• Không có kết quả nào được tìm thấy

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nhằm tăng cường hiệu quả

Chương 4: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CẤU NGUỒN VỐN CỦA CÁC DOANH

4.3. Giải pháp hoàn thiện cơ cấu nguồn vốn của các doanh nghiệp thực phẩm niêm yết

4.3.8. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nhằm tăng cường hiệu quả

Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DN có sự ảnh hưởng đến CCNV của các DN. Thông thường, những DN có hiệu quả sản xuất kinh doanh cao sẽ có khả năng cao hơn trong việc huy động nguồn tài trợ trên thị trường tài chính bởi vì hiệu quả kinh doanh cao thường phản ánh triển vọng cao về khả năng tăng trưởng của DN và khi nhà đầu tư bỏ vốn vào doanh nghiệp sẽ có khả năng mang lại tỷ suất sinh lời cao trong tương lai. Do đó, các chỉ tiêu tỷ suất sinh lời được coi là một chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của các DN. Qua phân tích các chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của các DNTP NY trong thời gian vừa qua cho thấy, tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu tăng lên trong giai đoạn 2013 – 2015, song lại có xu hướng giảm đi từ năm 2016 đến nay do các DNTP

NY đã có sự điều chỉnh giảm hệ số nợ, vì vậy không khai thác và phát huy được hiệu quả của đòn bẩy tài chính. Do đó, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là giải pháp cần thiết để tăng cường hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính đối với các DNTP NY.

Một số biện pháp mà các DN có thể thực hiện trong thời gian tới như sau:

4.3.8.1. Đa dạng hoá thị trường tiêu thụ sản phẩm

- Đối với thị trường trong nước, sản phẩm thực phẩm là nhu cầu thiết yếu của con người trong cuộc sống hàng ngày, vì vậy, từ trước đến nay các DNTP NY đã mở rộng và tổ chức thị trường theo hướng hình thành các kênh phân phối sản phẩm thực phẩm đa dạng từ bán buôn, bán lẻ, từ chợ truyền thống tới hệ thống siêu thị và các cửa hàng tiện ích với sản phẩm đa dạng phù hợp thị hiếu người tiêu dùng Việt. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, khi mà thói quen tiêu dùng thực phẩm của người Việt đã có nhiều thay đổi, nhu cầu đối với những sản phẩm mang tính hưởng thụ tại nhà đã khuyến khích kênh bán hàng trực tuyến. Các DNTP cần ra mắt các website bán hàng trực tuyến nhằm phục vụ nhu cầu mua sắm online của khách hàng. Đồng thời, người tiêu dùng cũng có thể đặt mua định kỳ sản phẩm tại các đại lý của công ty thực và được giao hàng định kỳ tận nơi, vừa tiết kiệm thời gian vừa phù hợp với sở thích và nhu cầu dinh dưỡng của từng cá nhân, hộ gia đình ở từng địa phương khác nhau.

Việc thay đổi dịch vụ và phương thức bán hàng sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp cận tốt hơn với từng nhóm đối tượng, qua đó tăng doanh số bán hàng và mức độ hài lòng của khách hàng đối với sản phẩm, dịch vụ của DN.

- Đối với thị trường nước ngoài, đối với các sản phẩm thựa phẩm có thể mạnh xuất khẩu như gạo, hạt điều...các DNTP NY cần giữ vững và phát triển các thị trường truyền thống ( Philippin, Indonexia, Malaixia, Trung Quốc...) đồng thời mở rộng và phát triển các thị trường tiềm năng khác (Hàn Quốc, Nhật Bản Pháp, Đức, Cộng hòa Séc, Hoa Kỳ, Nam Phi, Mỹ la tinh...). Để đạt được mục tiêu này, các giải pháp cụ thể như sau:

Thứ nhất, hiểu rõ về môi trường kinh doanh của các thị trường xuất khẩu mục tiêu. Các DNTP cần nắm bắt rõ không chỉ các thông tin về thị trường, chính sách, pháp luật của nước sở tại và thường xuyên cập nhật chính sách, qui định, tiêu chuẩn kỹ thuật của các nước; qui định tiêu chuẩn kỹ thuật tham chiếu quốc tế đảm bảo cung ứng

đúng sản phẩm với chất lượng cao, đáp ứng đầy đủ được các tiêu chuẩn kỹ thuật ngày càng khắt khe.

