• Không có kết quả nào được tìm thấy

Đơn Bảo Hiểm Hàng Hải

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "Đơn Bảo Hiểm Hàng Hải"

Copied!
14
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

www.hanghaikythuat.edu.tf ðỗ Minh C ườ ng

ðƠN BẢO HIỂM HÀNG HẢI

Sự cần thiết của ñơn bảo hiểm

Trong thị trường bảo hiểm, khi các thủ tục ký kết hợp ñồng bảo hiểm hầu như ñều dựa vào các giấy nhận bảo hiểm của môi giới (broker’s slip) thì nhu cầu ñối với một chứng từ ñơn bảo hiểm chính thức là hết sức cấp bách. ðối với ñơn bảo hiểm Tàu-Hàng (SG policy) như ñã nói trong các bài trước, có quá nhiều quy ñịnh ñược bao gồm trong mẫu ñơn bảo hiểm gây ra nhiều khó khăn trong việc xử lý các khiếu nại khi không có ñơn bảo hiểm trong tay ñể tham chiếu các ñiều khoản của ñơn bảo hiểm. Một số người cho rằng nội dung của mẫu ñơn bảo hiểm SG ñã ñược những người hành nghề bảo hiểm thuộc nằm lòng, do vậy việc tham chiếu ñơn bảo hiểm là không cần thiết. Tuy nhiên, giả thiết này ñã bị bác bỏ bởi kết qủa của một nghiên cứu ñược thực hiện ñối với rất nhiều những người làm bảo hiểm lành nghề và có nhiều kinh nghiệm. Mặc dù họ rất rành về các ñiều khoản ñính kèm theo ñơn bảo hiểm nhưng lại thiếu hiểu biết một cách ñáng ngạc nhiên ñối với các chi tiết trong chính mẫu ñơn bảo hiểm SG.

Hệ thống bảo hiểm bao (open cover) trong bảo hiểm hàng hóa cho phép sử dụng các giấy chứng nhận bảo hiểm ñể thay thế cho các ñơn bảo hiểm chính thức trong các thủ tục thương mại ñối với các chuyến hàng riêng rẽ, theo ñó xóa bỏ sự cần thiết của ñơn bảo hiểm chính thức ñối với mỗi chuyến hàng ñược khai báo theo hợp ñồng bảo hiểm bao. Do vậy ñã có một thời gian việc sử dụng các giấy chứng nhận bảo hiểm ñể thay thế cho các ñơn bảo hiểm chính thức ñã trở thành một tập quán, tuy nhiên trong thực tiễn hiện ñại, tập quán này ñã trở nên rất hiếm. Ngày nay có thể thấy rất khó cho tất cả các tòa án trên thế giới chấp nhận một ñơn bảo hiểm bao như một bằng chứng của hợp ñồng bảo hiểm chính thức khi có tranh chấp, và trong trường hợp ñó cần phải ñưa ra một ñơn bảo hiểm chính thức ñể chứng minh lô hàng ñã ñược bảo hiểm dẫn ñến tranh chấp.

Trong bảo hiểm hàng hóa, việc ký kết một hợp ñồng bảo hiểm “nhiệm ý” (facultative) là rất hiếm khi so sánh với bảo hiểm bao. Hợp ñồng bảo hiểm nhiệm ý là một hợp ñồng mà theo ñó người bảo hiểm không bị ràng buộc ñối với bất kỳ nghĩa vụ bảo hiểm nào và họ có quyền nhận hay từ chối các yêu cầu bảo hiểm ñối với họ. Người ñược bảo hiểm theo một hợp ñồng bảo hiểm nhiệm ý có thể cần có một ñơn bảo hiểm chính thức như là một bằng chứng của bảo hiểm theo hệ thống tín dụng chứng từ ñể thanh toán tiền hàng; ñặc biệt là nếu ngân hàng sẵn sàng trả tiền trước. Tuy nhiên, trong các trường hợp mà người ñược bảo hiểm không cần ñơn bảo hiểm chính thức thì Lloyd’s và Hiệp hội bảo hiểm Luân ñôn (ILU) sẽ cung cấp một thủ tục theo ñó một “ñơn nhận bảo hiểm” (slip policy) sẽ ñược ký thay cho ñơn bảo hiểm chính thức. Trong thủ tục này mẫu ñơn bảo hiểm ñược ñịnh nghĩa trên giấy nhận bảo hiểm (slip) và ñơn nhận bảo hiểm ñược ñính kèm vào giấy nhận bảo hiểm ñể ký (signing slip) của môi giới. Thủ tục này quy ñịnh rằng giấy nhận bảo hiểm có thể ñược sử dụng vào mọi mục ñích, kể cả việc khiếu nại ñòi bồi thường;

và khi cần người bảo hiểm sẽ cấp ñơn bảo hiểm chính thức theo yêu cầu. Bảo ñảm này là ñể thỏa mãn nhu cầu của môi giới và người ñược bảo hiểm khi cần có ñơn bảo hiểm chính thức trong trường hợp xảy ra tranh chấp. Mặc dù người ñược bảo hiểm hoàn toàn có ý ñịnh thực hiện nghĩa vụ này, tuy nhiên vấn ñề vẫn chưa ñược kiểm chứng trong thực tiễn ñối với các công ty bảo hiểm bị phá sản. Khi các công ty này bị kiểm soát bởi những người quản lý tài sản của chính phủ, các công chức này không có thẩm quyền cấp ñơn bảo hiểm chính thức ñể hợp thức hóa các giấy nhận bảo hiểm ñã cấp. Trừ trường hợp ñối với ñơn nhận bảo hiểm ñã nói ở trên, những người ñược bảo hiểm theo các giấy nhận bảo hiểm sẽ không tìm ñâu ra ñơn bảo hiểm ñể ñòi nợ từ tài sản của các công ty bảo hiểm này.

Mẫu ñơn bảo hiểm SG

Mặc dù thị trường Luân ñôn có ý ñịnh thay thế mẫu ñơn bảo hiểm SG bằng mẫu ñơn bảo hiểm MAR ñối với bảo hiểm hàng hóa vào năm 1982 và bảo hiểm thân tàu vào năm 1983, nhưng có

(2)

www.hanghaikythuat.edu.tf ðỗ Minh C ườ ng

thể nói một cách dứt khoát rằng ngày nay mẫu ñơn bảo hiểm SG ñã không còn ñược sử dụng trong thực tiễn bảo hiểm hàng hải hiện ñại nữa. Tuy nhiên, ñể hiểu rõ về nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải thì mẫu ñơn bảo hiểm SG và các ñiều khoản bảo hiểm hàng hóa tiêu chuẩn 1963 và các ñiều khoản bảo hiểm thân tàu tiêu chuẩn 1970 ñược ñính kèm theo ñó cần ñược xem xét một cách chi tiết.

Trong suốt thế kỷ 16, các ñơn bảo hiểm theo rất nhiều mẫu khác nhau. Những mẫu ñơn bảo hiểm sớm nhất ñược các nhà bảo hiểm Anh tham gia nhận bảo hiểm ñược tìm thấy ở Ý ñã cho thấy sự ảnh hưởng của thị trường Ý ñối với thị trường Luân ñôn mà ñiểm xuất phát là phố Lombards. Vào thời ñó, quyền và nghĩa vụ của các bên ñược ñịnh nghĩa theo “tập quán của Phố Lombards” là trung tâm của các nhà bảo hiểm, chứ không phải tập quán của Lloyd’s (Quán cà phê Lloyd’s ñược thiết lập vào giữa thế kỷ 18). Trong thực tế tập quán này ñược tham chiếu ở cuối ñơn bảo hiểm SG.

Qua nhiều năm, rất nhiều các tài liệu ñã ñược viết về cách sử dụng thuật ngữ SG ñể ñịnh nghĩa loại ñơn bảo hiểm này bao gồm nhiều lý thuyết cũng ñã ñược ñưa ra. Mặc dù ngày nay chỉ còn có giá trị học thuật, tuy nhiên thật ñáng ngạc nhiên khi không có một lý thuyết nào ñược giải thích dựa theo nội dung thực tế trên ñơn bảo hiểm, nội dung này ñược diễn ñạt như sau:

“bảo hiểm cho mọi loại hàng hóa và cho cả thân tàu, trang thiết bị, ñồ trang trí, ñồ cung ứng, pháo, ñạn dược, xuồng và các ñồ ñạc khác trên một con tàu tốt có tên gọi là…”

Nội dung này cho thấy ý ñịnh bảo hiểm cho con tàu trong một chuyến ñi cụ thể, nhưng bao gồm

“mọi loại” hàng hóa tình cờ có ở trên tàu vào thời ñiểm xảy ra tổn thất trong khi những hàng hóa này không hề ñược nói ñến trong ñơn bảo hiểm.

ðối với các trường hợp khi một con tàu cần ñược bảo hiểm nhưng không bao gồm hàng hóa trên tàu, có một mẫu ñơn bảo hiểm tương tự như mẫu ñơn SG nhưng bỏ qua mọi tham chiếu ñến hàng hóa. Loại mẫu ñơn bảo hiểm này ñược nhận biết bởi ký hiệu chữ S ở bên lề thay cho chữ SG. Tương tự khi hàng hóa ñược chở trên tàu của một người khác, chủ hàng có thể ñược bảo hiểm theo một mẫu ñơn bảo hiểm tương tự mẫu ñơn SG nhưng chỉ tham chiếu ñến con tàu ñược ghi tên trên ñơn bảo hiểm như con tàu dùng ñể chuyên chở mà không dự tính ñến việc bảo hiểm cho con tàu. Loại ñơn bảo hiểm này ñược nhận biết bởi ký hiệu chữ G bên lề thay cho chữ SG.

