• Không có kết quả nào được tìm thấy

SO SÁNH HIỆU QUẢ KINH TẾ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT RAU AN TOÀN VÀ TRUYỀN THỐNG Ở XÃ QUẢNG THÀNH, HUYỆN

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "SO SÁNH HIỆU QUẢ KINH TẾ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT RAU AN TOÀN VÀ TRUYỀN THỐNG Ở XÃ QUẢNG THÀNH, HUYỆN "

Copied!
18
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

1 Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế, email:baochau1989@gmail.com

SO SÁNH HIỆU QUẢ KINH TẾ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT RAU AN TOÀN VÀ TRUYỀN THỐNG Ở XÃ QUẢNG THÀNH, HUYỆN

QUẢNG ĐIỀN, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

Trần Huỳnh Bảo Châu1, Trần Huỳnh Quang Minh

Ngày nhận bài: 25/05/2018 Ngày nhận bản sửa: 01/06/2018 Ngày duyệt đăng: 25/06/2018

Tóm tắt: Nghiên cứu này tập trung vào so sánh hiệu quả kinh tế hoạt động sản xuất rau an toàn (RAT) và rau truyền thống (RTT) trên địa bàn xã Quảng Thành, huyện Quảng Điền. Kết quả điều tra cho thấy: hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất rau tương đối cao. Lợi nhuận của nhóm hộ trồng RAT là 15.310.800 đồng/sào/năm, trong khi RTT là 15.330.200 đồng/sào/năm. Phần chênh lệch giữa hai nhóm trồng rau không quá lớn. Nguyên nhân là do giá bán RAT cao nhưng chưa có thị trường tiêu thụ ổn định và chưa có quy định nào giúp phân biệt RAT và RTT. Do vậy, cần nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất và chuỗi cung ứng sản phẩm RAT trong thời gian tới.

Chính quyền địa phương cần khuyến khích người dân chuyển đổi dần từ mô hình RTT sang RAT nhằm góp phần bảo vệ môi trường và đảm bảo sức khỏe cho người tiêu dùng.

Từ khóa: Rau an toàn; Rau truyền thống; Xã Quảng Thành 1. Đặt vấn đề

Rau xanh là một thực phẩm không thể thiếu trong các bữa ăn hàng ngày của con người. Sản xuất rau ở tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung và xã Quảng Thành nói riêng ngày một phát triển, không những đem lại hiệu quả kinh tế cao mà góp phần tạo công ăn việc làm, cải thiện môi trường và tận dụng tốt nguồn lợi tự nhiên hiện có. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất rau cũng gặp rất nhiều khó khăn từ ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.

Bên cạnh đó, việc sản xuất rau theo phương pháp truyền thống đang đối mặt với vấn đề lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật, dẫn đến ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng.

(2)

Sản xuất RAT mang lại nhiều lợi ích kinh tế cũng như môi trường, tuy nhiên mô hình này chưa được áp dụng rộng rãi và hiệu quả kinh tế chưa cao. Xuất phát từ thực tế đó, tôi đã chọn đề tài “So sánh hiệu quả kinh tế hoạt động sản xuất rau an toàn và truyền thống ở xã Quảng Thành, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế” làm đề tài nghiên cứu.

2. Phương pháp nghiên cứu 2.1. Cách tiếp cận

Nghiên cứu được thực hiện theo 3 bước:

- Bước 1: Tiến hành phỏng vấn chuyên sâu 6 hộ dân bằng bảng hỏi bán cấu trúc để nắm thông tin về tình hình sản xuất rau an toàn và rau truyền thống trên địa bàn xã Quảng Thành.

- Bước 2: Điều tra 60 hộ dân ở khu vực nghiên cứu bằng bảng hỏi cấu trúc.

- Bước 3: Xác định hiệu quả kinh tế hoạt động sản xuất rau an toàn và truyền thống; tìm hiểu kênh phân phối sản phẩm rau ở khu vực điều tra.

2.2. Phương pháp điều tra, thu thập số liệu

- Số liệu thứ cấp: Thu thập những thông tin chung về số liệu thống kê hoạt động sản xuất rau trên địa bàn xã Quảng Thành, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.

- Số liệu sơ cấp: Điều tra 60 hộ dân (30 hộ sản xuất RAT và 30 hộ sản xuất RTT) trên địa bàn xã Quảng Thành, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế (tập trung chủ yếu ở 2 thôn có diện tích trồng rau lớn nhất là thôn Thành Trung và thôn Tây Thành).

2.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu

Số liệu điều tra được xử lý bằng phần mềm Excel 2007 để phân tích và so sánh sự biến động về chi phí, thu nhập của hoạt động trồng rau người dân xã Quảng Thành.

3. Kết quả nghiên cứu

3.1. Tình hình sản xuất RAT trên địa bàn xã Quảng Thành

Xã Quảng Thành, huyện Quảng Điền là vùng sản xuất rau trọng điểm của tỉnh Thừa Thiên Huế. Nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, địa phương đã nhân rộng mô hình RAT trên địa bàn xã. Được sự giúp đỡ của trường Đại học Nông Lâm Huế, sau nhiều năm thực hiện các mô hình trồng RAT đã đạt được kết quả nhất định.