Thứ hai, có biện pháp vượt qua hàng rào kỹ thuật của các thị trường xuất khẩu trọng điểm. Hiện nay, vấn đề rào cản kỹ thuật vào các thị trường rất tiềm năng như Mỹ, EU, Nhật Bản là bài toán khó nhất cho các DNTP ở Việt Nam. Để vượt qua rào cản này, các công ty buộc phải đáp ứng được các tiêu chuẩn của thương hiệu. Đó là đảm bảo an toàn thực phẩm, cụ thể: đáp ứng các tiêu chuẩn, quy chuẩn, quy định bắt buộc áp dụng (quản lý theo quá trình theo HACCP, GMP, SSOP, GAP); được cơ quan thẩm quyền Việt Nam kiểm tra, giám sát; được cơ quan thẩm quyền các nước nhập khẩu công nhận cho phép xuất khẩu; sản phẩm được kiểm tra, chứng nhận phù hợp Tiêu chuẩn, Quy chuẩn, Quy định về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm. Theo đó, bắt buộc các cơ sở sản xuất – kinh doanh áp dụng hệ thống quản lý chất lượng an toàn thực phẩm theo HACCP, GMP, GAP... yêu cầu thiết lập hệ thống truy xuất nguồn gốc sản phẩm; đưa ra hệ thống luật lệ, tiêu chuẩn, quy chuẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm ngày càng khắt khe. Để tiếp cận các thông tin này, các công ty cần chủ động nắm bắt và tìm kiếm thông tin qua nhiều kênh: tham gia cuộc hội thảo chuyên môn, thực hiện xúc tiến thương mại, tham khảo đối tác, phối kết hợp với các nhà phân phối nước ngoài, .... Thị trường EU có những yêu cầu đặc thù, quy định chặt chẽ về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, có chính sách chung về yêu cầu mặt hàng gạo nhập khẩu, nhưng mỗi một nước lại có một yêu cầu riêng phù hợp với đặc thù thị trường của các nước, nên rất đa dạng, chính vì thế, các DN cần tìm hiểu riêng từng quốc gia.

Thứ ba, đẩy mạnh mạng lưới phân phối. Các công ty cần chủ động thực hiện hoạt động xúc tiến thương mại, phát triển hình thức xuất khẩu trực tiếp cho các hệ thống phân phối, trung tâm thương mại và siêu thị thay vì xuất khẩu qua trung gian để giảm chi phí. DNTP NY xuất khẩu cần lựa chọn và hình thành hệ thống đại lý chuyên cung ứng với số lượng lớn, đáng tin cậy; thiết lập quan hệ làm ăn lâu năm để giữ ổn định thị trường. Các DNTP nên ưu tiên các đối tác nước ngoài có cơ sở lưu giữ, phương tiện chuyên chở, phương pháp bảo quản tốt đảm bảo giữ chất lượng hàng. Qua đó trực tiếp ký kết hợp đồng với các tổ chức cung ứng thực phẩm của các thị trường lớn, từng bước xây dựng mạng lưới phân phối thị trường quốc tế. Bên cạnh kênh phân

phối qua các đại lý, các DNTP NY cũng có thể nghĩ đến việc trực tiếp phân phối sản phẩm tới người tiêu dùng bằng cách thông qua trung gian là cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Các DNTPNY xuất khẩu cần xây dựng mối quan hệ với cộng đồng người Việt ở nước ngoài để giới thiệu sản phẩm, quảng bá sản phẩm, từ đó phân phối sản phẩm trực tiếp tới người tiêu dùng.

4.3.8.2. Điều chỉnh cơ cấu sản phẩm, thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, chế biến sản phẩm thực phẩm hữu cơ, sản phẩm có giá trị và sản phẩm thực phẩm đóng gói tiện lợi phù hợp với xu thế của người tiêu dùng hiện đại.