Cả ba loại ñơn bảo hiểm này ñều là ñơn bảo hiểm “chuyến”. ðơn bảo hiểm SG bảo hiểm cho con tàu “tại và từ” ñịa ñiểm ñược ghi trên ñơn bảo hiểm và hàng hóa từ thời ñiểm ñược xếp lên tàu. Hiệu lực của bảo hiểm ñược tiếp tục ñối với cả hai quyền lợi (tàu và hàng) trong suốt chuyến hành trình cho ñến khi con tàu ñến và thả neo, hay ñược buộc tại nơi ñến có tên trên ñơn bảo hiểm. 24 giờ sau khi tàu ñến như thế bảo hiểm ñối với tàu sẽ kết thúc. Bảo hiểm ñối với hàng hóa sẽ kết thúc khi hàng hóa ñược dỡ xuống cầu cảng. ðơn bảo hiểm S cung cấp bảo hiểm tương tự như ñơn bảo hiểm SG ñối với tàu và ñơn bảo hiểm G cung cấp bảo hiểm tương tự như ñơn bảo hiểm SG ñối với hàng hóa.

Hội ñồng Lloyd’s ñược thành lập vào năm 1772 nhưng mãi ñến ngày 07/03/1774 mới chuyển về cơ sở ñầu tiên của mình tại Royal Exchange. Trong thời gian phát triển ñó, các nhà bảo hiểm sử dụng mọi mẫu ñơn bảo hiểm mà họ chọn, bao gồm một hay một số trong các mẫu ñơn bảo hiểm nói trên. Mặc dù có các ñiểm khác nhau nhỏ, các ñơn bảo hiểm SG, S và G ñều có rất nhiều các ñặc ñiểm cơ bản giống nhau. Các bản lưu ñơn bảo hiểm sử dụng trong thế kỷ 16 cho thấy rất nhiều ñiểm khác biệt ñáng kể trong nội dung của ñơn bảo hiểm và ñiều bí ẩn là các nhà bảo hiểm làm sao ñể các mẫu ñơn bảo hiểm này phù hợp với nguyên tắc chung của thị trường trong khi không có sự trợ giúp của các tổ chức bảo hiểm thương mại như ngày nay. Tuy nhiên có một thực tế là Hội ñồng Lloyd’s ñã tìm kiếm một mẫu ñơn bảo hiểm tiêu chuẩn và họ ñặc biệt lưu ý ñến mẫu ñơn bảo hiểm SG, S và G. Do một số lý do không rõ ràng, mẫu ñơn bảo hiểm S và mẫu

(3)

www.hanghaikythuat.edu.tf đỗ Minh C ườ ng

ựơn bảo hiểm G cuối cùng ựã không ựược chọn và LloydỖs ựã dùng mẫu ựơn bảo hiểm SG sau ựó sửa ựổi lại cho phù hợp với yêu cầu của họ ựể trở thành mẫu ựơn bảo hiểm hàng hải tiêu chuẩn ựầu tiên vào ngày 01/01/1779.

Năm 1795 Luật Quốc hội Anh (Act of Parliament) ựã bắt buộc các nhà bảo hiểm tư nhân phải sử dụng mẫu ựơn bảo hiểm SG cho mọi loại hình bảo hiểm hàng hải. Hai công ty bảo hiểm duy nhất vào thời ựó là London Assurance và Royal Exchange Assurance không thừa nhận ựơn bảo hiểm SG của LloydỖs và Luật này cũng không bắt buộc họ thay ựổi tập quán kinh doanh của mình. Một ựiều thú vị là mặc dù Luật Quốc hội Anh quy ựịnh việc sử dụng mẫu ựơn bảo hiểm SG là bắt buộc ựối với LloydỖs và các nhà bảo hiểm tư nhân (trừ các công ty bảo hiểm) nhưng Luật Bảo hiểm Hàng hải Anh (MIA) 1906 lại không quy ựịnh như vậy. MIA 1906 sao chép lại mẫu ựơn bảo hiểm SG trong phụ bản thứ nhất của Luật, nhưng điều 30 lại quy ựịnh rằng ỘMột ựơn bảo hiểm có thể theo mẫu của phụ lục thứ nhất của Luật nàyỢ chứ không bắt buộc phải theo mẫu ựơn bảo hiểm này.

Thị trường của các công ty bảo hiểm ựược mở rộng vào thế kỷ 19 và phát triển thành một thị trường bảo hiểm hùng mạnh như hiện nay, tuy nhiên thực tế các công ty bảo hiểm trong thị trường Anh lại không thừa nhận mẫu ựơn bảo hiểm SG như ựã ựược trắch dẫn trong MIA 1906.

Các công ty này có xu hướng thắch phát triển các mẫu ựơn bảo hiểm S và G một cách riêng biệt.

Khi nghiên cứu mẫu ựơn bảo hiểm thân tàu và hàng hóa ựược ILU sử dụng, có thể thấy rõ xu hướng này thông qua sự khác nhau về nội dung so với ựơn bảo hiểm SG. đơn bảo hiểm thân tàu quy ựịnh sẽ bảo hiểm cho Ộthân tàu, trang thiết bị, ựồ trang trắ, ựồ cung ứng, pháo, ựạn dược, xuồng và các ựồ ựạc khác trên một con tàu tốt có tên gọi làẦỢ; trong khi ựơn bảo hiểm hàng hóa quy ựịnh sẽ bảo hiểm cho Ộmọi loại hàng hóa trên một con tàu tốt có tên gọi làẦỢ.

Môi giới tại Luân ựôn ựược yêu cầu phải thể hiện trên giấy nhận bảo hiểm tiêu chuẩn mẫu ựơn bảo hiểm sẽ áp dụng cho rủi ro ựược chào bảo hiểm. Khi sử dụng loại ựơn bảo hiểm này, môi giới phải thể hiện nó như một ựơn bảo hiểm SG trên giấy nhận bảo hiểm bất kể một phần hay toàn bộ rủi ro ựược thu xếp bảo hiểm ngoài LloydỖs mặc dù thực tế mẫu ựơn bảo hiểm của các công ty bảo hiểm không hoàn toàn giống mẫu ựơn SG.

Như ựã nhận xét ở trên, mặc dù mẫu ựơn SG vẫn còn tiếp tục ựược sử dụng tại thị trường Luân ựôn, nhưng thực tế gần như không thể tìm thấy một mẫu ựơn bảo hiểm nào khác với mẫu ựơn bảo hiểm MAR trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng ựường biển hay bảo hiểm tàu biển và trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển. Do thực tiễn này mà ILU ựã hủy bỏ toàn bộ các ựiều khoản của Hiệp hội ựược thiết kế ựể sử dụng với mẫu ựơn bảo hiểm SG. Chắnh vì vậy những người hành nghề bảo hiểm vẫn tiếp tục sử dụng mẫu ựơn bảo hiểm SG phải tự soạn thảo các ựiều khoản của riêng họ cho mục ựắch này; mặc dù họ hoàn toàn có thể dựa vào nội dung của các Bộ ựiều khoản bảo hiểm hàng hóa (ICC) 1963 và các Bộ ựiều khoản bảo hiểm thân tàu (ITC) 1970 của ILU.

Sự mập mờ trong nội dung ựơn bảo hiểm

Khi sử dụng một mẫu ựơn bảo hiểm cho nhiều hợp ựồng bảo hiểm khác nhau thì nội dung của ựơn bảo hiểm thường phải sửa ựổi ựể phù hợp với bất kỳ thay ựổi nào ựược yêu cầu. Vắ dụ có người muốn mở rộng các hiểm họa trong mẫu ựơn bảo hiểm SG ựể bao gồm thêm các hiểm họa khác; hay người khác lại muốn bảo hiểm các hiểm họa tiêu chuẩn nhưng loại trừ một vài hiểm họa nào ựó (như rủi ro chiến tranh chẳng hạn). để thực hiện các thay ựổi này người ta có thể sửa ựổi chắnh mẫu ựơn bảo hiểm, nhưng ựể làm ựược như thế nội dung ựơn bảo hiểm sau khi ựã ựược sửa ựổi phải có ý nghĩa tương tự như nội dung mà họ muốn, với ựiều kiện sự thay ựổi ựó không làm ảnh hưởng ựến các quy ựịnh khác của hợp ựồng bảo hiểm. Trong thực tế người ta thường thêm các nội dung mâu thuẫn vào ựơn bảo hiểm thay vì sửa ựổi trực tiếp nội dung ựã ựược in sẵn trên ựơn bảo hiểm. đã có một thời những người bảo hiểm sửa ựổi ựơn bảo hiểm bằng cách viết tay lên ựó, nhưng ngày nay phương pháp này không còn ựược sử dụng nữa. Các

(4)

www.hanghaikythuat.edu.tf ðỗ Minh C ườ ng

sửa ñổi thường ñược ñánh máy vào các khoảng trống thích hợp trên mẫu ñơn bảo hiểm hoặc có thể theo cách thông dụng hơn là ñánh máy vào một tờ giấy riêng biệt và ñính kèm theo ñơn bảo hiểm.

Một ñiều kiện của ñơn bảo hiểm ñược ñánh máy vào một tờ giấy riêng biệt và ñính kèm theo ñơn bảo hiểm có thể ñược gọi là “nội dung ñơn bảo hiểm” (policy wording). Ngoài ra, các thuật ngữ

“nội dung của người bảo hiểm” (underwriters’ wordings) hay “nội dung của môi giới” (brokers’

wordings) cũng ñược sử dụng trong trường hợp tương tự ñối với một số loại hình bảo hiểm, tuy nhiên các thuật ngữ này không ñược coi là “tiêu chuẩn”.

Thêm vào ñó, cái gọi là “nội dung” không phải là các ñiều khoản tiêu chuẩn thường chỉ ñược ñánh máy cho ñến khi việc sử dụng trở nên phổ biến chúng có thể ñược in sẵn lên ñơn bảo hiểm. Hầu hết các ñiều kiện bảo hiểm ñược dùng phổ biến trong thị trường bảo hiểm hàng hải ñể ñính kèm với các ñơn bảo hiểm ñều là các ñiều khoản của ILU. Các ñiều khoản này ñược soạn thảo bởi Ủy ban Kỹ thuật và ðiều khoản (Technical and Clauses Committee) – là một ủy ban bao gồm các ñại diện từ thị trường Lloyd’s và các công ty của ILU – và ñược phát hành bởi Hiệp hội bảo hiểm Luân ñôn ñể cho bất kỳ người nào sử dụng trong thực tiễn bảo hiểm hàng hải.