(3)

Bảng 1: Diện tích, năng suất, sản lượng rau an toàn qua 3 năm 2014 – 2016 Chỉ tiêu ĐVT 2014 2015 2016

2015/2014 2016/2015

+/- % +/- %

Diện tích Ha 1,60 11,60 11,60 10,00 625 0,00 0,00 Năng suất Tạ/ha 79,50 93,66 95,54 14,16 17,8 1,88 2,01 Sản lượng Tạ 127,20 1.086,46 1.108,26 959,26 7,54 21,80 2,01 (Nguồn: UBND xã Quảng Thành, 2017) Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng diện tích, năng suất và sản lượng RAT ở xã Quảng Thành không ngừng tăng lên qua các năm. Năm 2014, diện tích sản xuất RAT chỉ đạt 1,60 ha nhưng đến năm 2015, con số này đã tăng lên 11,60 ha và tiếp tục duy trì đến năm 2016. Điều này là do nguồn vốn hỗ trợ phát triển sản xuất của chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới đã thúc đẩy sự phát triển vượt trội của diện tích sản xuất RAT.

3.2. Năng lực sản xuất của các hộ điều tra

Lao động là một trong những yếu tố cần thiết trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất rau nói riêng, nguồn lao động hợp lí sẽ dẫn đến việc sử dụng hợp lí các yếu tố đầu vào khác làm cho sản xuất nông nghiệp đạt được hiệu quả tối đa.

Bảng 2: Tình hình nhân khẩu và lao động của các hộ điều tra

STT Chỉ tiêu ĐVT RAT RTT RTT/RAT Bình

quân

+/- %

1 Tuổi chủ hộ tuổi 46,93 55,37 8,44 17,98 51,15 2

Tổng nhân khẩu khẩu 4,65 4,37 -0,28 -6,02 4,51

Nam khẩu 1,95 1,87 -0,08 -4,10 1,91

Nữ khẩu 2,70 2,50 -0,20 -7,41 2,60

3

Lao động 3,37 3,21 -0,16 -4,75 3,29

Lao động nông nghiệp LĐ 2,53 2,29 -0,24 -9,49 2,41 Lao động phi nông nghiệp LĐ 0,35 0,5 0,15 42,86 0,43

Lao động kiêm LĐ 0,49 0,42 -0,07 -14,29 0,46

4 Số năm kinh nghiệm năm 9,98 12,57 2,59 25,95 11,28 (Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giả, 2017)

(4)

Về độ tuổi của chủ hộ: tuổi bình quân chung là 51,15 tuổi, đây là độ tuổi có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp. Tuổi bình quân/hộ của hộ trồng RAT là 46,93 tuổi, nhỏ hơn nhóm hộ trồng RTT. Điều này lý giải là do những người lớn tuổi thường không muốn thay đổi tập quan canh tác lâu đời của mình, trong khi những nông dân trẻ tuổi, có khả năng học hỏi và mong muốn áp dụng kỹ thuật canh tác mới nhằm tăng thu nhập cho hộ gia đình.

Ở nông thôn nên số nhân khẩu bình quân mỗi hộ có 4,51 khẩu, trong đó lao động nữ chiếm tỷ trọng lớn nhất. Sản xuất rau yêu cầu độ tỉ mỉ, cần cù, chịu khó nên rất phù hợp với lao động nữ. Ngoài ra, kinh nghiệm là một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất cây trồng. Số liệu điều tra cho thấy các hộ trồng RAT có số năm kinh nghiệm ít hơn RTT.

Bảng 3: Tình hình trang bị tư liệu sản xuất của các hộ điều tra (tính bình quân/hộ)

STT Tư liệu sản xuất ĐVT

RAT RTT RTT/RAT

Số lượng

Giá trị (1.000đ)

Số lượng

Giá trị

(1.000đ) +/- % 1 Bình phun thuốc trừ

sâu cái 1,00 70,00 1,50 105,00 35,00 50,00

2 Bình tưới nước cái 1,50 120,00 1,00 80,00 -40,00 -33,33 3 Máy bơm nước cái 1,00 400,00 0,43 172,00 -228,00 -57,00

4 Xe rùa cái 0,87 304,50 0,76 266,00 -38,50 -12,64

5 Ống dẫn nước m 35,00 350,00 30,00 300,00 -50,00 -14,29 6 Công cụ khác cái 2,00 110,00 2,00 110,00 0,00 0,00 Tổng cộng 1.000đ 1.354,50 1.033,00 -321,50 35,20

(Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giả, 2017) Tổng chi phí trang bị tư liệu sản xuất của các hộ trồng RAT là 1.354,50 nghìn đồng/hộ, lớn hơn các hộ trồng RTT là 1.033,00 nghìn đồng/hộ. Trong đó:

- Bình phun thuốc trừ sâu, bình tưới nước là công cụ không thể thiếu cho hoạt động sản xuất rau nên được các hộ mua sắm bình quân từ 1 đến 2 cái. Trong đó, số hộ trồng RAT trung bình chỉ có 1,00 bình trong khi đó số hộ trồng RTT trung bình mỗi hộ có 1,50 bình. Nguyên nhân là do các hộ trồng RTT có thói quen bơm thuốc trừ sâu nhiều hơn RAT.

- Trong hoạt động trồng rau thì công việc tưới tiêu cực kì quan trọng. Hầu hết mỗi

(5)

hộ trồng RAT đều trang bị 1 máy bơm nước. Đối với hộ có quy mô sản xuất lớn có thể đầu tư từ 1 - 2 máy, giá mỗi máy bơm nước khoảng 400 – 700 nghìn đồng/máy.

- Ngoài các tư liệu sản xuất trên, người dân còn phải trang bị thêm một số tư liệu sản xuất khác như cào, cuốc ... Với giá cuốc khoảng 70 nghìn đồng và cào là 40 nghìn đồng. Tổng chi phí khoảng 110 nghìn đồng/hộ. Hoạt động trồng RAT đòi hỏi người trồng rau cần phải tuân theo những quy định cụ thể và phải trang bị đầy đủ các tư liệu sản xuất. Vì vậy, làm cho chi phí của hoạt động trồng RAT lớn hơn RTT.