Trong bối cảnh thu nhập đầu người tăng lên, người tiêu dùng có xu hướng lựa chọn các thực phẩm sạch, có nguồn gốc hữu cơ và thân thiện với môi trường. Họ cũng sẵn sàng chi trả khoản tiền cao hơn cho bữa ăn hằng ngày. Hiện nay có đến 86% người tiêu dùng Việt Nam ưu tiên lựa chọn sản phẩm hữu cơ cho những bữa ăn hàng ngày bởi tính an toàn, giàu dinh dưỡng và hương vị thơm ngon. Vì vậy các DNTP cần mạnh đạn đầu tư vào lĩnh vực thực phẩm hữu cơ để có chiến lược đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh doanh.

Bên cạnh đó, trong cuộc sống hiện đại, quan điểm về gia đình, đặc biệt là ở khu vực thành thị đã có sự thay đổi: số lượng người trong một gia đình thường chỉ có 4-5 người, tỷ lệ người sống độc thân tăng..., do đó nhu cầu đối với nhóm hàng hóa tiêu dùng nhanh cũng có sự khác biệt so với trước đây. Để phục vụ cho các đối tượng này, các DNTP cần thay đổi quy cách và trọng lượng hàng hóa đóng gói sản phẩm nhỏ, sử dụng phù hợp với nhu cầu của cá nhân và dễ dàng mang theo sử dụng trên đường đi.

Ngoài ra, các DNTP cũng cần hướng tới cung cấp các bữa ăn tươi nhằm mang đến cho người tiêu dùng không chỉ là những sản phẩm đóng gói/ăn liền khô mà còn là những sản phẩm tươi, ngon, bổ dưỡng, an toàn và tiện lợi.

Ngoài ra, giới trẻ Việt Nam đa phần là những bạn trẻ năng động, thích trải nghiệm và sẵn sàng chi trả để được thưởng thức các loại thực phẩm ngon và lạ. Cùng với sự phát triển của công nghệ, họ có thể dễ dàng truy cập các xu thế ẩm thực mới nhất qua mạng xã hội và đặt hàng thông qua các ứng dụng cho phép tìm kiếm địa điểm ăn uống, giao đồ ăn và đặt bàn...khiến thị trường ẩm thực trở nên sôi động hơn. Các DNTP cần nắm bắt được xu thế tiêu dùng thực phẩm để đa dạng hóa và cải thiện các

dòng sản phẩm sao cho phù hợp với khẩu vị của người tiêu dùng hiện đại.

4.3.8.3. Đầu tư máy móc công nghệ tiên tiến, hiện đại; đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm

Năng suất và chất lượng là vấn đề sống còn quyết định đến khả năng cạnh tranh của các DN nói chung và của các DNTP nói riêng. Đầu tư máy móc, công nghệ tiên tiến hiện đại nhằm đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ và khai thác, sản xuất, chế biến là hướng đi tốt để thành công trong điều kiện cạnh tranh hiện nay.

Để áp dụng và cải tiến công nghệ, thay vì hình thức đầu tư toàn bộ DNTP NY cũng xem xét lựa chọn hình thức liên doanh, liên kết với các DN nước ngoài để thực hiện chuyển giao công nghệ. Khi liên kết cần tìm hiểu về thủ tục chuyển giao công nghệ như trong việc ký hợp động, chuyển giao, lắp đặt để tránh tình trạng bị áp đặt những điều kiện bất lợi cho doanh nghiệp. Đồng thời, thực hiện phối kết hợp chặt chẽ với các cơ quan bộ phận nghiên cứu khoa học, các nhà khoa học hoặc DN thành lập bộ phận chuyên nghiên cứu để liên tục đổi mới công nghệ để đưa vào sản xuất những phương pháp mới nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm.

Để đảm bảo hiệu quả sản xuất, bên cạnh việc đầu tư đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, để nâng cao chất lượng sản phẩm cần có sự kiểm soát chặt chẽ ở từng khâu trong chuỗi sản xuất.

Để đảm bảo các yêu cầu khắt khe về chất lượng sản phẩm ở lĩnh vực chế biến xuất khẩu, ngành chế biến cần thực hiện tốt việc đầu tư nâng cấp máy móc, thiết bị hiện đại; Gắn kết nhà máy chế biến với các vùng nguyên liệu và trung tâm công nghiệp chế biến ở từng địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển và đầu tư kho lạnh thương mại để đảm bảo chất lượng thủy sản. Đồng thời, đa dạng hóa các sản phẩm chế biến, chú trọng việc sản xuất các sản phẩm giá trị gia tăng, hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô...