Trách nhiệm ñể ñảm bảo rằng ñơn bảo hiểm ñược hiểu một cách chính xác như ý ñịnh của các bên tham gia hợp ñồng thuộc về bên cấp ñơn bảo hiểm chính là người bảo hiểm. Trách nhiệm này cũng ñược pháp luật quy ñịnh tương tự (ðiều 21 của LHH 2005 quy ñịnh trong trường hợp hợp ñồng bảo hiểm có ñiều khoản không rõ ràng thì ñiều khoản ñó ñược giải thích theo hướng có lợi cho bên mua bảo hiểm), ngay cả trong trường hợp môi giới (là ñại diện của người ñược bảo hiểm) soạn thảo ñơn bảo hiểm ñể cho người bảo hiểm ký và ñóng dấu. Ngoài ra trong trường hợp người bảo hiểm có thể ủy quyền ký ñơn bảo hiểm cho người khác (ví dụ như Văn phòng ký ñơn bảo hiểm của Lloyd’s – LPSO) thì cũng không thể giải phóng người bảo hiểm khỏi trách nhiệm liên quan ñến việc hiểu ñúng ñơn bảo hiểm. Nếu xảy ra sự mập mờ trong ý nghĩa của ñơn bảo hiểm thì các tòa án thường hiểu hợp ñồng theo hướng có lợi cho người ñược bảo hiểm, mặc dù có ngoại lệ là khi tòa án cân nhắc theo hướng có lợi cho người bảo hiểm khi môi giới cố tình soạn thảo nội dung ñơn bảo hiểm một cách sai lệch.

ðể cố gắng hiểu ñúng các nội dung của ñơn bảo hiểm khi có sự mập mờ trong ý nghĩa gây bởi các câu chữ mâu thuẫn, các tòa án sử dụng “các nguyên tắc giải thích” (rules of interpretation), ñôi khi còn ñược gọi là “các qui tắc ưu tiên” (rules of precedence). Các qui tắc này tách các dạng nội dung ñơn bảo hiểm từ các ñiều khoản ñính kèm như sau:

Nội dung (Wording) – Các nội dung ñã ñược in sẵn ñược xem là nền tảng. Không có ưu tiên nào ñối với các kiểu chữ (in ñậm, nghiêng…) cũng như màu mực (thường thì màu mực ñỏ dùng ñể nhấn mạnh, nhưng theo luật Anh thì mực ñỏ không có giá trị khác biệt so với màu mực khác).

Nội dung ñánh máy sẽ chiếm ưu thế so với nội dung in sẵn. Một nội dung ñược người bảo hiểm viết tay sẽ chiếm ưu thế so với tất cả các nội dung khác.

ðiều khoản (Clausing) – Vào những ngày ñầu áp dụng ñơn bảo hiểm SG, rất hiếm khi sử dụng ñiều khoản bổ sung ñối với ñơn bảo hiểm. Người ñược bảo hiểm tạm bằng lòng với dịch vụ bảo hiểm ñược cung cấp theo mẫu cơ bản vì ngay cả khi họ thích thì người bảo hiểm cũng không sẵn lòng mở rộng bất kỳ ñiều kiện bảo hiểm nào. Trong suốt thời gian sử dụng mẫu ñơn bảo hiểm SG rất nhiều các ñiều khoản khác nhau ñã ñược bổ sung. Lúc ñầu các ñiều khoản này ñược ñưa thẳng vào chính nội dung của ñơn bảo hiểm, ví dụ như “bản kê” (memorandum) ñược ñưa vào năm 1849 và ñiều khoản “bãi miễn” (waiver) ñược ñưa vào năm 1874, ñiều khoản FC&S (loại trừ chiến tranh) vào năm 1898 cũng như ñiều khoản “bất thành” (frustration) vào năm 1919.

Tuy nhiên, sau ñó do có quy ñịnh rằng một ñiều khoản ở bên lề của ñơn bảo hiểm sẽ chiếm ưu thế so với nội dung của ñơn bảo hiểm nên các công ty bảo hiểm ñã in ñiều khoản FC&S lên lề của ñơn bảo hiểm. Ngược lại Lloyd’s vẫn tiếp tục in ñiều khoản này vào thân của ñơn bảo hiểm nhưng bằng kiểu chữ in nghiêng ñể nhấn mạnh. Dần dà, mọi người thấy rằng ñơn bảo hiểm

(5)

www.hanghaikythuat.edu.tf ðỗ Minh C ườ ng

không còn ñủ chỗ (bao gồm cả lề) ñể ñiền các ñiều khoản bổ sung, dẫn ñến một tập quán mới ñã ñược hình thành và phát triển, theo ñó mọi ñiều khoản sẽ ñược ñính kèm theo ñơn bảo hiểm. Do có quy ñịnh rằng một ñiều khoản ñính kèm theo ñơn bảo hiểm sẽ chiếm ưu thế so với một ñiều khoản ghi trên lề của ñơn bảo hiểm, nên sau ñó mọi người có thói quen ñính kèm mọi sửa ñổi theo ñơn bảo hiểm thay vì in sẵn lên ñơn bảo hiểm.

Vấn ñề về quyền ưu tiên của các ñiều khoản ñính kèm ñã thúc ñẩy Ủy ban Kỹ thuật và ðiều khoản nhắc lại loại trừ chiến tranh trong các bộ ñiều khoản của ILU, mặc dù loại trừ này ñã ñược thể hiện trong mẫu ñơn bảo hiểm SG. Trong các bộ ñiều khoản thân tàu sau này, có thể thấy rằng sự mập mờ có thể phát sinh từ chính các ñiều khoản. ðể ngăn ngừa khả năng này, các loại trừ ñã ñược trình bày phía dưới một “ñiều khoản tối cao” (paramount clause). ðiều khoản này quy ñịnh rằng các loại trừ sẽ chiếm ưu thế so với bất kỳ ñiều khoản nào khác mâu thuẫn với các loại trừ.

Một vấn ñề khác có thể xảy ra khi có sự mập mờ liên quan ñến các ñiều khoản bắt ñầu bằng thuật ngữ “ðược thoả thuận thêm…” (It is further agreed…). Cụm từ này tạo ra một ñiều kiện ñược thiết lập bởi chính các ñiều khoản này ñể trở thành một hợp ñồng phụ. Một ví dụ ñiển hình liên quan ñến việc khiếu nại ñòi bồi thường theo ñiều khoản ñâm va của thân tàu (running down clause), theo ñó ý ñịnh của người bảo hiểm là ñưa thêm ñiều khoản này vào ñơn bảo hiểm, nhưng họ lại có thể không chấp nhận việc áp dụng các loại trừ của ñơn bảo hiểm ñối với ñiều khoản này. Tất nhiên các tòa án sẽ cho rằng một loại trừ hay ñiều kiện bảo hiểm ñã ñược thể hiện ở ñâu ñó trong ñơn bảo hiểm sẽ không áp dụng cho các hợp ñồng phụ, trừ khi nội dung của loại trừ ñã quy ñịnh một cách rõ ràng như thế. ðây chính là lý do ñể cho các nhà bảo hiểm thân tàu ngày nay ñưa thêm ñiều khoản “tối cao” ñể quy ñịnh cho các loại trừ, và ñây cũng là lý do mà họ sử dụng ñiều khoản “mức khấu trừ” ñể quy ñịnh rõ rằng mức khấu trừ cũng sẽ ñược áp dụng ñối với các khiếu nại theo ñiều khoản ñâm va cũng như ñiều khoản tố tụng và hạn chế tổn thất (sue and labour clause)…

Mẫu ñơn bảo hiểm Hàng hải (MAR Form)

Nhiều năm sau khi ñược phát hành, mẫu ñơn bảo hiểm SG ñã bộc lộ nhiều khiếm khuyết và hạn chế, ñặc biệt là những người làm bảo hiểm chỉ chú trọng ñến các bảo hiểm ñược cung cấp bởi các ñiều khoản ñính kèm theo ñơn bảo hiểm, như lời của thẩm phán Buller vào năm 1791, ông cho rằng “ñơn bảo hiểm hàng hải (mẫu SG) khi ra tòa luôn ñược xem như một văn kiện ngớ ngẩn và rời rạc”. Tuyên bố này có thể là nguyên nhân cổ súy cho các nhà bảo hiểm vào thời ñó tìm cách cải tiến mẫu ñơn bảo hiểm này, nhưng cũng phải ñến giữa thế kỷ thứ 19 mới có một nỗ lực thực sự ñể biến mẫu ñơn SG thành một văn kiện chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, sự cố gắng này ñã bị thất bại do chỉ tập trung vào việc thay ñổi câu chữ của ñơn bảo hiểm theo các án lệ ñã ñược thiết lập trong một thời gian dài, từ ñó dẫn ñến việc giải quyết các tranh chấp sẽ kéo dài và tốn kém.

Dưới áp lực từ nhiều phía, vào năm những năm 70 của thế kỷ 20 vấn ñề sửa ñổi mẫu ñơn bảo hiểm một lần nữa lại ñược ñặt ra cho các ñại diện kỹ thuật của thị trường bảo hiểm hàng hải Luân ñôn. Một ủy ban ñược thành lập ñể thực hiện dự án này và họ ñã nhanh chóng nhận ra rằng nỗ lực ñể sửa ñổi mẫu ñơn bảo hiểm SG sẽ lại ñi vào vết xe ñổ của thất bại của các lần sửa ñổi trước. Do vậy ủy ban này ñã cố gắng thiết lập một kế hoạch mới là tuyệt ñối không sử dụng mẫu ñơn bảo hiểm SG của Lloyd’s cũng như các mẫu ñơn bảo hiểm S và G của các công ty bảo hiểm tại thị trường Luân ñôn nữa mà thay thế bằng một mẫu ñơn bảo hiểm rất ñơn giản trong ñó không có các ñiều kiện bảo hiểm. Tất nhiên, mặc dù bị chỉ trích rất nhiều nhưng cũng cần phải thừa nhận rằng một số ñiều kiện của mẫu ñơn SG cần ñược giữ lại vì vẫn có thể áp dụng vào trong các hợp ñồng bảo hiểm hàng hải hiện ñại. Ví dụ như các ñiều khoản về một số hiểm họa bổ sung, ñiều khoản bãi miễn, tố tụng và hạn chế tổn thất… ðiều này chứng tỏ các ñiều khoản tiêu chuẩn sử dụng ñể ñính kèm theo ñơn bảo hiểm cần ñược sửa ñổi cho phù hợp với mục ñích sử dụng cho mẫu ñơn mới.

