• Không có kết quả nào được tìm thấy

PHẦN II. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Cơ sở lí luận

1.1.3. Lí thuyết về BHNT

1.1.3.1. Khái niệm BHNT

Bảo hiểm nhân thọlà sựcam kết giữa công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, trong đó công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả số tiền bảo hiểm khi có sự kiện định trước liên quan đến cuộc sống con người xảy ra như: người được bảo hiểm bị chết, người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộvĩnh viễn, người được bảo hiểm sống đến một thời điểm xác định trước. Người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm theo quy định cho công ty bảo hiểm.

Bảo hiểm nhân thọ nói chung có nhiều loại: Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn, bảo hiểm suốt cuộc đời, bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp có thời hạn, bảo hiểm hiểm trợ cấp hưu trí v.v Ngoài ra còn có các điều khoản bổsung cho các hợp đồng chính : bảo hiểm tai nạn con người, bảo hiểm chi phí nằm viện, bảo hiểm các bệnh hiểm nghèo.

1.1.3.2. Đặc điểm của BHNT

Năm 1996 được sự uỷ quyền của thủ tướng chính phủ, Bộ tài chính ra quyết định thành lập lại tổng công ty bảo hiểm việt nam, được nhà nước xếp loại” doanh nghiệp nhà nước xếp hạng đặc biệt”. Sởdĩ được xếp hạng đặc biệt là vì bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọnói riêng có những đặc điểm rất khác biệt so với các sản phẩm khác

Trường Đại học Kinh tế Huế

Thứ nhất: Bảo hiểm nhân thọlà một loại hình dịch vụ tài chính, một sản phẩm vô hình, người mua bảo hiểm đóng tiền ( thường là đóng định kỳ) cho doanh nghiệp bảo hiểm nhưng chỉ nhận lại một lời cam kết sẽ được trả tiền khi những sự kiện bảo hiểm được xác định trước ( sống đến một thời điểm, chết ,thương tật) phát sinh mà không biết chắc sựkiện đó có xảy ra hay không cũng như không biết chắc sựkiện đó có xảy ra hay không cũng như không xác định được thời điểm phát sinh sựkiện đó( trừ trường hợp sống). Do vậy khác với các hàng hoá thông thường, người mua BHNT không thể dùng thử để để biết chất lượng sản phẩm mà chỉ có thể dùng thật, đã dùng thật là dùng trong thời hạn dài. Hơn thếnữa, sản phẩm bảo hiểm nhân thọ còn là một sản phẩm khá phức tạp và có tính trừu tượng cao, nên nhiều khi người mua bảo hiểm không thểhình dung hết được vềsản phẩm bảo hiểm

Thứ hai: Bảo hiểm nhân thọ có đối tượng kinh doanh rất đặc biệt, đó là rủi ro liên quan đến sinh mạng, cuộc sống sức khoẻ con người( có thể nói, BHNT gắn liền với chu kì” sinh, lão, bệnh, tử” của con người), do vậy BHNT không thể bù đắp lại được những tổn thất vềsinh mạng, sức khỏe khả năng lao động và tinh thần cho người được bảo hiểm và người thân của họ mà chỉ bù đắp lại một phần nào những thiệt hại về mặt tài chính mà những tổn thất này gây ra. Chính vì vậy,với trường hợp phạm vi bảo hiểm chỉ là rủi ro, BHNT là một trong số ít sản phẩm mà người mua rồi không mong muốn được nhận quyền lợi bảo hiểm , thay vào đó là họmuốn tìm sựthanh thản , sự bảo vệ, cảm giác đầy trách nhiệm trước người thân. Cũng do có đối tượng kinh doanh rất đặc biệt, doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọcũng cần biết cảm thông, chia sẽ trước những rủi ro, mất mát của khách hàng. Đây chính là chủ nhân trong kinh doanh BHNT. Đồng thời với cơ chế bù đắp tài chính, khắc phục hậu quảcủa rủi ro, hỗtrợtài chính khi không còn khả năng lao động( Đặc biệt là qua các sản phẩm hưu trí), chúng ta có thểthấy, BHNT còn mang ý nghĩa xã hội sâu sắc.