4.3.8.4. Chủ động nguồn nguyên liệu đầu vào để đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục, nâng cao chất lượng nguồn nguyên liệu để nâng cao chất lượng giá trị sản phẩm thực phẩm

Mặc dù Việt Nam có nguồn nguyên liệu rất dồi dào, sản lượng xuất khẩu lớn nhưng nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước không ổn định cả về chất lượng và số lượng. Nhiều doanh nghiệp chế biến thực phẩm phải nhập khẩu nguyên liệu. Điều này khiến doanh nghiệp không chủ động được số lượng, chất lượng và đơn giá sản phẩm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Điển hình như ngành chế biến sữa, Việt Nam hiện phải nhập khẩu đến 60% nguyên liệu; hay trên 90% nguyên liệu của ngành chế biến dầu ăn phải nhập khẩu…

Thực phẩm sẽ là ngành công nghiệp mũi nhọn của Việt Nam nhưng hiện nay công nghiệp chế biến ngành hàng này còn manh mún, nhỏ lẻ, chưa tập trung tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao. Ngành nông nghiệp là ngành trực tiếp cung cấp nguyên liệu cho chế biến thực phẩm nhưng sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam chậm thay đổi, chưa thích nghi với các phương thức sản xuất mới để có thể cạnh tranh trên quy mô lớn trong dài hạn. Đặc biệt, việc sử dụng hóa chất và thuốc bảo vệ thực vật đã được kiểm soát nhưng vẫn chưa đáp ứng các tiêu chuẩn được quốc tế công nhận.

Diện tích sản xuất nông sản Việt Nam lớn nhưng diện tích thực hành sản xuất tốt, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm lại rất ít. Trong khi muốn sản xuất thực phẩm có chất lượng tốt phải bắt nguồn từ nguồn nguyên liệu có chất lượng tốt và an toàn.

Vì vậy, để duy trì tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nói chung và phát triển ngành thực phẩm một cách bền vững, các cơ quan quản lý và doanh nghiệp phải phát triển thị trường thông qua việc nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng và phát triển thương hiệu, từng bước gia tăng giá trị xuất khẩu của thực phẩm Việt Nam trên thị trường thế giới. Một trong những tiêu chí đầu tiên quyết định sự phát triển và bền vững của ngành thực phẩm là phải đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Điều này đòi hỏi phải có một quy trình kiểm soát chất lượng của toàn bộ chuỗi sản xuất từ người sản xuất nguyên liệu đến đơn vị vận chuyển, bảo quản, sơ chế, bán lẻ và cả người tiêu dùng. Vì vậy, muốn có sản phẩm thực phẩm an toàn, doanh nghiệp không thể thực hiện phương thức “mua đứt bán đoạn” mà phải tham gia xây dựng chuỗi sản xuất nhằm “nâng cao giá trị chuỗi sản phẩm”

Theo dự báo của FAO, từ nay đến năm 2025, nhu cầu về thực phẩm của thế giới không có sự gia tăng đột biến do quy mô dân số thế giới vẫn ở mức ổn định. Tuy nhiên, cơ cấu nhu cầu sản phẩm thực phẩm sẽ thay đổi rõ nét từ việc tiêu dùng thực

phẩm cơ bản sang sử dụng phân khúc thực phẩm có chất lượng cao. Vì vậy, doanh nghiệp thực phẩm không nhất thiết phải gia tăng công suất, sản lượng mà cần tập trung vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên “Nâng cao chuỗi giá trị thực phẩm” không chỉ là vấn đề riêng của Việt Nam, mà ngay cả tại các nước phát triển ở Châu Âu cũng phải thường cải tiến thường xuyên. Trong đó, các doanh nghiệp trong chuỗi sản xuất thực phẩm phải chú trọng đến việc nâng cao giá trị lợi nhuận cho nông dân, giúp họ ý thức được trách nhiệm của mình trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm. Ở các khâu trung gian từ vận chuyển, bảo quản, sơ chế, chế biến đều phải áp dụng quy trình quản lý chất lượng, đảm bảo sự an toàn cho người tiêu dùng.