(6)

www.hanghaikythuat.edu.tf ðỗ Minh C ườ ng

Cách tiếp cận mới này đã tạo ra một sự khác biệt hồn tồn và dẫn đến việc ra đời mẫu đơn bảo hiểm MAR đính kèm theo các điều khoản bảo hiểm đã được sửa đổi. Các bộ điều khoản bảo hiểm hàng hĩa tiêu chuẩn đã được tái thiết kế và phát hành vào ngày 01/01/1982; vào thời điểm này việc sử dụng mẫu đơn bảo hiểm MAR là bắt buộc tại thị trường Luân đơn đối với mọi dịch vụ bảo hiểm hàng hĩa phát sinh mới, mặc dù cĩ một số ngoại lệ cho thời gian quá độ đến tháng 4/1983. Việc sửa đổi các bộ điều khoản bảo hiểm thân tàu tiêu chuẩn gần hai năm sau mới được thực hiện, do vậy mẫu đơn MAR khơng bị bắt buộc phải sử dụng với các dịch vụ bảo hiểm thân tàu phát sinh mới cho đến ngày 01/10/1983 khi bộ điều khoản bảo hiểm thân tàu của ILU được phát hành. Cĩ một điểm thú vị là những người làm bảo hiểm thân tàu khơng áp dụng bất kỳ miễn trừ nào cho thời gian quá độ.

Mẫu đơn bảo hiểm này thường được gọi tắt là MAR Form vì các ký tự này xuất hiện trên mẫu đơn bảo hiểm của Lloyd’s. Trong thực tế đơn bảo hiểm phát hành bởi ILU khơng sử dụng tên tắt này mà chỉ được gọi một cách đơn giản là đơn bảo hiểm “hàng hải”. Mẫu giấy nhận bảo hiểm (slip) tiêu chuẩn của mơi giới sử dụng tại thị trường Luân đơn đối với các giấy nhận bảo hiểm để ký (signing slip) đều cĩ một ơ trống để điền loại mẫu đơn bảo hiểm được áp dụng cho hợp đồng bảo hiểm. Mơi giới bảo hiểm sẽ điền tên tắt MAR vào ơ trống này nếu sử dụng mẫu đơn bảo hiểm hàng hải mới bất kể rủi ro được nhận tại Lloyd’s hay tại các cơng ty bảo hiểm của ILU.

Mẫu đơn MAR là một chứng từ đơn giản cĩ thể được sử dụng cho mọi loại hợp đồng bảo hiểm hàng hải. Các dịch vụ bảo hiểm thân tàu hoặc hàng hĩa đều cĩ thể sử dụng chung một định dạng của đơn bảo hiểm. Mẫu đơn của Lloyd’s bao gồm một “điều khoản giám định” và điều khoản này cĩ hiệu lực khi mẫu đơn này được áp dụng cho bảo hiểm hàng hĩa. ðiều khoản này quy định rằng khi phát hiện tổn thất hay tổn hại thì phải thơng báo ngay lập tức cho đại lý của Lloyd’s tại cảng hay địa điểm xảy ra tổn thất để đại lý tiến hành giám định hàng hĩa và cấp biên bản giám định. Trong mẫu đơn bảo hiểm của ILU khơng cĩ điều khoản giám định nhưng thơng thường đơn bảo hiểm hàng hĩa sẽ được đính kèm với một điều khoản tương tự.

Mẫu đơn bảo hiểm MAR của Lloyd’s cịn bao gồm một yêu cầu đối với người được bảo hiểm là họ phải đọc đơn bảo hiểm ngay khi nhận để xác định tính chính xác, và nếu đơn bảo hiểm khơng chính xác thì họ phải trả lại cho người phát hành đơn để hiệu chỉnh. Người phát hành đơn bảo hiểm trong trường hợp này là mơi giới của Lloyd’s, người đã soạn thảo đơn bảo hiểm. Quy định này làm giảm bớt trách nhiệm của người bảo hiểm trong việc ngăn ngừa sự mập mờ trong nội dung đơn bảo hiểm, tuy nhiên quy định này lại khơng xuất hiện trong mẫu đơn bảo hiểm của ILU.

Mẫu đơn MAR được sử dụng chung cho cả Lloyd’s và ILU được thiết kế như một đơn bảo hiểm

“kết hợp”. Cĩ thể nĩi rằng đơn bảo hiểm này đã kết hợp các bảo đảm của tất cả các nhà bảo hiểm tham gia nhận bảo hiểm và thể hiện trên một giấy nhận bảo hiểm duy nhất của cùng một chứng từ đơn bảo hiểm. Các mức nhận bảo hiểm của các nhà bảo hiểm tư nhân được biểu thị bằng một “bảng nhận bảo hiểm” (signing table) và là chứng từ đầu tiên trong bộ hồ sơ chứng từ đơn bảo hiểm được sắp xếp bởi văn phịng ký đơn bảo hiểm. Qui trình này được áp dụng tương tự cho Văn phịng ký đơn bảo hiểm của Lloyd’s lẫn Văn phịng ký đơn bảo hiểm của ILU.

Trong mọi trường hợp, khi thực hiện một đơn bảo hiểm kết hợp sẽ khơng ảnh hưởng đến quyền của người được bảo hiểm trong việc khởi kiện một cá nhân hay một cơng ty tham gia nhận bảo hiểm. Mặc dù những người bảo hiểm khác cĩ tên trên bảng nhận bảo hiểm đều dính líu đến một mức nhận bảo hiểm trong tồn bộ số tiền bảo hiểm theo đơn bảo hiểm, nhưng mỗi mức nhận bảo hiểm (của mỗi người bảo hiểm), theo luật, đều được xem là một hợp đồng bảo hiểm riêng biệt. Nguyên lý tương tự cũng được áp dụng cho các mức nhận bảo hiểm được phân bổ cho các nghiệp đồn trong đơn bảo hiểm Lloyd’s. Mức nhận bảo hiểm được chia theo tỷ lệ cho các “tên”

(name) trong nghiệp đồn và mỗi tên được xem là tham gia vào một hợp đồng bảo hiểm riêng biệt.

(7)

www.hanghaikythuat.edu.tf ðỗ Minh C ườ ng

Trong nhiều năm Cơng ty Lloyd’s đã phát hành một danh sách số hiệu của các nghiệp đồn mỗi năm. Mỗi số hiệu nghiệp đồn trong danh sách được biểu thị bằng các “tên” cá nhân, là những người tạo nên nghiệp đồn, với tỷ lệ nhận bảo hiểm tương ứng. Danh sách này được in trên một tờ giấy to, và mơi giới trước khi trình đơn bảo hiểm cho Văn phịng ký đơn bảo hiểm Lloyd’s phải gắn danh sách này vào phía trên bộ chứng từ đơn bảo hiểm. Bảng nhận bảo hiểm được Văn phịng ký đơn bảo hiểm Lloyd’s đính vào bộ chứng từ đơn bảo hiểm sẽ tham chiếu danh sách nghiệp đồn để thể hiện trách nhiệm của mỗi “tên” của các nghiệp đồn mà số hiệu của các nghiệp đồn này được ghi trong bảng nhận bảo hiểm. Tập quán cung cấp danh sách các nghiệp đồn in sẵn đã khơng được sử dụng trong nhiều năm qua, do vậy ngày nay khơng cịn thấy danh sách này đính kèm theo đơn bảo hiểm nữa. Trong bộ chứng từ đơn bảo hiểm của Lloyd’s hiện nay bảng nhận bảo hiểm vẫn tham chiếu danh sách chính thức các tên trong nghiệp đồn, nhưng để kiểm tra các trách nhiệm cá nhân, người được bảo hiểm hoặc đại diện của họ phải yêu cầu Văn phịng ký đơn bảo hiểm Lloyd’s kiểm tra danh sách. Sau khi kiểm tra, Văn phịng ký đơn bảo hiểm Lloyd’s sẽ cung cấp một bảng kê theo bảng nhận bảo hiểm để đính kèm theo mẫu đơn bảo hiểm MAR.

Khơng cĩ một chuẩn mực nào về việc sử dụng loại đơn bảo hiểm nào đối với các cơng ty bảo hiểm khơng phải là thành viên của ILU. Theo lý thuyết thì khi luật pháp khơng quy định việc sử dụng mẫu đơn bảo hiểm (các cơng ty bảo hiểm của Anh khơng bị pháp luật ràng buộc) thì một cơng ty bảo hiểm cĩ thể sử dụng bất kỳ mẫu đơn bảo hiểm nào để làm bằng chứng cho hợp đồng bảo hiểm mà họ đã ký kết. Như đã nĩi ở trên, các cơng ty thành viên của ILU bị bắt buộc theo tập quán phải sử dụng mẫu đơn bảo hiểm MAR của ILU. Trong mọi trường hợp, khi một cơng ty tham gia nhận bảo hiểm đối với một rủi ro mà một phần của rủi ro đĩ đã được bảo hiểm tại Lloyd’s hoặc các cơng ty thành viên của ILU, thì cơng ty đĩ phải sử dụng cùng một mẫu đơn bảo hiểm với các cơng ty của ILU hoặc các nghiệp đồn của Lloyd’s để đảm bảo tính tương thích của các đơn bảo hiểm. Thêm vào đĩ, khi một cơng ty nhận bảo hiểm theo thị trường Luân đơn sử dụng các bộ điều khoản tiêu chuẩn của ILU thì phải sử dụng mẫu đơn bảo hiểm mà các bộ điều khoản này đã được thiết kế để đính kèm theo. Theo nguyên tắc này rất nhiều các cơng ty bảo hiểm ngồi thị trường Luân đơn đã sáng chế ra các mẫu đơn bảo hiểm của riêng mình theo định dạng của mẫu đơn bảo hiểm MAR của thị trường Luân đơn. Từ đĩ phát sinh ra một cơng việc rất quan trọng đối với các mơi giới là phải kiểm tra các đơn bảo hiểm nhận từ các cơng ty này để đảm bảo khơng cĩ sự khác biệt lớn về bảo hiểm khi rủi ro được bảo hiểm cả ở trong và ngồi thị trường bảo hiểm Luân đơn.