3.3. Tình hình sản xuất của các hộ điều tra

Người dân xã Quảng Thành chủ yếu trồng các loại rau: xà lách, cải xanh, ngò, cần tây, dền và rau tần ô. Mặc dù mô hình trồng RAT đã được áp dụng một thời gian dài, tuy nhiên người dân địa phương vẫn có thói quen trồng rau theo phương pháp truyền thống, chính vì vậy mà tổng diện tích RAT vẫn nhỏ hơn RTT. Cụ thể:

Bảng 4: Cơ cấu diện tích gieo trồng một số loại rau chủ yếu (Tính bình quân/sào/hộ)

STT Loại rau

RAT RTT RTT - RAT

Diện tích Cơ cấu Diện tích Cơ cấu Diện tích Cơ cấu

(sào) % (sào) % (sào) %

1 Xà lách 1,78 44,17 1,84 41,91 0,06 -2,26

2 Cải xanh 1,15 28,54 1,26 28,70 0,11 0,17

3 Ngò 0,14 3,47 0,16 3,64 0,02 0,17

4 Cần tây 0,41 10,17 0,47 10,71 0,06 0,53

5 Dền 0,24 5,96 0,29 6,61 0,05 0,65

6 Tần ô 0,31 7,69 0,37 8,43 0,06 0,74

Tổng 4,03 100,00 4,39 100,00 0,36

(Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giả, 2017) - Tổng diện tích gieo trồng của nhóm hộ sản xuất RAT là 4,03 sào/hộ, RTT là 4,39 sào/hộ. Diện tích trồng RTT lớn hơn không đáng kể so với diện tích RAT là 0,36 sào. Loại rau được trồng nhiều nhất là xà lách và cải. Điều này xuất phát từ thị hiếu và sở thích của người tiêu dùng. Ngoài ra, đây là loại rau dễ trồng và được người dân ưa chuộng.

Nhóm hộ RAT thì diện tích trồng xà lách là 1,78 sào/hộ chiếm 44,17%, cải xanh

(6)

chiếm 1,15 sào/hộ tương ứng với 28,54 %. Nhóm hộ RTT diện tích gieo trồng của xà lách, cải chiếm lần lượt là 1,84 sào/hộ và 1,26 sào/hộ. Rau ngò chiếm diện tích ít nhất ở cả 2 nhóm hộ (nhóm RAT là 3,47% và nhóm RTT là 3,64%).

Tóm lại, diện tích gieo trồng bình quân/hộ/ nhóm hộ RAT nhỏ hơn RTT, tuy nhiên để đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động sản xuất thì cần phải dựa trên nhiều chỉ tiêu như năng suất, sản lượng mới biết được liệu phương thức nào đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn.

Bảng 5: Năng suất, sản lượng rau của các hộ điều tra (Tính bình quân/sào/hộ)

STT Loại rau

RAT RTT RTT - RAT

Năng suất Sản lượng Năng suất Sản lượng Năng suất Sản lượng (Kg/sào) (Kg) (Kg/sào) (Kg) (Kg/sào) (Kg) 1 Xà lách 648,25 1.153,89 651,17 1.198,15 2,92 44,26

2 Cải xanh 605,61 696,45 621,24 782,76 15,63 86,31

3 Ngò 429,00 60,06 452,31 72,37 23,31 12,31

4 Cần tây 515,02 211,16 537,13 252,45 22,11 41,29

5 Dền 460,12 110,43 471,29 136,67 11,17 26,24

6 Tần ô 578,00 179,18 581,00 214,97 3,00 35,79

BQC 539,33 401,86 552,36 442,90 13,03 41,04

(Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giả, 2017) - Năng suất bình quân các loại rau của nhóm hộ RAT là 539,33 kg/sào, RTT là 552,36 kg/sào. Nhìn chung tất cả các loại rau của nhóm hộ RAT đều có năng suất nhỏ hơn các hộ sản xuất RTT nhưng chênh lệch không đáng kể. Nguyên nhân là do đặc điểm sản xuất RAT chỉ sử dụng phân hữu cơ là chủ yếu, ít sử dụng phân hóa học, hạn chế tối đa thuốc bảo vệ thực vật nên cây rau không phát triển tốt bằng RTT.

- RAT có diện tích nhỏ hơn RTT, năng suất thấp hơn nên sản lượng của RAT dĩ nhiên sẽ nhỏ hơn RTT. Sản lượng của RTT là 442,90 kg/sào và RAT là 401,86 kg/sào.

- Xét về từng loại rau thì xà lách cho sản lượng cao nhất, nguyên nhân là do xà lách có diện tích gieo trồng lớn hơn rất nhiều lần so với các loại rau khác. Ngò có sản lượng thấp nhất ở cả 2 nhóm hộ (RAT là 60,06 kg và RTT là 72,37 kg). Lý giải cho vấn đề này là do ngò chỉ trồng được từ tháng 4 đến tháng 6 và tháng 11 – 12 với diện tích gieo trồng

(7)

nhỏ nhất. Như vậy, năng suất và sản lượng thì nhóm hộ trồng RAT nhỏ hơn nhóm hộ RTT, tuy nhiên phần chênh lệch này không đáng kể. Do RAT sử dụng ít phân bón vô cơ và thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) hơn so với RTT nhưng nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật đã góp phần nâng cao năng suất và sản lượng rau.

Mỗi loại cây trồng có một chu kỳ sinh trưởng và phát triển riêng, người dân sẽ chọn những loại cây thích nghi với từng thời gian khác nhau. Thời gian gieo trồng tính theo âm lịch.