Thứ ba: Nhu cầu về bảo hiểm nhân thọ là nhu cầu thụ động, khách hàng rất ít khi chủ động tìmđến doanh nghiệp đểmua bảo hiểm nhân thọ mà thường chỉmua bảo hiểm sau khi được người bán bảo hiểm thuyết phục, vận động (thường là qua rất nhiều

Trường Đại học Kinh tế Huế

Bản, Mỹ, Hàn Quốc, Đài Loan, người quyết định mua bảo hiểm nhân thọ phần lớn không dưới 75% là phụnữ.

Thứ tư: Bảo hiểm nhân thọlà sản phẩm dài hạn, thời hạn bảo hiểm là 5 năm, 10 năm, 20 năm, nhiều khi là cả đời người . Do vậy khi tham gia bảo hiểm nhân thọ khách hàng luôn đặt ra những câu hỏi liên quan đến tương lai ( tương lai xa, rất xa) như: liệu đến khi hợp đồng đáo hạn doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ còn tồn tại hay khôngdoanh nghiệp có đủkhả năng thanh toán tiền bảo hiểm đã cam kết hay không?

Thực tếtriển khai BHNT của PRUDENTIAL cũng như của các công ty bảo hiểm nhân thọ khác hoạt động tại thị trường Việt Nam cho thấy, các sản phẩm ngắn hạn vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu. Vừa là một sản phẩm dài hạn lại vừa là sản phẩm hình thức nên càng làm cho bảo hiểm nhân thọ càng trở nên đặc biệt, do đó việc tạo lòng tin nơi khách hàng đóng vai trò tối quan trọng trong kinh doanh bảo hiểm nhân thọ. Kinh nghiệm triển khai bảo hiểm nhân thọtại thị trường Việt Nam đã cho thấy uy tín doanh nghiệp là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định việc tham gia bảo hiểm nhân thọcủa khách hàng.

Thứ năm: Sản phẩm bảo hiểm nhân thọlà sản phẩm bán lẻlà chủyếu, đại đa số khách hàng là cá nhân quyết định mua BHNT của họ rất ít chịu tác động, chi phối bởi yếu tố quyền lực hay các yếu tố khác, do vậy việc khách hàng tham gia tại doanh nghiệp nào phụ thuộc rất lớn vào khả năng chinh phục nhân tâm công chúng của doanh nghiệp đó.

Do những đặcđiểm đó mà các doanh nghiệp phải cần xây dựng hình ảnh doanh nghiệp và quảng cáo trong kinh doanh bảo hiểm nhân thọ có những nét khác biệt so với các lĩnh vực khác.

1.1.3.3. Vai trò của BHNT

BHNT có vai trò rất quan trọng đối với mỗi cá nhân, mỗi gia đình,đối với từng doanh nghiệp và toàn xã hội.

Đối với từng cá nhân, gia đình:

Trường Đại học Kinh tế Huế

Xét trên khía cạnh tinh thần, tham gia BHNT thểhiện sựquan tâm, lo lắng của người chủ gia đìnhđối với những người phụthuộc, của cha mẹ đối với con cái làm cho tình cảm gia đình thêm keo sơn, thắm thiết và hạnh phúc. Đồng thời, BHNT còn góp phần đảm bảo ổn định cuộc sống cho các cá nhân và gia đình bằng sự hỗ trợ về tài chính khi không may họ gặp phải rủi ro. Từ đó, BHNT là chỗ dựa tinh thần cho mọi người dân giúp họ yên tâm lao động sản xuất.

Mặt khác, BHNT còn góp phần rất lớn để từng gia đình thực hiện kế hoạch tài chính thông qua tiết kiệm, tạo quỹgiáo dục giành cho con cái, có tiền chi dùng khi về hưu...Từ cơ chế thu phí, các doanh nghiệp BHNT buộc họ phải thực hiện tiết kiệm thường xuyên và có kếhoạch nhờ khoản phí bảo hiểm họphải đóng định kỳ.