Trong mọi trường hợp, các điều khoản bảo hiểm cũ của ILU (sử dụng với mẫu đơn SG) khơng thể đính kèm với mẫu đơn bảo hiểm MAR. Nếu làm như vậy đơn bảo hiểm sẽ tự động bỏ qua việc bảo hiểm các hiểm họa đã được quy định trong mẫu đơn bảo hiểm SG trừ trường hợp đơn bảo hiểm “mọi rủi ro”. Ví dụ việc đính kèm bộ điều khoản bảo hiểm hàng hĩa miễn tổn thất riêng (FPA) vào mẫu đơn MAR đã loại “các hiểm họa của biển” ra khỏi đơn bảo hiểm… Hay đối với bảo hiểm thân tàu, khi đính kèm bộ điều khoản ITC 1970 vào mẫu đơn bảo hiểm MAR sẽ dẫn đến kết qủa là mọi hiểm họa thơng thường được bảo hiểm bị loại ra khỏi đơn bảo hiểm ngoại trừ điều khoản Inchmaree (bất cẩn của thuyền viên).

Khơng giống như mẫu đơn bảo hiểm SG của Lloyd’s, mẫu đơn bảo hiểm MAR của Lloyd’s khơng bao gồm hĩa đơn thu phí bảo hiểm. Trước đây các nhà bảo hiểm Lloyd’s đều dựa vào mơi giới để thu phí bảo hiểm theo quy định của ðiều 53 trong MIA 1906. Các cơng ty bảo hiểm đã khơng cịn áp dụng tập quán này nữa và trên đơn bảo hiểm của mình ILU đã tuyên bố rằng bảo hiểm chỉ được cung cấp trên cơ sở người được bảo hiểm đã thanh tốn phí bảo hiểm quy định trên đơn. Ngày nay cả mẫu đơn bảo hiểm MAR của Lloyd’s lẫn ILU đều quy định chỉ nhận bảo hiểm

“để đổi lại việc thanh tốn” (in consideration of the payment) phí bảo hiểm cho người bảo hiểm, theo đĩ người bảo hiểm sẽ khơng bị ràng buộc phải tơn trọng cam kết của họ theo đơn bảo hiểm khi họ khơng nhận được phí bảo hiểm phải trả; nguyên tắc này thậm chí cịn áp dụng khi người được bảo hiểm đã trả phí cho mơi giới nhưng mơi giới chưa thanh tốn cho người bảo hiểm.

(8)

www.hanghaikythuat.edu.tf ðỗ Minh C ườ ng

ðể ñược công nhận là hợp lệ, cả hai mẫu ñơn bảo hiểm MAR của Lloyd’s và ILU ñều phải ñược ñóng dấu của người bảo hiểm và có chữ ký của ñại diện có ñủ thẩm quyền ñể ký các ñơn bảo hiểm ñó. Theo thoả thuận giữa Lloyd’s và ILU, cả hai mẫu ñơn bảo hiểm MAR ñều bao gồm một bản kê (schedule) có cùng ñịnh dạng. Bản kê này liệt kê một loạt các hạng mục ñi kèm các khoảng trống tương ứng. Khi chuẩn bị mẫu ñơn bảo hiểm ñể trình cho người có thẩm quyền ký phát, môi giới phải nhập các thông tin thích hợp vào bản kê. Các thông tin này dùng ñể xác ñịnh rủi ro và phạm vi mà các nhà bảo hiểm tham gia nhận bảo hiểm phải chịu trách nhiệm. Dưới ñây là một số phân tích liên quan ñến các hạng mục trong bảng kê của mẫu ñơn bảo hiểm MAR:

Số ñơn bảo hiểm (Policy Number) – Vì cả hai văn phòng ký ñơn bảo hiểm của Lloyd’s và ILU ñều biểu thị số chứng từ ñược ký và ngày ký trên Bảng nhận bảo hiểm nên mục này luôn ñược bỏ trống; hoặc môi giới có thể ñiền số tham chiếu riêng của họ ñể quản lý.

Tên Người ñược bảo hiểm (Name of Assured) – Mặc dù phần lớn nội dung của ðiều 23 trong MIA 1906 ñã bị Luật Tài chính (Finance Act) 1959 bãi bỏ, nhưng phần còn lại không bị bãi bỏ vẫn yêu cầu tên của người ñược bảo hiểm hay ñại diện của họ phải ñược ghi rõ trong ñơn bảo hiểm và hạng mục này ñã tuân thủ theo quy ñịnh của MIA 1906.

Tàu (Vessel) – ðối với bảo hiểm thân tàu thì sẽ ñiền tên của con tàu ñược bảo hiểm. ðối với rủi ro ñóng tàu, thông tin này hầu như ñược cung cấp bởi một ñiều khoản ñính kèm, do vậy môi giới sẽ ñiền chữ “như ñính kèm” (as attached) vào bảng kê của ñơn bảo hiểm. ðối với ñơn bảo hiểm ñội tàu (fleet policy) thường thì danh sách ñội tàu sẽ ñược ñính kèm theo ñơn bảo hiểm và chỉ thể hiện tên của con tàu ñầu tiên trong danh sách trên bảng kê và dòng chữ “và/hoặc như ñính kèm” (and/or as attached). ðối với bảo hiểm hàng hóa, ô trống ñược dùng ñể ñiền tên con tàu chở hàng. Ngày nay ñộ chính xác của mục này mang tính quyết ñịnh. Khi ñiền sai tên con tàu chở hàng trong một ñơn bảo hiểm SG thì người chuẩn bị ñơn bảo hiểm vẫn ñược bảo vệ bởi một ñiều khoản “sai sót và bất cẩn” (errors and omissions) trong bộ ñiều khoản bảo hiểm hàng hóa ICC (1963), tuy nhiên Bộ ñiều khoản ICC (1982) không có ñiều khoản “sai sót và bất cẩn” nên môi giới và người ñược bảo hiểm sẽ không còn ñược bảo vệ nữa. Cũng phải nhớ rằng ñể sử dụng các tàu chuyên chở thay thế khác trong quá trình vận chuyển cần ñưa thêm quy ñịnh này vào bảng kê, ví dụ như “tàu và/hoặc các tàu” (steamer and/or steamers).

ðối tượng bảo hiểm (Subject Matter Insured) – Mặc dù một phần của ðiều 23 trong MIA 1906 liên quan ñến tên của ñối tượng bảo hiểm ñã bị bãi bỏ bởi Luật Tài chính 1959 nhưng ðiều 26 của MIA 1906 không bị bãi bỏ. ðiều này quy ñịnh rằng ñối tượng bảo hiểm phải ñược xác ñịnh trong ñơn bảo hiểm một cách chắc chắn và thích hợp. Mặc dù thông tin về ñối tượng bảo hiểm không cần phải quá chi tiết như ñối với một con tàu trong ñơn bảo hiểm SG nhưng cũng phải ñủ ñể xác ñịnh một cách chính xác ý ñịnh của các bên liên quan cũng như ñối tượng dự ñịnh bảo hiểm. Ví dụ như “Thân vỏ và máy móc…” thông thường ñược xem như ñủ ñể xác ñịnh một bảo hiểm áp dụng cho bản thân con tàu. ðối với hàng hóa thì số lượng, trong lượng, thể tích… của lô hàng sẽ ñược ghi vào mục này, cũng như các ký hiệu nhận biết trên bao bì ñể có thể mô tả thêm về hàng hóa ñược bảo hiểm.

Giá trị bảo hiểm (Insured Value), nếu có – Mục này sẽ nghiên cứu kỹ hơn ở phần cuối của bài này liên quan ñến các ñơn bảo hiểm ñịnh giá và không ñịnh giá, tuy nhiên cần lưu ý ñến cụm từ

“nếu có” ñược dùng ñể nói ñến bảo hiểm ñối với các quyền lợi khác không phải là con tàu và hàng hóa (nghĩa là bảo hiểm trách nhiệm). ðối với trường hợp bảo hiểm cho con tàu và hàng hóa thông tin về giá trị bảo hiểm là thông tin sống còn của ñơn bảo hiểm. Giá trị “bảo hiểm” là giá trị ñược thoả thuận của ñối tượng bảo hiểm chứ không phải là một phần của giá trị ñó ñược bảo hiểm theo một ñơn bảo hiểm cụ thể.

Số tiền bảo hiểm dưới ñây (Amount Insured Hereunder) – ðây là tổng số mức nhận bảo hiểm ñược thể hiện trong bảng nhận bảo hiểm gắn vào phía trên của ñơn bảo hiểm và ñã ñược chuyển ñổi từ tỷ lệ phần trăm sang dạng tiền tệ. Ví dụ khi một rủi ro có giá trị 100.000 Bảng Anh

(9)

www.hanghaikythuat.edu.tf ðỗ Minh C ườ ng

ñược bảo hiểm 50% tại Lloyd’s thì bảng kê trong ñơn bảo hiểm MAR của Lloyd’s thể hiện số tiền bảo hiểm là 50.000 Bảng Anh.

Cần phải lưu ý ñến “ñiều khoản quyền tài phán” (jurisdiction clause). Mặc dù theo tập quán thường thì một ñiều khoản về quyền tài phán của nước ngoài ñược ñưa vào ñơn bảo hiểm SG theo yêu cầu của người ñược bảo hiểm, nhưng không có một quyền tài phán cụ thể nào thực sự ñược in vào mẫu ñơn bảo hiểm SG vì người ta giả thiết rằng người ñược bảo hiểm sẽ thực hiện vụ kiện tại nước mà ñơn bảo hiểm ñược phát hành. Thực tế, có thể tin rằng bằng việc ñiền một vài chữ ñể thể hiện là ñơn bảo hiểm ñã ñược phát hành tại Luân ñôn thì việc áp dụng quyền tài phán của nước Anh là ñiều ñương nhiên, cũng tương tự cho việc phát hành ñơn bảo hiểm tại một ñịa ñiểm của các nước khác thì quyền tài phán mặc nhiên sẽ là của các nước ñó.