- Vụ Đông Xuân (bắt đầu từ đầu tháng 11 đến tháng 3 năm sau) là vụ có diện tích gieo trồng lớn nhất, đây là khoảng thời gian thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của cây rau.

- Vụ Hè Thu (bắt đầu từ đầu tháng 4 đến cuối tháng 8) là khoảng thời gian có khí hậu nóng bức, khô hanh, … Một số loại rau phù hợp với chịu nhiệt như: xà lách, cải, rau dền, …

- Thời tiết xã Quảng Thành có mùa mưa kéo dài, lũ lụt thường xảy ra vào tháng 9, 10. Các nông hộ chỉ sản xuất trong 10 tháng đầu năm, tháng 9, 10 hầu như không sản xuất.

Cây xà lách và cải xanh được các hộ gia đình ở đây hầu như trồng quanh năm, chỉ trừ 2 tháng mưa bão. Cây xà lách thường phát triển mạnh, cho năng suất tốt nhất là từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau, cây cải xanh cho năng suất cao từ tháng 4 đến tháng 8.

Những tháng hè từ tháng 4 đến tháng 8, tần ô, rau dền phát triển mạnh cho năng suất cao do phù hợp với thời tiết. Người dân thường trồng rau dền và tần ô thường là 5 lứa/năm.

3.4. Tình hình đầu tư sản xuất rau của các hộ điều tra

Cây rau muốn sinh trưởng và phát triển ngoài yếu tố dinh dưỡng có sẵn trong đất thì cần phải bổ sung những loại dinh dưỡng bên ngoài thông qua phân bón, thuốc BVTV, ...

(8)

Bảng 6: Các khoản chi phí sản xuất RAT và RTT (Tính bình quân/sào/năm) (ĐVT: 1.000 đồng)

STT Các khoản đầu tư RAT RTT RTT/RAT

BQC

+/- %

1

Chi phí bằng tiền 1.224,16 1.604,79 380,63 131,09 1.414,48

Giống 375,90 359,27 -16,63 95,58 367,59

Phân bón 215,01 785,87 570,86 365,50 500,44

Thuốc BVTV 27,00 81,00 54,00 300,00 54,00

Lao động thuê ngoài 300,00 225,00 -75,00 75,00 262,50

Phí tưới nước 81,25 78,65 -2,60 96,80 79,95

Lưới che nắng 225,00 75,00 -150,00 33,33 150,00

2

Chi phí tự có 5.430,45 4.788,30 -642,15 88,18 5.109,38 Lao động tự có 4.950,00 4.500,00 -450,00 90,91 4.725,00

Phân chuồng 345,00 185,00 -160,00 53,62 265,00

3 Khấu hao TSCĐ 135,45 103,30 -32,15 76,26 119,38 Tổng cộng 6.654,61 6.393,09 -261,52 96,07 6.523,85 (Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giả, 2017) Mức độ đầu tư có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất và chất lượng của cây rau. Nhìn chung, tổng chi phí đầu tư cho hoạt động trồng RAT và RTT có sự chênh lệch không đáng kể.

- Trồng rau theo phương thức nào thì yếu tố đầu vào quan trọng nhất chính là giống. So sánh chi phí giống của hai nhóm hộ ta thấy RAT có chi phí lớn hơn, cụ thể:

+ Chi phí giống của RAT là 375,91 nghìn đồng/sào cao hơn 16,63 nghìn đồng so với RTT. Sở dĩ có sự chênh lệch này là do đặc điểm sản xuất RAT phải hạn chế tối đa sử dụng phân vô cơ, thuốc BVTV, chỉ sử dụng phân chuồng nên muốn đạt được năng suất cao thì người dân cần lựa chọn những loại giống tốt, có khả năng chống chịu hơn so với RTT.

+ Bên cạnh giống thì phân bón cũng là một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất cây rau. Điểm khác biệt giữa hai nhóm hộ RAT và RTT là ở những hộ sản xuất RAT thì sử dụng nhiều phân bón hữu cơ nhưng lại sử dụng ít phân vô cơ và ngược lại.

+ Chi phí thuốc BVTV các hộ trồng RTT đầu tư nhiều hơn RAT. Sở dĩ như vậy là

(9)

do đặc điểm sản xuất của RAT là không được sử dụng thuốc BVTV có độc tố cao.

+ Các hộ trồng rau trang bị thêm hệ thống lưới che chống nắng cho rau vào mùa nắng nóng. Các hộ RAT tốn 4 - 5 kg/sào với giá 50 nghìn đồng/kg và RTT từ 1,5 – 2 kg/sào nhằm hạn chế ánh nắng trực tiếp ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng và phát triển của cây rau.

- Trồng rau cần rất nhiều công lao động, các hộ trồng RAT cần 35 công lao động/sào/năm (trong đó 33 công lao động gia đình và 2 công lao động thuê ngoài), còn RTT chỉ cần 31,5 công/sào/năm (30 công lao động gia đình và 1,5 công lao động thuê ngoài). Chi phí để thuê lao động tương đối cao, 1 công có giá khoảng 150 nghìn đồng.

- Chi phí khấu hao TSCĐ được khấu hao theo phương pháp đường thẳng trong vòng 10 năm. Hoạt động sản xuất RAT đòi hỏi người nông dân phải trang bị nhiều TLSX hơn hoạt động sản xuất RTT nên chi phí khấu hao TSCĐ của RAT lớn hơn RTT.

