ngàn, and Đội gạo lên chùa) 21

Vu Thuy Hang, Doan Thi Hong Nhung - Discussion on classification of the motherworship religion 25 Pham Van Hung, Nguyen Huy Hung, Nguyen Thi Thu Huong - Thai Nguyen University’s assessment of

program learning outcomes through the assessment of senior students near their completion of their

undergraduate degree 31

Hoang Duy Tuong - Solutions to enhance physical education efficiency for students at Thai Nguyen University

of Medicine and Pharmacy – Thai Nguyen University 37

Hoang Thu Thuy, Ly Trung Thanh - Nguyen Ai Quoc – Ho Chi Minh – who set the foundation for the special

relationship between Vietnam and Laos 45

Tran Thi Lan - Applying the tectonic theory to teaching "the basic principles of the Marxism - Leninism" in

universities 49

Nguyen Thanh Tu - Some solutions to enhance the quality of teaching and learning English at University of

Transport Technology, Thai Nguyen Campus 55

Nguyen Thi Hoai Thu - Methods of active teaching for efficient development of Vietnamese speaking skill for

foreign students at Military Technical Academy 61

Ngo Thi Lan Anh, Vo Van Tri - Necessity of educating the consciousness of ecological environment

protection for youth in Long Xuyen city, An Giang province 67

Le Van Hieu - Communications projected by the model "propaganda department" in communes, wards,

township and "commander" in villages, cities in Bac Ha district (Lao Cai province) 73 Tran Hoang Tinh, Tran Van Khanh, Nguyen Trung Kien - Strengthen examination and evaluation of disciplinary

education activities for students at national defense and security education centers in the current phase 79 Nguyen Mai Anh, Nguyen Thi Hoang Lan - Renovation of legal education content in the bachelor’s degree

program in political education of Thai Nguyen University of Education to meet the requirements of the new

general education curriculum 85

Do Thi Ngoc Phuong, Tran Thi Thao - Project power in the study of the English written language used by the

second-year English majors at Thai Nguyen University of Education 91

Vu Dinh Bac, Ly Mai Huong, Hoang Thi Hong Hanh - Using group-work activities to improve English

speaking skill for the first year English majors at Thai Nguyen University of Education 97 Nguyen Thi Hang, Le Thi Quyen, Nguyen Le Mai, Vu Thi Lenh - Organizing the experiential learning in

teaching the theme “pests and disease of plants” (Technology 10 in high school) 103 Nguyen Thi Khuong - Applying the flipped classroom model in teaching citizen education subject in high

school 109

Lai Thu Uyen, Vu Dinh Bac, Nguyen Thanh Long- Enhance grammar of third-year students of English major

through peer check at Thai Nguyen University of Education 115

Nguyen Thi Hong Chuyen, Ha Thi Nhu Quynh - Imitation technique in improving 2nd year non-English major

students’ oral competence discourse at Thai Nguyen University of Education 121

Journal of Science and Technology

179 (03)

N¨m

2018

(10)

Nguyen Nam Ha, Nguyen Thi Thuy - Assessment on physical condition of students at Thai Nguyen University 127 Vu Thi Thanh Thuy, Chu Van Trung, Cao Thuy Linh - Research on the current and potential developments

of Thai Nguyen tourism industry 133

Tran Thi Ngoc Ha - Researching household economy model for sustainable management and use on sloping

land in tea growing areas in La Bang commune, Dai Tu district, Thai Nguyen province 139 Nguyen Van Tam, Ha Thi Hoa, Bui Thi Minh Ha, Le Thi Hoa Sen, Dang Thi Huong-Impact of resource

factors on livelihood diversification of tea growing households in Dai Tu district, Thai Nguyen province 143 Hoang Van Hai, Hoang Thi Thu Hang - The effects of fertilizers on rice yield in Thai Nguyen 149

Dang Thuong Hoai Linh, Ly Thu Trang - The international and Vietnamese laws on protection of well-known

trademarks 155

Do Tuyet Ngan - The role of women with community based tourism development in Nghia Lo town, Yen Bai

province 163

Vu Thi Thu - Assessing the agricultural land use change under the climate change context in Giao Thuy district,

Nam Dinh province 169

Pham Thi Thanh Mai, Tran Le Kim, Nguyen Thi Lan - Enhancing the application of science and technology

advances into tea production in Thai Nguyen city 175

Nguyen Thi Bich Hanh, Nguyen Thi Thu Thuy - Assessment of efficiency of agricultural land use in Yen

Phuc commune, Van Quan district, Lang Son province 181

Dang Quynh Trinh, Tran Van Hung - Business income tax inspection for non-state enterprises in Pho Yen

district, Thai Nguyen province 187

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

giảng dạy sinh viên không chuyên ngữ tại Trường Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên 55 Hoàng Thị Thắm - Nghiên cứu về siêu nhận thức trong nghe tiếng Anh của

Nguyễn Khánh Như - Sự phát triển của hệ thống các trường đại học sư phạm trọng điểm Trung Quốc hiện nay 73 Nguyễn Văn Hồng, Vũ Thị Thanh Thủy - Dạy học theo dự án và

Nguyễn Khánh Như - Sự phát triển của hệ thống các trường đại học sư phạm trọng điểm Trung Quốc hiện nay 73 Nguyễn Văn Hồng, Vũ Thị Thanh Thủy - Dạy học theo dự án và

để xây dựng chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo tại Đại học Thái Nguyên 131 Đỗ Quỳnh Hoa - Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng lối sống cho sinh

Giáo dục phẩm chất trách nhiệm cho học sinh lớp 6 Trường THCS Chu Văn An – thành phố Thái Nguyên 338 Nguyễn Thị Mai Hương, Bùi Thị Sen - Các yếu tố ảnh hưởng đến

Pham Thi Hong Nhung - Analyzing the image of Quang Yen tourist destination in order to improve competitiveness 45 Duong Quynh Phuong, Chu Thi Trang Nhung - Labor and

giảng viên tại Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên 590 Nguyễn Thùy Giang, Hà Thị Thu Thủy - Tác động của phát triển công nghiệp đối với

Bài viết này nhằm xây dựng khung lý thuyết với mục đích khám phá các nhân tố chính ảnh hưởng đến sự hài lòng trong công việc của người lao động tại Công ty cổ phần quản