Mẫu ñơn MAR ñược sử dụng tại thị trường Luân ñôn có một ñiều khoản quy ñịnh rằng “bảo hiểm chi phối bởi quyền tài phán của nước Anh”. Mục ñích của ñiều khoản này là ñể quy ñịnh trong trường hợp xảy ra tranh chấp, ñơn bảo hiểm sẽ ñược ñệ trình cho một tòa án ñể phân xử theo quyền tài phán của Anh và việc phân xử của một tòa án ngoài quyền tài phán của Anh sẽ không ñược các nhà bảo hiểm chấp nhận. Việc áp dụng ñiều khoản này không phải là bắt buộc và người bảo hiểm có toàn quyền ñể áp dụng một ñiều khoản thay thế khác vào ñơn bảo hiểm theo yêu cầu của người ñược bảo hiểm. Trong trường hợp này nếu thêm vào ñơn bảo hiểm một ñiều khoản quyền tài phán “nước ngoài” thì cần phải xóa ñiều khoản quyền tài phán Anh ñể tránh nhầm lẫn. ðiều khoản quyền tài phán Anh không ñược xóa nếu các nhà bảo hiểm không ñồng ý với ñiều khoản về quyền tài phán thay thế. Khi thay thế ñiều khoản quyền tài phán, cần phải cẩn thận ñể không xóa ñiều khoản “luật và tập quán Anh” (English law and practice) trong các bộ ñiều khoản bảo hiểm thân tàu và hàng hóa tiêu chuẩn. Mục ñích của việc áp dụng ñiều khoản này là ñể ñảm bảo rằng tòa án nước ngoài sẽ phân xử vụ việc theo luật và tập quán Anh bất kể sự khác biệt của luật và tập quán của quốc gia có quyền tài phán.

Khi một công ty bảo hiểm có trụ sở bên ngoài quyền tài phán Anh cấp ñơn bảo hiểm của riêng họ, gần như không có ñiều khoản quyền tài phán ñược quy ñịnh trong ñơn bảo hiểm; hoặc một ñiều khoản tương tự như thế sẽ ñược ñưa vào ñể quy ñịnh việc áp dụng quyền tài phán của nước mà ñơn bảo hiểm ñược cấp. Trong mọi trường hợp các ñơn bảo hiểm ñó ñều phải tuân theo các Bộ ñiều khoản của ILU ñính kèm theo ñơn bảo hiểm và như vậy có nghĩa là vẫn bị chi phối bởi ñiều khoản về luật và tập quán Anh quy ñịnh trong các bộ ñiều khoản này. Hơn ai hết, các môi giới phải rất hiểu biết về các ñiều khoản mâu thuẫn khi bảo hiểm ñược chia xẻ cho các nhà bảo hiểm trong các thị trường bị chi phối bởi các quyền tài phán khác nhau.

Các mẫu ñơn bảo hiểm J và J(A)

Thực tế mẫu ñơn bảo hiểm J là một mẫu ñơn bảo hiểm phi hàng hải, nó là một mẫu ñơn bảo hiểm ñơn giản tương tự như mẫu ñơn bảo hiểm MAR, ñược sử dụng trong nhiều năm thay thế cho mẫu ñơn bảo hiểm SG ñể bảo hiểm các rủi ro của hàng hóa trong thị trường bảo hiểm hàng hải nhưng các rủi ro này lại không liên quan gì ñến các dịch vụ hàng hải. Ví dụ như mẫu ñơn bảo hiểm này có thể ñược sử dụng ñối với hàng hóa vận chuyển trên bộ, hay ñối với các rủi ro trong quá trình lưu kho. Một ñặc ñiểm nổi bật của mẫu ñơn J là bao gồm ñiều khoản “loại trừ chiến tranh và nội chiến”. ðây là một ñặc ñiểm quan trọng ñể bảo ñảm rằng các nhà bảo hiểm hàng hải không cố ý nhận bảo hiểm ñối với rủi ro chiến tranh trên bộ.

Mẫu ñơn bảo hiểm J(A) ñược giới thiệu vào những năm 50 ñể áp dụng cho các dịch vụ bảo hiểm trong thị trường bảo hiểm hàng hải khi ñơn bảo hiểm SG không còn phù hợp và khi không cần ñiều khoản loại trừ chiến tranh nữa. Khi một mẫu ñơn bảo hiểm J(A) ñược sử dụng trong các trường hợp có thể có vi phạm ñối với “thoả thuận về rủi ro chiến tranh dưới nước” – war risks waterborn agreement (thoả thuận này quy ñịnh rằng các rủi ro chiến tranh có thể bảo hiểm ñược chỉ khi ñối tượng bảo hiểm ñang ở dưới nước) thì văn phòng ký ñơn bảo hiểm sẽ từ chối ñơn

(10)

www.hanghaikythuat.edu.tf ðỗ Minh C ườ ng

bảo hiểm J(A) trong việc ñính kèm ñiều khoản loại trừ chiến tranh và nội chiến; ngay cả khi các nhà bảo hiểm có thể chấp nhận việc sử dụng mẫu ñơn bảo hiểm này.

Không bao giờ ñược sử dụng các mẫu ñơn bảo hiểm J và J(A) ñối với việc bảo hiểm hàng hóa theo các bộ ñiều khoản bảo hiểm hàng hóa của ILU dự kiến ñính kèm với mẫu ñơn bảo hiểm SG (tức là các bộ ñiều khoản “mọi rủi ro”, FPA và “Với tổn thất riêng” – WA). Mỗi một bộ ñiều khoản này ñều dựa vào nội dung của mẫu ñơn bảo hiểm SG ñể tạo nên toàn bộ phạm vi bảo hiểm. Do vậy các bảo hiểm này sẽ không hoàn chỉnh nếu không sử dụng mẫu ñơn bảo hiểm SG như một bộ phận cấu thành của hợp ñồng bảo hiểm.

Với sự ra mắt của mẫu ñơn bảo hiểm MAR, có thể thấy nhu cầu sử dụng mẫu ñơn bảo hiểm J(A) không còn nữa. Tuy nhiên mẫu ñơn bảo hiểm J vẫn có thể tiếp tục ñược sử dụng do ñiều khoản loại trừ chiến tranh của nó.

ðơn bảo hiểm ñịnh giá và ñơn bảo hiểm không ñịnh giá

ðiều 27 của MIA 1906 quy ñịnh rằng một ñơn bảo hiểm có thể là “ñịnh giá” (valued policy) hoặc

“không ñịnh giá” (unvalued policy). ðơn bảo hiểm ñịnh giá là ñơn bảo hiểm ấn ñịnh giá trị của ñối tượng bảo hiểm. Giá trị ñược ấn ñịnh trên ñơn bảo hiểm không nhất thiết phải là số tiền bảo hiểm. Ví dụ một chủ tàu có một con tàu với giá trị thị trường là 5 triệu Bảng Anh nhưng có thể chỉ bảo hiểm con tàu với số tiền 4 triệu Bảng. Trong trường hợp này chủ tàu là người ñược bảo hiểm dưới giá trị (underinsured) và việc bảo hiểm như thế ñược phản ánh trong ñơn bảo hiểm thông qua giá trị bảo hiểm là 5 triệu Bảng và số tiền bảo hiểm là 4 triệu bảng.

Trong khi ñó ðiều 228 (2) (c) và (e) của LHH 2005 quy ñịnh về ñơn bảo hiểm ñịnh giá và không ñịnh giá như sau:

“ðơn bảo hiểm ñịnh giá là ñơn bảo hiểm trong ñó người bảo hiểm ñồng ý trước giá trị của ñối tượng bảo hiểm ghi trong ñơn bảo hiểm, phù hợp với giá trị ñược bảo hiểm và ñược sử dụng khi giải quyết bồi thường tổn thất toàn bộ hoặc bồi thường tổn thất bộ phận”.

“ðơn bảo hiểm không ñịnh giá là ñơn bảo hiểm không ghi giá trị của ñối tượng bảo hiểm, nhưng số tiền bảo hiểm phải ghi rõ trong ñơn bảo hiểm”.

ðể biểu thị giá trị bảo hiểm trên một ñơn bảo hiểm thì chữ “giá trị” (value) phải xuất hiện trên ñơn bảo hiểm. Nếu không có chữ này trên ñơn bảo hiểm thì ñơn bảo hiểm là ñơn bảo hiểm không ñịnh giá bất kể có số tiền bảo hiểm ñối với giá trị của tài sản ñược bảo hiểm hay không. Trong ñơn bảo hiểm hàng hóa SG có thể thấy số tiền bảo hiểm và giá trị ñược thể hiện dưới dạng

“£100,000 on merchandise so value”. Trong ñơn bảo hiểm thân tàu và máy móc SG thuật ngữ

“valued at…” ñược sử dụng ñể biểu thị một ñơn bảo hiểm ñịnh giá. Bản kê (Schedule) của ñơn bảo hiểm MAR có một khoảng trống ñể ñiền giá trị bảo hiểm và một khoảng trống khác ñể ñiền số tiền bảo hiểm. Tầm quan trọng của giá trị bảo hiểm ñược minh họa trong ví dụ dưới ñây.

ðiều 16 của MIA 1906 quy ñịnh cách thức ñể xác ñịnh giá trị của một con tàu khi ñơn bảo hiểm thân tàu không thể hiện giá trị bảo hiểm của con tàu. Ví dụ trong trường hợp này giá trị của con tàu theo quy ñịnh của MIA 1906 là 60 triệu USD và người ñược bảo hiểm thực hiện một ñơn bảo hiểm với số tiền bảo hiểm 70 triệu USD nhưng không có thoả thuận với người bảo hiểm về số tiền bảo hiểm ñó, ñơn bảo hiểm không ñịnh giá ñã ñược cấp cho người bảo hiểm với số tiền bảo hiểm là 70 triệu USD.