Qua phân tích, so sánh giữa 2 phương thức sản xuất ta thấy sản xuất RAT có chi phí lớn hơn so với RTT (RAT là 6.654,61 nghìn đồng/sào/năm và RTT là 6.393,09 nghìn đồng/sào/năm) nhưng nó đem lại cho con người sự an tâm về việc sử dụng.

3.5. Kết quả và hiệu quả sản xuất rau của các hộ điều tra

Qua một quá trình sản xuất, sản phẩm đầu ra của các hộ nông dân chính là các loại rau phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng. Tùy thuộc vào các giống rau khác nhau sẽ cho ra các loại rau khác nhau, mỗi phương thức canh tác khác nhau sẽ cho ra mức sản lượng khác nhau. Kết quả sản xuất của các hộ nông dân được thể hiện cụ thể như sau:

(10)

Bảng 7: Tổng giá trị sản xuất rau của nhóm hộ điều tra (Tính bình quân/sào/năm)

STT Loại rau

RAT RTT

Sản lượng

(kg)

Đơn giá (1.000 đồng/kg)

Giá trị sản xuất (1.000 đồng)

Sản lượng

(kg)

Đơn giá (1.000 đồng/kg)

Giá trị sản xuất (1.000 đồng) 1 Xà lách 1.153,89 7,00 8.077,20 1.198,15 6,00 7.188,92 2 Cải xanh 696,45 8,00 5.571,61 782,76 7,00 5.479,34

3 Ngò 60,06 9,00 540,54 72,37 8,10 586,19

4 Cần tây 211,16 12,00 2.533,90 252,45 10,80 2.726,47

5 Dền 110,43 28,00 3.092,01 136,67 25,50 3.485,19

6 Tần ô 179,18 12,00 2.150,16 214,97 10,50 2.257,19

Tổng 2.411,16 21.965,41 2.657,38 21.723,29 (Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giá, 2017) Dựa vào kết quả của hoạt động sản xuất rau, ta thấy: Doanh thu của các hộ trồng RAT lớn hơn RTT: hộ trồng RAT là 21.965,41 nghìn đồng/sào và RTT là 21.723,29 nghìn/sào.

Trong những năm gần đây, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm và sức khỏe được người tiêu dùng rất chú trọng, người dân sẵn sàng bỏ ra nhiều tiền hơn để có thể mua được những loại thực phẩm sạch. Chính vì vậy mà giá thành của RAT luôn cao hơn RTT từ 5 – 10%.

Mặc dù sản lượng của các hộ trồng RAT nhỏ hơn RTT nhưng giá bán của RAT lại cao hơn so với RTT chính điểu này đã đem lại doanh thu đáng kể cho các hộ trồng RAT.

Từ số liệu thu thập được trong quá trình điều tra trên địa bàn xã Quảng Thành, nhóm tác giả đã tiến hành phân tích, các loại chi phi, khấu hao, sản lượng thu hoạch, giá bán… Tổng hợp và đưa ra bảng kết quả hoạt động sản xuất RAT và RTT:

(11)

Bảng 8: Kết quả sản xuất rau của nhóm hộ điều tra (Tính bình quân/sào/năm) (ĐVT: 1.000 đồng)

Chỉ tiêu RAT RTT RTT/RAT

BQC

+/- %

GO 21.965,41 21.723,29 -242,12 -1,10 21.844,35

IC 1.224,16 1.604,79 380,63 31,09 1.414,48

VA 20.741,25 20.118,50 -622,75 -3,00 20.429,88 TC 6.654,61 6.393,09 -261,52 -3,93 6.523,85 LN 15.310,80 15.330,20 19,40 0,13 15.320,50

(Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giả, 2017 - Tổng giá trị sản xuất (GO) bình quân/sào của hai nhóm hộ đạt 21.844,35 nghìn đồng/sào. Trong đó: RAT là 21.965,41 nghìn đồng/sào lớn hơn 242,12 nghìn đồng/sào so với RTT. Như đã tìm hiểu ở trên, mặc dù RAT có năng suất thấp hơn RTT nhưng giá bán của RAT lại cao hơn rất nhiều dẫn đến GO của RAT lớn hơn.

- Chi phí trung gian (IC) của nhóm hộ trồng RAT nhỏ hơn RTT. Nguyên nhân là do các hộ trồng RAT không tốn nhiều chi phí cho việc sử dụng phân bón vô cơ, thuốc BVTV. Nếu xét cả chi phí tự có (Tc) thì những hộ RAT tốn nhiều chi phí hơn do RAT cần nhiều công lao động để chăm bón, sử dụng nhiều phân bón hữu cơ cũng như chi phí khấu hao TSCĐ lớn.

- Nhìn chung, cả 2 nhóm hộ đều đạt giá trị gia tăng (VA) tương đối lớn. RAT có GO lớn hơn RTT và có IC lại nhỏ hơn RTT dẫn đến VA của RAT lớn hơn VA của RTT. Cụ thể: giá trị gia tăng của nhóm hộ trồng RAT là 20.741,25 nghìn đồng/sào trong khi RTT chỉ 20.118,50 nghìn đồng/sào (tức là VA của RTT nhỏ hơn 3% so với RAT).

Tuy nhiên, khi tính VA chúng ta chưa xét đến các khoản chi phí tự có, vậy chúng ta xem xét chỉ tiêu lợi nhuận.

- Lợi nhuận của hai nhóm hộ có sự chênh lệch không đáng kể, cụ thể là lợi nhuận RAT nhỏ hơn RTT là 19,40 nghìn đồng/sào. RAT mặc dù có giá bán cao hơn RTT nhưng do năng suất thấp, khoản chi phí tự có tương đối lớn dẫn đến lợi nhuận của RAT nhỏ hơn RTT.