Đối với các cơ quan, doanh nghiệp:

Lợi ích đầu tiên đối với các doanh nghiệp làở chỗnó làmổn định tình hình sản xuất kinh doanh và vấn đềtài chính. Nếu vì một lý do nàođó người chủchốt trong các có quan, doanh nghiệp bịchết hay thương tật vĩnh viễn thì họsẽnhận được một sốtiền để lo chi phí cho người bị thiệt mạng và một khoản để có thể tuyển dụng người khác thay thếtiếp tục công việc

Hai là khi người chủsửdụng lao động tham gia BHNT cho người lao động của mình thì không những quyền lợi của người lao động tăng lên mà còn thểhiện được sự quan tâm, lo lắng của họ đối với người làm công. Từ đó làm giảm bớt khoảng cách, xoa dịu mâu thuẫn giữa chủ và thợ, kích thích người lao động gắn bó hơn với doanh nghiệp và làm việc hiệu quả hơn, mang vềcho doanh nghiệp nhiều lợi hơn.

Đối với xã hội:

Một trong những vai trò của BHNT đối với xã hội chính là nâng cao phúc lợi cộng đồng. Khi tham gia BHNT tức là người dân đã tuân theo quy luật số đông- rủi ro của họsẽ được san sẻcho nhiều người. Mặt khác, cuộc sống của người dân khi vềgià gặp không ít khó khăn, với sự ra đời của BHNT đặc biệt là sản phẩm “niên kim nhân thọ” sẽgiảm bớt một phần nỗi lo âu vềtài chính của họ, bớt đi gánh nặng trách nhiệm

Trường Đại học Kinh tế Huế

Không thể không đề cập tới vai trò tập trung mọi nguồn vốn nhàn rỗi từ trong dân chúng của BHNT. Mỗi cá nhân mua BHNT là một cách tựbảo vệmình,đồng thời còn tạo ra một quỹtiết kiệm cho mình.Đối với doanh nghiệp BHNT thì mỗi một quỹ tiết kiệm góp lại thành quỹ bảo hiểm tập trung - một quỹ đầu tư dài hạn, đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Cũng từ đó mà làm tăng nhu cầu tuyển dụng lao động của các ngành, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động, tránh hiện tượng lãng phí nguồn nhân lực. Ngoài ra, bản thân sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp BHNT cũng đã giải quyết công ăn việc làm cho rất nhiều người, chính là mạng lưới đại lý rộng khắp và ngày càng gia tăng không ngừng của các doanh nghiệp này.

1.1.3.4. Các loại hình của BHNT

Hiện nayở trên thếgiới và Việt Nam đều tồn tại 3 loại hình bảo hiểm như sau:

+ Bảo hiểm trong trường hợp chết.

+ Bảo hiểm trong trường hợp sống.

+ BHNT hỗn hợp.

Đấy là ba loại hình bảo hiểm cơ bản tồn tại trên thị trường bảo hiểm hiện nay.

Tuy nhiên trong quá trình tham gia bảo hiểm thì người mua bảo hiểm còn áp dụng các điều khoản bổ sung như: Bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm sức khoẻ, bảo hiểm không nộp phí khi thương tật toàn bộvĩnh viễn do tai nạ...

a) Bảo hiểm trongtrường hợp chết:

Đây là loại hình phổbiến nhất trong BHNT và được chia thành hai nhóm: Bảo hiểm tửkỳvà Bảo hiểm nhân thọtrọn đời.

- Bảo hiểm tửkỳ.

Loại hình bảo hiểm này còn được gọi là bảo hiểm sinh mạng có thời hạn: Nó tiến hành bảo hiểm cho cái chết có thểxảy ra bất cứ lúc nào như: Tai nạn, bệnh tật .v.v...miễn là thời điểm xảy ra tai nạn trong thời gian hợp đồng bảo hiểm vẫn còn hiệu lực.Nếu tai nạn xảy ra vào lúc hợp đồng còn hiệu lực thì nhà kinh doanh bảo hiểm phải trả cho người tham gia bảo hiểm một khoản tiền đúng bằng số

Trường Đại học Kinh tế Huế

tiền bồi thường như trong hợp

đồng đã cam kết. Nếu tai nạn xảy ra vào thời điểm hợp đồng đã hết hiệu lực thì nhà kinh doanh bảo hiể

b) Bảo hiển nhân thọtrọn đời:

BHNT trọn đời, hay còn gọi là bảo hiểm trường sinh. Hình thức bảo hiểm của loại hình này là: Cam kết trảmột khoản tiền bồi thường đúng như trong hợp đồng quy định khi người tham gia bảo hiểm sống đến hết cuộc đời của mình. Vì thời điểm chết của người tham gia bảo hiểm là không xác định nên thời hạn hợp đồng là không xác định

Loại hình bảo hiểm này có một số đặc điểm cơ bản sau:

+ Thời hạn bảo hiểm không xác định.