Trong thời hạn bảo hiểm con tàu ñã bị tổn thất toàn bộ bởi một hiểm họa ñược bảo hiểm, và người ñược bảo hiểm ñã khiếu nại ñòi bồi thường số tiền 70 triệu USD. Tuy nhiên, do ñây là một ñơn bảo hiểm không ñịnh giá, do vậy người bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm ñến 60 triệu USD

(11)

www.hanghaikythuat.edu.tf ðỗ Minh C ườ ng

(theo cách thức xác ñịnh giá trị của ðiều 16 MIA 1906), ñây chính là giá trị “có thể bảo hiểm”

(insurable value). Giá trị có thể bảo hiểm này không bị ảnh hưởng bởi việc người ñược bảo hiểm ñã nộp phí trên cơ sở số tiền bảo hiểm là 60 hay 70 triệu USD.

Lý do của sự khác biệt giữa luật và thực tiễn xuất phát từ nguyên tắc “bồi thường” (xin tham khảo các bài trước), theo ñó luật pháp cố gắng ñưa người ñược bảo hiểm trở lại vị trí tài chính của họ vào thời ñiểm xảy ra tổn thất. Trong ví dụ này, vì giá trị có thể bảo hiểm (giá trị thực sự mà người ñược bảo hiểm có thể có ñược từ ñối tượng bảo hiểm) chỉ là 60 triệu USD do vậy luật pháp quy ñịnh họ chỉ có thể ñược bồi thường tối ña ñến số tiền này. Nếu trong trường hợp này một ñơn bảo hiểm ñịnh giá ñược cấp ra với giá trị bảo hiểm là 70 triệu USD thì giá trị bảo hiểm này sẽ chiếm ưu thế với nguyên tắc bồi thường và nguyên tắc này sẽ không ñược áp dụng, có nghĩa là người ñược bảo hiểm sẽ nhận ñược toàn bộ số tiền bảo hiểm 70 triệu USD.

LHH 2005 cũng có các quy ñịnh trong ðiều 232 về việc xác ñịnh giá trị bảo hiểm tương tự như ðiều 16 của MIA 1906. Tuy nhiên giá trị bảo hiểm của tàu biển theo LHH 2005 không bao gồm các chi phí ñiều hành (disbursements) như trong MIA 1906.

Cần lưu ý rằng, trừ trường hợp thay ñổi giá trị tăng thêm (increased value) theo yêu cầu của người ñược bảo hiểm, các giá trị cấu thành thân tàu có xu hướng ổn ñịnh từ năm này sang năm khác, ñặc biệt trong thời hạn bảo hiểm 12 tháng liên tục của một ñơn bảo hiểm, bất kể việc khấu hao trong nhiều năm sẽ ảnh hưởng ñến giá trị thị trường của con tàu.

Người ta có thể cho rằng việc giảm giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm khi tái tục bảo hiểm sẽ tiết kiệm ñược phí bảo hiểm, vì phí bảo hiểm ñược tính theo một tỷ lệ phần trăm trên số tiền bảo hiểm. Tuy nhiên, không phải như vậy, phí bảo hiểm hàng năm của một con tàu ñược tính toán dựa trên sự kết hợp giữa tỷ lệ phí bảo hiểm ñối với tổn thất toàn bộ và tỷ lệ phí bảo hiểm dùng ñể trang trải các chi phí sửa chữa. Theo lý thuyết thì hàng năm người bảo hiểm sẽ tăng tỷ lệ phí về sửa chữa ñể có thể ñáp ứng ñược sự gia tăng các chi phí sửa chữa phát sinh từ tuổi tàu.

Mức tăng này tất yếu phải áp dụng nếu giá trị bảo hiểm ñược hạ giảm vào thời ñiểm tái tục nhằm mục ñích không ñể người ñược bảo hiểm kiếm lợi từ việc giảm giá trị bảo hiểm. Chính vì thế, trừ trường hợp tăng phí ñể bù ñắp cho tỷ lệ tổn thất quá cao, cả giá trị bảo hiểm và tỷ lệ phí bảo hiểm sẽ ñược giữ nguyên không ñổi khi tái tục cho ñến khi giá trị này thực sự không còn hợp lý nữa. Tập quán này ñược áp dụng cả ở thị trường Việt nam lẫn thị trường bảo hiểm thế giới.

ðối với bảo hiểm hàng hóa, việc bồi thường cũng hoàn toàn dựa trên tổn thất thực tế mà người ñược bảo hiểm phải gánh chịu vào thời ñiểm xảy ra tổn thất. ðiều 16 của MIA 1906 quy ñịnh phương pháp ñược sử dụng ñể xác ñịnh giá trị của hàng hóa phải hứng chịu rủi ro theo nguyên lý “bồi thường”. Trong khi người bán hàng có thể gộp giá bán của hàng hóa cộng phí bảo hiểm, cộng cước phí vận chuyển và cả một tỷ lệ lãi kinh doanh vào số tiền bảo hiểm; thì MIA 1906 lại không thừa nhận “lãi kinh doanh” như một thành phần của nguyên tắc bồi thường. Bằng việc thực hiện một ñơn bảo hiểm ñịnh giá người ñược bảo hiểm có thể gộp lãi kinh doanh của họ vào giá trị bảo hiểm cũng như số tiền bảo hiểm. Trong khi ñó ðiều 232 (3) của LHH 2005 lại cho phép ñưa lãi kinh doanh vào giá trị có thể bảo hiểm của hàng hóa.

Trong thực tiễn, người bảo hiểm rất tin tưởng vào sự trung thực của người ñược bảo hiểm trong việc khai báo chính xác giá trị bảo hiểm. Khi người ñược bảo hiểm và môi giới của họ bị phát hiện cố tình lừa ñảo, MIA 1906 chắc chắn sẽ bãi miễn trách nhiệm của người bảo hiểm ñối với số tiền bảo hiểm trên ñơn bảo hiểm. Tuy nhiên, khi không có sự lừa ñảo thì người bảo hiểm chỉ có duy nhất một biện pháp liên quan ñến việc bảo hiểm trên giá ñể bảo vệ mình bằng cách từ chối hợp ñồng bảo hiểm dựa trên cơ sở người ñược bảo hiểm ñã vi phạm nguyên tắc trung thực tuyệt ñối khi cố tình khai báo sai (Xin tham khảo các bài viết trước). Trường hợp này là ñặc thù ñối với bảo hiểm hàng hóa vì có thể cho rằng người bảo hiểm hầu như không thể biết rõ về giá trị của hàng hóa như người ñược bảo hiểm. Trong khi ñối với bảo hiểm tàu thì người bảo hiểm ñược cho là phải biết về giá trị con tàu tương ñương với người ñược bảo hiểm nếu không muốn

(12)

www.hanghaikythuat.edu.tf ðỗ Minh C ườ ng

nói là hơn, do vậy việc ñưa ra biện hộ dựa trên nguyên tắc trung thực tuyệt ñối của người bảo hiểm ñối với các khiếu nại về bảo hiểm thân tàu là không hiệu quả.

ðơn bảo hiểm giá trị gia tăng (Increased value policy)

ðơn bảo hiểm “giá trị gia tăng” là một ñơn bảo hiểm ñược thực hiện như một bảo hiểm bổ sung cho một ñơn bảo hiểm “chính”. ðơn bảo hiểm chính bảo hiểm cho giá trị bảo hiểm của ñối tượng bảo hiểm và ñơn bảo hiểm giá trị gia tăng bảo hiểm cho phần tăng thêm của giá trị ñó trong thời hạn bảo hiểm của ñơn bảo hiểm chính. Khi phần giá trị tăng thêm ñó thực sự xảy ra thì sự tồn tại của quyền lợi bảo hiểm (insurable interest) phải ñược chứng minh như một phạm vi của quyền lợi ñó. Tuy nhiên, ñơn bảo hiểm giá trị gia tăng chỉ ñược thực hiện thông qua dự kiến về sự gia tăng của giá trị bảo hiểm nên rất khó ñể xác ñịnh mà nếu có thì cùng không thể chứng minh vào thời ñiểm xảy ra tổn thất.

Ví dụ trong trường hợp một số lô hàng sẽ ñược bán tại thị trường tự do khi về ñến cảng ñích ñược chỉ ñịnh trên ñơn bảo hiểm. Một nhà phân phối ñã mua một lô hàng trong khi lô hàng ñó vẫn ñang trên ñường vận chuyển ñể dự ñịnh chào bán hàng tại thị trường ở cảng ñích. Nhà phân phối này ñã mua lại ñơn bảo hiểm như một phần của hợp ñồng mua hàng và ñơn bảo hiểm này ñã ñược người bán chuyển nhượng lại cho họ. Mặc dù họ có một quyền lợi bảo hiểm ñối với lợi nhuận trong số tiền mà họ sẽ thu ñược khi bán hàng tại cảng ñích nhưng ñơn bảo hiểm mà họ ñược chuyển nhượng lại không bảo hiểm cho quyền lợi này. Chính vì thế mà người mua ñã phải thực hiện một ñơn bảo hiểm giá trị gia tăng cho phần lợi nhuận mà họ dự kiến sẽ có ñược sau khi bán hàng. Vì họ rất khó khăn trong việc chứng minh quyền lợi của mình theo ñơn bảo hiểm giá trị gia tăng (ví dụ như thông qua giá thị trường của hàng hóa tại cảng ñích) vào thời ñiểm hàng hóa bị tổn thất, do vậy họ phải thực hiện ñơn bảo hiểm ñó trên nguyên tắc một ñơn bảo hiểm bằng chứng của quyền lợi (policy proof of interest – PPI) sẽ ñược nói ñến ở phần dưới ñây.

Một ñiều khoản “giá trị gia tăng” ñã ñược ñưa vào các bộ ñiều khoản bảo hiểm hàng hóa của ILU. ðiều khoản này quy ñịnh rằng giá trị trong ñơn bảo hiểm chính và giá trị trong ñơn bảo hiểm giá trị gia tăng phải ñược cộng lại thành một giá trị toàn bộ (total value) ñể áp dụng chung cho từng ñơn bảo hiểm. ðiều này có nghĩa là hai ñơn bảo hiểm (chính và giá trị gia tăng) trở thành ñồng bảo hiểm (co-insurance) và số tiền bảo hiểm bởi mỗi ñơn bảo hiểm ñược xem là một phần của giá trị toàn bộ. ðồng thời, các khoản bồi thường (claim) cũng như khoản ñòi bồi hoàn (recovery) cũng phải ñược phân bổ cho mỗi ñơn bảo hiểm theo tỷ lệ tương ứng.