(12)

Bảng 9: Hiệu quả sản xuất rau của các hộ điều tra (Tính bình quân/sào/năm)

Chỉ tiêu ĐVT RAT RTT RTT/RAT

+/- % BQC

GO/IC Lần 17,94 13,54 -4,40 -24,53 15,74 VA/IC Lần 16,94 12,54 -4,40 -25,97 14,74 LN/IC Lần 12,51 9,55 -2,96 -23,66 11,03

LN/TC Lần 2,30 2,40 0,10 4,35 2,35

(Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giả, 2017) - Dựa vào bảng hiệu quả hoạt động sản xuất rau, ta thấy bình quân 1 đồng chi phí trung gian tạo ra 15,74 đồng giá trị sản xuất và 14,74 đồng giá trị gia tăng. So sánh giữa hai nhóm hộ ta thấy cả hai chỉ tiêu của nhóm hộ RAT lớn hơn RTT. Điều này có nghĩa là 1 đồng chi phí trung gian bỏ ra của nhóm hộ trồng RAT đem lại nhiều giá trị sản xuất và giá trị gia tăng hơn so với RTT.

- Về chỉ tiêu LN/IC có nghĩa là 1 đồng chi phí trung gian đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này của các hộ RAT lại lớn hơn RTT. Đối với các hộ trồng RAT: 1 đồng chi phí trung gian bỏ ra đem lại 12,51 đồng lợi nhuận, trong khi đối với các hộ trồng RTT chỉ mang lại 9,55 đồng lợi nhuận.

- Tuy nhiên, khi xét đến chỉ tiêu LN/TC thì nhóm hộ trồng RAT lại nhỏ hơn nhóm hộ trồng RTT. Cụ thể: Các hộ trồng RTT bỏ ra 1 đồng chi phí sẽ thu về 2,40 đồng lợi nhuận trong khi các hộ trồng RAT chỉ thu về 2,30 đồng. Như vậy, các hộ trồng RTT sẽ thu nhiều lợi nhuận hơn các hộ trồng RAT 0,10 đồng tương ứng 4,35%.

Tóm lại, khi xem xét 4 chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế hoạt động sản xuất rau thì RAT có 3/4 chỉ tiêu lớn hơn RTT, chỉ có chỉ tiêu LN/TC là nhỏ hơn. Như vậy, có thể kết luận rằng hoạt động sản xuất RAT đem lại hiệu quả kinh tế lớn hơn so với RTT.

(13)

3.6. Tình hình tiêu thụ rau trên địa bàn xã Quảng Thành 3.6.1. Sơ đồ chuỗi cung rau truyền thống

Rau truyền thống có 3 kênh tiêu thụ phổ biến:

Sơ đồ 1 : Kênh tiêu thụ của nhóm hộ trồng RTT

(Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giả, 2017)

- Kênh 1: Người sản xuất  người bán buôn  người bán lẻ  người tiêu dùng

Đây là kênh tiêu thụ rau truyền thống chủ yếu của người dân địa phương (chiếm 55%). Người dân sẽ đưa rau lên chợ đầu mối. Từ đó, người bán buôn sẽ cung cấp rau cho người bán lẻ để phân phối đến các chợ khác sau đó mới đến tay người tiêu dùng. Do trải qua nhiều khâu trung gian nên giá rau đến tay người tiêu dùng cao hơn nhiều so với giá mà người nông dân nhận được. Hình thức tiêu thụ này thường gặp ở những hộ có quy mô sản xuất lớn.

- Kênh 2: Người sản xuất  người bán lẻ  người tiêu dùng

Hình thức này chiếm 30% trong tổng số hộ được điều tra. Người sản xuất sẽ bán sản phẩm cho người bán lẻ và từ người bán lẻ sẽ bán cho người tiêu dùng. Hình thức này bớt được một khâu trung gian. Người bán lẻ được hưởng lợi nhiều hơn do mua trực tiếp từ nhà sản xuất. Hình thức này thường thấy ở các hộ có quy mô vừa.

- Kênh 3: Người sản xuất  người tiêu dùng

Đây là hình thức tiêu thụ đơn giản nhất, không thông qua bất kì một khâu trung gian nào. Hình thức này chỉ chiếm 15% tổng số hộ được điều tra. Người tiêu dùng mua rau trực tiếp từ nhà sản xuất mà không phải thông qua bất kì một khâu trung gian nào.

Tuy nhiên, hình thức này chỉ áp dụng được đối với những hộ có quy mô nhỏ.

3.6.2. Sơ đồ chuỗi cung rau an toàn

Đầu tiên người cung cấp các yếu tố đầu vào như giống, phân bón và các đầu vào khác, các công cụ, dụng cụ phục vụ trong quá trình sản xuất RAT. Các hộ sản xuất sau

Người bán buôn Người bán lẻ

Người tiêu dùng Người sản xuất

Người bán lẻ 30%

55%

15%

(14)

khi thu hoạch, tiêu thụ sản phẩm theo bốn kênh tiêu thụ phổ biến.

- Kênh 1: Hộ sản xuất RAT chợ  người tiêu dùng

Cũng tương tự RTT, hình thức này khá phổ biến đối với các hộ sản xuất với quy mô nhỏ (khoảng 10%). Sở dĩ người dân không muốn bán trực tiếp cho người tiêu dùng vì khi bán rất khó phân biệt giữa RAT và RTT, do đó không tạo được sự khác biệt giữa 2 loại rau này dẫn đến giá cả của RAT và RTT như nhau.