+ STBH trảmột lần khi người được bảo hiểm chết bất cứlúc nào.

+ Phí bảo hiểm của loại này lớn hơn của Bảo hiểm tửkỳ.

+ Phí đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt quá trình bảo hiểm.

BHNT trọn đời được triển khai nhằm thoảmãn nhiều mục đích khác nhau:

+ Đảm bảo cuộc sống của gia đình và người thân sau cái chết của người được bảo hiểm.

+ Giữgìn tài sản cho thếhệsau.

+ Mua sắm tài sản cho gia đình và người thân theo kếhoạch đãđịnh trước.

+ Tiết kiệm.

c)Bảo hiểm trong trường hợp sống:

Bảo hiểm trong trường hợp sống hay còn gọi là bảo hiểm sinh kỳ, là loại hình bảo hiểm mà thực chất là người bảo hiểm cam kết chi trả những khoản tiền đều đặn trong một khoảng thời gian xác định hoặc trong suốt cuộc đời người tham gia bảo hiểm. Nếu người được bảo hiểm chết trước ngày đến hạn thanh toán thí sẽ không được chi trảbất cứmột khoản tiền nào.

Trường Đại học Kinh tế Huế

+ Thời hạn bảo hiểm có thể xác định (gọi là niên kim nhân thọtạm thời), có thểkhông xác định (gọi là niên kim nhân thọtrọn đời).

+ Phí bảo hiểm đóng một lần.

+ STBH được chi trảnhiều lần nên còn gọi là trợcấp định kỳ Loại bảo hiểm này nhằm thoảmãn những mục đích sau:

+ Đảm bảo cuộc sống khi vềgià hoặc về hưu.

+ Đảm bảo thu nhập cố định sau khi hết tuổi lao động.

+ Giảm nhẹgánh nặng phụthuộc vào con cái và phúc lợi xã hội khi tuổi già.

d)Bảo hiểm nhân thọhỗn hợp:

Đây là loại hình bảo hiểm được kết hợp giữa hai loại hình bảo hiểm trên( Bảo hiểm trong trường hợp chết và bảo hiểm trong trường hợp sống). Vì tính ưu điểm của nó là tiết kiệm và rủi ro nên nó được áp dụng rộng rãi trên phạm vi toàn thếgiới

BHNT hỗn hợp có một số đặc điểm chính sau:

+ Thời hạn bảo hiểm luôn xácđịnh.

+ STBH được trảmột lần khi có các SKBH xảy ra (người bảo hiểm chết hoặc khi hết hạn hợp đồng mà người được bảo hiểm còn sống).

+ Phí bảo hiểm thường đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt thời hạn bảo hiểm.

+ Có thể được chia lãi hoặc có thể đượchoàn phí khi không có điều kiện tiếp tục tham gia.

+ Khách đông và có thể ởmọi lứa tuổi

Loại hình bảo hiểm này được triển khai nhằm nhiều mục đích khác nhau : + Đảm bảo cuộc sống cho gia đình và người thân

+ Thực hiện tiết kiệm từ ngân sách gia đình để tạo lập quỹ gia đình cho con cái, mua sắm tài sản.

+ Dùng làm vật thếchấp vay vốn hoặc khởi nghiệp kinh doanh.

Trường Đại học Kinh tế Huế

Khi triển khai BHNT hỗn hợp, các công ty bảo hiểm có thể đa dạng hoá loại sản phẩm này bằng các hợp đồng có thời hạn khác nhau, hợp đồng phi lợi nhuận, có lợi nhuận và các loại hợp đồng khác tuỳtheo tình hình thực tế.

1.1.4. Khung lí thuyết phân tích nhận thức của khách hàng Thành phố Huế về