Trong thực tiễn bảo hiểm thân tàu, thuật ngữ “ñơn bảo hiểm giá trị gia tăng” ñược dùng một cách tương ñối ñể chỉ các ñơn bảo hiểm ñược thực hiện bổ sung cho ñơn bảo hiểm thân tàu và máy móc (H&M) ñối với các quyền lợi phụ khác về thân tàu như chi phí ñiều hành (disbursement), cước phí dự kiến (anticipated freight)… Tuy nhiên, ñối với bảo hiểm thân tàu, cần nhấn mạnh rằng các nhà bảo hiểm luôn kiểm soát chặt việc thực hiện các ñơn bảo hiểm giá trị gia tăng kèm theo ñơn bảo hiểm H&M của người ñược bảo hiểm. Việc kiểm soát này ñược thực hiện thông qua một ñoan kết rõ ràng trên ñơn bảo hiểm H&M theo ñó giới hạn số tiền bảo hiểm bởi các ñơn bảo hiểm giá trị gia tăng theo một tỷ lệ phần trăm của giá trị bảo hiểm ñã ñược xác ñịnh trên ñơn bảo hiểm thân tàu chính (ñối với bộ ñiều khoản bảo hiểm thân tàu của ILU thì tỷ lệ này là 25%).

Vi phạm ñối với ñoan kết này trong thực tiễn sẽ không ñược bãi miễn và người bảo hiểm sẽ ñược giải phóng toàn bộ trách nhiệm kể từ ngày xảy ra vi phạm ñoan kết.

ðơn bảo hiểm thay ñổi (Floating Policy)

Khi MIA 1906 ñược ban hành ñã có một mẫu bảo hiểm bao áp dụng ñối với hàng hóa. Tuy nhiên, không giống như hệ thống bảo hiểm bao ngày nay, loại bảo hiểm này dựa vào một loại ñơn bảo hiểm chính tắc. ðơn bảo hiểm này ñược gọi là “ñơn bảo hiểm thay ñổi” (floating policy) và ñược ñịnh nghĩa trong ðiều 29 của MIA 1906. Mục ñích của ñơn bảo hiểm này là ñể cung cấp cho người ñược bảo hiểm một bảo ñảm chính thức có sẵn cho các chuyến hàng trong tương lai với

(13)

www.hanghaikythuat.edu.tf ðỗ Minh C ườ ng

một mức phí cố ñịnh ñược cam kết cho tất cả các khai báo ñối với các chuyến hàng theo ñơn bảo hiểm. ðiều kiện ñể cấp ñơn bảo hiểm thay ñổi này là người ñược bảo hiểm phải khai báo tất cả các chuyến hàng thuộc phạm vi của ñơn bảo hiểm và ngược lại người bảo hiểm cũng có trách nhiệm chấp nhận mọi khai báo lên ñến một mức giới hạn cho từng tàu ñã ñược quy ñịnh trong ñơn bảo hiểm. Các khai báo của người ñược bảo hiểm phải trên cơ sở trung thực, nhưng một khai báo sai do bất cẩn phải ñược sửa lại ngay cả trong trường hợp phát hiện ra sai sót sau khi ñã xảy ra tổn thất hoặc hàng ñã về ñến cảng ñích.

Không có gii hn v thi gian trong các ñơn bảo hiểm thay ñổi. Thời hiệu của ñơn bảo hiểm này phụ thuộc vào số lượng và ñộ lớn của các khai báo. ðơn bảo hiểm này có một số tiền bảo hiểm cố ñịnh và ñược hạ giảm theo từng khai báo của các chuyến hàng cho ñến khi hết. Tất nhiên, trừ khi người ñược bảo hiểm và môi giới của họ thường xuyên kiểm soát việc thực hiện ñơn bảo hiểm này, luôn có một mối nguy hiểm ñối với các chuyến hàng khi chúng có thể phải hứng chịu rủi ro mà không ñược bảo hiểm bởi ñơn bảo hiểm bao ñã cấp do các khai báo ñã vượt quá số tiền bảo hiểm của ñơn. Chính vì mối ñe dọa này mà môi giới ñã phải tìm kiếm hệ thống

“bảo hiểm bao” (open cover) mới như ngày nay ñể thay thế cho hệ thống ñơn bảo hiểm thay ñổi.

Thực tế các ñơn bảo hiểm thay ñổi ñã không còn ñược sử dụng tại thị trường Luân ñôn kể từ năm 1970 và hệ thống bảo hiểm bao ñã ñược dùng ñể thay thế một cách triệt ñể.

LHH 2005 (từ ðiều 237 ñến 239) có các quy ñịnh khá chi tiết về bảo hiểm bao, hiện hành chứ không phải dạng ñơn bảo hiểm thay ñổi. ðiểm khác biệt lớn nhất giữa hai loại ñơn bảo hiểm này chính là thời hiệu bảo hiểm. ðiều 237 của LHH 2005 ñịnh nghĩa bảo hiểm bao là “loại bảo hiểm trọn gói, ñược áp dụng ñối với ñối tượng bảo hiểm là một loại hàng hoá hoặc một số hàng hoá mà người ñược bảo hiểm gửi ñi hoặc nhận ñược trong mt thi hn nht ñnh”.

Ở một số thị trường ngoài Luân ñôn vẫn có thể còn thấy hệ thống bảo hiểm thay ñổi ñược sử dụng bởi một số công ty bảo hiểm. Phần lớn tập quán này vẫn tiếp tục liên quan ñến các khu vực không sử dụng môi giới, theo ñó các công ty bảo hiểm làm việc trực tiếp với người ñược bảo hiểm. Thông thường trong các trường hợp này người bảo hiểm chỉ phải tuân theo các cam kết ngắn hạn ñối với loại hình bảo hiểm này cộng với việc thu phần lớn phí bảo hiểm thông qua phí ñặt cọc vào thời ñiểm bắt ñầu bảo hiểm. Trong mọi trường hợp, ñơn bảo hiểm thay ñổi cung cấp cho người ñược bảo hiểm hàng hóa một cam kết chính thức rộng hơn từ người bảo hiểm so với một ñơn bảo hiểm bao.

ðơn bảo hiểm bằng chứng của quyền lợi (PPI policy)

Theo quy ñịnh của MIA 1906 cũng như LHH 2005, người ñược bảo hiểm không chỉ phải có một quyền lợi bảo hiểm vào thời ñiểm xảy ra tổn thất mà họ còn phải chứng minh quyền lợi ñó tồn tại vào thời ñiểm xảy ra tổn thất khi họ khiếu nại ñòi bồi thường người bảo hiểm.

Trong thực tiễn, có thể thấy rằng có một số quyền lợi có thể bảo hiểm tồn tại nhưng người ñược bảo hiểm sẽ rất khó khăn ñể chứng minh ñó là quyền lợi có thể bảo hiểm của họ, hoặc ngay cả khi họ có thể chứng minh sự tồn tại của nó thì họ còn khó khăn hơn khi phải chứng minh phạm vi của quyền lợi ñó. Trong những trường hợp ñó người bảo hiểm có thể nhận bảo hiểm cho người ñược bảo hiểm nhưng bãi miễn trách nhiệm của người ñược bảo hiểm phải chứng minh quyền lợi bảo hiểm khi khiếu nại ñòi bồi thường. ðơn bảo hiểm ñược thực hiện theo nguyên tắc này ñược gọi là ñơn bảo hiểm PPI viết tắt của chữ “ñơn bảo hiểm bằng chứng của quyền lợi” (policy proof of interest).

Luật pháp Anh không thừa nhận một hợp ñồng dựa trên một ñơn bảo hiểm PPI theo ñó luật không phân biệt sự khác nhau giữa một ñơn bảo hiểm có quy ñịnh miễn việc chứng minh quyền lợi bảo hiểm và một ñơn bảo hiểm không tồn tại quyền lợi bảo hiểm. Do vậy theo luật pháp Anh thì cả hai loại ñơn bảo hiểm này ñều vô hiệu.

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Mục đích của nghiên cứu này là nghiên cứu sự ảnh hưởng của các nhân tố Thương hiệu, Phí bảo hiểm, Quyền lợi, Dịch vụ, Nhân viên tư vấn, Động cơ mua đến quyết

Đề nghị Bảo hiểm xã hội Việt Nam trao đổi, thống nhất với Bộ Y tế trước khi ra các văn bản thông báo, hướng dẫn các nội dung liên quan đến chuyên môn, để tránh

Trần Nguyễn Trường Sơn (2014), Nghiên ứu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua bảo hiểm vật chất xe ô tô của khách hàng tại Công ty Bảo Việt Quảng Trị, Luận văn

Nhân viên phòng kinh doanh 1, 2, 3 và phòng nghiệp vụ thị trường đang làm việc tại công ty bảo hiểm PJICO chi nhánh thành phố Huế để biết được các yếu

Công tác CSKH cần phải được thực hiện ở cả 3 giai đoạn trên nhưng nội dung và phương thức thực hiện thì thay đổi theo từng giai đoạn.Đầu tiên, ở giai đoạn trước

Sự phối hợp chưa chặt chẽ giữa công ty bảo hiểm và ngân hàng: Hình thức liên doanh luôn có những khó khăn nhất định, đặc biệt là trong việc đạt được những thỏa thuận chung về mục

Tính đến thời điểm hiện tại thì Chính phủ Philippines vẫn cho hai nhóm i cung ứng dịch vụ BHVM chính thức: Công ty bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ, các Hội tương hỗ, các nhà cung ứng

Theo kết quả báo cáo đánh giá ba năm thực thi Luật bảo hiểm y tế 2010 – 2012 và nghiên cứu tại vùng ven đô Hà Nội cho thấy 31% bệnh nhân có BHYT đi khám chữa bệnh mà không biết sẽ được