- Kênh 2: Hộ sản xuất RAT thương lái địa phương  chợ  người tiêu dùng

Hộ sản xuất RAT bán sản phẩm cho người thu gom nhỏ trong địa phương (khoảng 50% khối lượng sản phẩm). Hình thức này thực hiện chủ yếu thông qua trao đổi trực tiếp giữa người nông dân và thương lái, đây là hình thức phổ biến vì người nông dân bán sản phẩm tại vườn, tiết kiệm thời gian và chi phí vận chuyển. Sau đó, người thu gom địa phương mang sản phẩm bán cho các cửa hàng trong chợ, người thu gom trong tỉnh và đưa đến người tiêu dùng.

Sơ đồ 2: Kênh tiêu thụ của nhóm hộ trồng RAT

(Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giá, 2017) - Kênh 3: Hộ sản xuất RAT  HTX Kim Thành  Siêu thị  Người tiêu dùng hoặc: Hộ sản xuất RAT HTX Kim Thành  Các cở sở chế biến nhà hàng, quán ăn

 Người tiêu dùng

Sản phẩm các hộ nông dân bán cho HTX thông qua hợp đồng thu mua bao tiêu sản phẩm chiếm khoảng 20%. Sản phẩm sau đó được bán tại các cửa hàng, quán ăn, cơ sở chế biến và siêu thị dưới hình thức hợp đồng rồi mới đến tay người tiêu dùng. Đây cũng là kênh tiêu thụ chỉ có ở RAT.

Hộ sản xuất rau

an toàn

Người thu gom địa phương

Hợp Tác Xã (Kim Thành)

Chợ

Siêu thị Người cung

cấp giống

Người tiêu dùng Người cung

cấp phân bón

10%

50%

20%

Người cung cấp đầu vào

khác

Doanh nghiệp tư nhân.

(Hóa Châu)

Các cở sở chế biến, nhà hàng,

quán ăn, … 20%

(15)

Kênh 4: Người sản xuất RAT  Doanh nghiệp tư nhân Hóa Châu  Các cở sở chế biến nhà hàng, quán ăn  Người tiêu dùng

Doanh nghiệp tư nhân thu mua sản phẩm rau an toàn thông qua các hợp đồng mua bán chiếm 20% trong kênh phân phối. Từ đó, sản phẩm được các doanh nghiệp bán lại cho các mối làm ăn, các nhà hàng, quán ăn, siêu thị,… Sản phẩm được vận chuyển, chế biến phục vụ người tiêu dùng.

Như vậy, sau khi phân tích các kênh tiêu thụ sản phẩm của hai phương thức RAT và RTT, nghiên cứu nhận thấy:

Xét về giá cả, hình thức phân phối thì cả 2 mô hình đều có sự khác nhau và giống nhau. Nếu xét về giá trị kinh tế thì RAT có giá cao hơn rất nhiều so với RTT, người tiêu dùng hiện nay rất quan tâm đến vấn đề sức khỏe, họ sẵn sàng trả một mức giá cao hơn hẳn để đổi lại là sản phẩm an toàn. Vấn đề đặt ra bây giờ là làm sao tạo được sự khác biệt giữa hai mô hình để từ đó có thể nhân rộng diện tích gieo trồng RAT, phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng.

4. Kết luận và thảo luận

Trong những năm qua, diện tích RAT ở xã Quảng Thành ngày càng được mở rộng: năm 2014 tổng diện tích RAT chỉ 1,6 ha nhưng đến năm 2016 đã tăng lên 11,6 ha.

Điều này cho thấy, chính quyền địa phương đang đi đúng hướng trong việc chuyển đổi từ mô hình sản xuất RTT sang mô hình sản xuất RAT.

Năng suất RAT thấp hơn RTT tuy nhiên phần chênh lệch không đáng kể. Nguyên nhân là do người dân đã có nhiều kinh nghiệm trong việc sản xuất RAT, bên cạnh đó, người dân còn nhận được sự giúp đỡ từ chính quyền địa phương, các trung tâm nghiên cứu đã tìm ra những giống rau mới có năng suất và chất lượng tốt hơn, có khả năng chống chịu tốt với sâu bệnh.

Hoạt động sản xuất rau ở xã Quảng Thành đều đạt hiệu quả kinh tế cao. Lợi nhuận của của nhóm hộ trồng RAT là 15.310.800 đồng/sào và RTT là 15.330.200 đồng/sào.

Tuy nhiên, để phát triển bền vững, bảo vệ môi trường sống và đảm bảo sức khỏe của người tiêu dùng thì người nông dân nên thay đổi tập quán canh tác của mình, hạn chế sử dụng thuốc BVTV, thuốc trừ sâu và các hóa chất độc hại khác và chuyển sang mô hình sản xuất RAT.

So với những nghiên cứu trước đây, kết quả nghiên cứu này cho thấy hoạt động sản xuất RAT đã ngày càng được mở rộng và đạt hiệu quả kinh tế cao. Phần chênh lệch giữa lợi nhuận của hai nhóm hộ trồng RAT và RTT ngày càng thu hẹp. Bên cạnh đó, người tiêu dùng đã quan tâm nhiều hơn đến thực phẩm sạch, an toàn cho sức khỏe.

(16)

Chính vì vậy, họ sẵn sàng mua những sản phẩm RAT với mức giá cao hơn. Đây chính là cơ hội, hướng phát triển cho ngành sản xuất RAT xã Quảng Thành nói riêng và toàn bộ thị trường nói chung.

Bên cạnh những điều kiện thuận lợi và cơ hội, hoạt động sản xuất RAT cũng gặp không ít khó khăn và thách thức như: chưa có thị trường tiêu thụ ổn định, chưa có quy định rõ ràng để phân biệt giữa RAT và RTT, việc xây dựng uy tín, thương hiệu trên thị trường còn gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy, đòi hỏi cần sự chung tay góp sức của nhiều cơ quan, đơn vị và tổ chức, đặc biệt là người tiêu dùng cần tạo cho bản thân thói quen tiêu dùng thông minh.

Căn cứ vào những kết quả nghiên cứu, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế hoạt động sản xuất rau theo hướng phát triển bền vững, phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường và sức khỏe người tiêu dùng:

- Chính quyền địa phương cần hoàn thiện hệ thống chính sách, đặc biệt là các chính sách đối với nông nghiệp, thành lập các trung tâm nghiên cứu khoa học, kỹ thuật và công nghệ nhằm cung cấp các giống rau phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới về cây rau.

- Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, nhà khoa học tham gia trong lĩnh vực sản xuất, tiêu thụ rau an toàn, liên kết 4 nhà: nhà nông - nhà nước - nhà khoa học - nhà doanh nghiệp.

- Các viện nghiên cứu tạo ra những giống rau mới, kỹ thuật canh tác phù hợp với điều kiện tỉnh Thừa Thiên Huế, đặc biệt là rau trái vụ.

- Người nông dân cần liên kết, hỗ trợ nhau trong việc chủ động trong tìm tòi, học hỏi về kỹ thuật trồng rau sạch. Mạnh dạn áp dụng mô hình trồng RAT với nhiều chủng loại rau.

(17)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Quyết định số 52/2007/QĐ - BNN về

“Phê duyệt quy hoạch phát triển rau quả và hoa cây cảnh đến năm 2010, tầm nhìn 2020”.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Quyết định 04/2007/QĐ-BNN Ban hành

“Quy định về quản lý sản xuất và chứng nhận RAT”, 2007.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Cục Trồng trọt, Quy trình sản xuất rau an toàn VIETGAP, http://www.vietgap.gov.vn/

Lê Thị Khanh, Bài giảng cây rau, Trường Đại học Nông Lâm Huế, tháng 08/2009.

Nguyễn Thị Tân Lộc, Đỗ Kim Chung, “Giải pháp phát triển tiêu thụ rau thông qua hệ thống chợ và siêu thị trên địa bàn thành phố Hà Nội”, Tạp chí Khoa học và Phát triển, tập 13, số 5: 850-858, 2015.

Phạm Hải Vũ, Nguyễn Thị Tân Lộc, Nguyễn Đình Thi, Chương V: các tiêu chuẩn sản xuất rau an toàn ở Việt Nam, 2016,

https://www.researchgate.net/publication/309428527

UBND xã Quảng Thành, Báo cáo kết quả thực hiện quy trình sản xuất rau theo tiêu chuẩn VIETGAP, 2015.

UBND xã Quảng Thành, Báo cáo đánh giá rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng của xã Quảng Thành, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, 2015.

(18)

COMPARING THE ECONOMIC EFFICIENCY OF SAFE VEGETABLE AND TRADITIONAL ONE IN QUANG THANH

COMMUNE, QUANG DIEN DISTRICT, THUA THIEN HUE PROVINCE

Tran Huynh Bao Chau, Tran Huynh Quang Minh

Abstract: This research focuses on comparing the economic efficiency of safe and traditional vegetable production in Quang Thanh commune, Quang Dien district.

The result shows that the economic eficiency of vegetable production has quite high.

Revenue from safe vegetable production is 15.310.800 VND/sao/year while traditional production is 15.330.200 VND/sao/year. There is not statistically significant difference in economic efficiency between safe and traditional vegetables. Although the price of safe vegetable is high, it lacks the stable market and identification sign. Therefore, the economic efficiency and supply chain of safe vegetable must be enhanced. Local government should encourage the local farmers to shift from traditional vegetable growing to safe vegetable in order to protect the environment and healthy for consumers.

Keywords: Safe vegetable; Traditional vegetable; Quang Thanh commune.

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Trong đó, người bán hàng đóng vai trò tiếp xúc với khách hàng, chịu trách nhiệm về việc bán sản phẩm, dịch vụ của bên mình, thông qua những kiến thức, kinh nghiệm,

đong đo đếm được: số sản phẩm tiêu thụ mỗi loại, doanh thu bán hàng, lợi nhuận, thị phần,… cũng có thể là những đại lượng chỉ phản ánh được mặt chất lượng hoàn toàn có tính

quy mô doanh nghiệp, độ tuổi, tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận quá khứ, năng suất và tính liên kết ngành liên quan đến lợi nhuận của công ty như thế nào nhằm

Từ định nghĩa về hiệu quả kinh tế của một hiện tượng như trên ta có thể hiểu hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế, biểu hiện sự phát triển kinh tế theo

Để phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty ta tiến hành phân tích hiệu quả hoạt động tài chính thông qua một số chỉ tiêu như: khả năng thanh toán hiện thời, khả

Phát triển là phải đạt lợi nhuận cao, mở rộng sản xuất kinh doanh theo cả chiều rộng và chiều sâu, đủ sức cạnh tranh trên thị trường và bắt kịp xu thế của xã hội.Với việc

So với quan điểm trƣớc thì quan điểm này toàn diện hơn ở chỗ nó đã xem xét đến hiệu quả kinh tế trong sự vận động của tổng thể các yếu tố sản xuất gắn kết giữa hiệu quả

thẻ điểm cân bằng còn cung cấp các nguồn thông tin phản hồi ngược từ dưới lên ban lãnh đạo tạo điều kiện cập nhật thông tin liên tục trong công việc thực thi chiến lược