• Không có kết quả nào được tìm thấy

PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

1.3. Doanh nghiệp dệt may

Dệt may không chỉ đóng vai trò quan trọng trong đời sống của con người mà còn đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Dệt may là ngành có năng lực cạnh tranh cao trong quá trình hội nhập thương mại quốc tế, là ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam những năm qua.

Hiện nay Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu dệt may đứng đầu thế giới.

Trong khoảng 5 năm trở lại đây ngành dệt may liên tục có kim ngạch xuất khảu lớn thứ 2 cả nước với giá trị xuất khẩu đóng góp 15% trong GDP. Năm 2016, kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam đạt 26,7 tỷ USD. Dự báo trong ngắn hạn và trung hạn ngành dệt may nước ta sẽ tiếp tục có tốc độ triển mạnh mẽ. Nguyên nhân là do các dự án đầu tư trong và ngoài nước khá lớn đầu tư vào các khâu như kéo sợi, dệt vải, dệt kim, nhuộm, và may thành phẩm. Các dự án này được triển khai để nắm bắt cơ hội do các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam tham gia như Hiệp định đối tác toàn diện

Đại học kinh tế Huế

và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mạ tự do (FTA), Cộng đồng kinh tế ASEAN (ACE) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc.

1.3.1. Đặc điểm của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam

 Đặc điểm về số lượng và quy mô doanh nghiệp

Tính đến năm 2015, số lượng doanh nghiệp dệt may đang hoạt động là 8.770 doanh nghiệp chiếm khoảng 2% tổng các doanh nghiệp cả nước. Trong đó có khoảng 30 doanh nghiệp với quy mô lớn hơn 5000 người. Các doanh nghiệp hoạt động trong ngành dệt may hầu hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Doanh nghiệp có quy mô dưới 50 người chiếm hơn 78,6%, quy mô từ 50 người đến dưới 300 người chiếm 15,1%, quy mô từ 300 đến dưới 1000 người chiếm 4,6%, quy mô từ 1000 người trở lên chiếm 1,7%. (Nguồn: Tổng Cục thống kê 2015).

 Đặc điểm về vốn – công nghệ kỹ thuật

Vốn đầu tư vào sản xuất hàng dệt may thấp hơn so với vốn đàu tư vào các ngành công nghiệp khác. Nhà xưởng sản xuất không yêu cầu kỹ thuật cao, máy móc thiết bị không đòi hỏi chi phí lớn. Đặc biệt với ngành may, suất đầu tư tương đối thấp, chỉ khoảng 0,6 – 0,65 triệu USD trên 1 triệu sản phẩm. Bên cạnh đó vốn đầu tư ngành may mặc có thể quay vòng nhanh do chu kỳ sản xuất ngắn, có thể đạt 4 -5 vòng một năm. Nếu chỉ thuần túy gia công thì vốn đầu tư còn thấp hơn nữa và vốn quay vòng cũng khá nhanh.

Các doanh nghiệp dệt may nước ta có nguồn vốn cả nhà nước, tư nhân và cả vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Trong đó vốn đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong sự phát triển của cả ngành. Tính đến năm 2012 đã có gần 1.390 dự án FDI đầu tư vào dệt may Việt Nam với số vốn đăng ký 6,12 tỷ USD. Từ năm 2013 đến 2017 có tổng số 228 dự án đầu tư vào ngành dệt may trong đó có 5 dự án liên doanh với tổng số vốn đăng kí là 192 triệu USD, và 223 dự án có vốn đầu tư 100% nước ngoài với số vốn đăng kí là 4, 789 tỷ USD.

 Đặc điểm về lao động

Cũng theo Tổng Cục Thống kê thì năm 2015, có khoảng 1,6 triệu lao động làm việc trong ngành dệt may, chiếm hơn 12% lao động khu vực công nghiệp và gần 5%

Đại học kinh tế Huế

tổng lực lượng lao động cả nước. Thu nhập của người lao động trong ngành chưa cao khi mà thu nhập trung bình của lao động trong lĩnh vực dệt là 5,6 triệu đồng/người/tháng, lĩnh vực may là 5,0 triệu đồng/người/tháng, thấp hơn mức trung bình của các ngành kinh tế là 6,3 triệu đồng/người/tháng.

Lao động ngành dệt may hiện nay tập trung chủ yếu trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước, sau đó là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hai loại hình doanh nghiệp này hiện đang thu hút đến 97% lao động toàn ngành dệt may. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là khu vực thu hút được nhiều lao động nhất với số doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng 7,9% trong tổng số doanh nghiệp ngành dệt may Việt Nam nhưng lại chiếm 41,54% tổng số lao động trong ngành này. Trong khi đó doanh nghiệp ngoài nhà nước có số lượng áp đảo với 91,7% tổng số doanh nghiệp nhưng chỉ thu hút được 55,54% tổng số lao động. Đây là điều có thể lí giải được khi mà các doanh nghiệp ngoài nhà nước hầu hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong khi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có nguồn vốn dồi dào nên quy mô sẽ lớn hơn thu hút được nhiều lao động hơn.

Do đặc điểm ngành sản xuất nên lao động trong các doanh nghiệp dệt may phần lớn là lao động nữ với khoảng 80%, trình độ văn hóa của người lao động chủ yếu là đã tốt nghiệp tiểu học, trung học cơ sở hoặc trung học phổ thông. Đa số tuổi đời các lao động trực tiếp còn trẻ, tỷ lệ chưa có gia đình cao là lợi thế cho việc đào tạo và nâng cao năng suất lao động. Hiện nay công nhân làm việc trong các doanh nghiệp dệt may, nhất là các doanh nghiệp nhỏ lẻ, các cơ sở tư nhân phải làm việc trong thời gian dài, tăng ca, tăng giờ làm thường xuyên, phải làm việc đến tối muộn dẫn đến suy kiệt sức khỏe và không có thời gian mở rộng các mối quan hệ.

Nguồn lao động của ngành dệt may hiện nay chủ yếu là lao động chưa qua đào tạo, vì vậy doanh nghiệp phải mất nhiều thời gian cho công tác đào tạo. Để phát triển nguồn lao động có tay nghề thì nhiều cơ sở đào tạo đã được mở ra nhưng vẫn chưa thể đáp ứng kịp nhu cầu đào tạo. Trong khi đó các doanh nghiệp dệt may đang có xu hướng chỉ tuyển chọn người lao động đã có tay nghề.

Về năng suất lao động, lao động của Việt Nam được đánh giá là có năng suất thấp hơn so với khu vực. Cùng một ca làm việc, năng suất lao động bình quân của một lao

Đại học kinh tế Huế

động Việt Nam đạt 12 áo sơ mi ngắn tay hoặc 10 quần cụt, lao động Hồng Kông là 30 áo hoặc 15 – 20 quần cụt.

 Đặc điểm về hoạt động sản xuất kinh doanh

Dệt may là ngành sản xuất khá đặc thù và thường kéo dài trên nhiều công đoạn, mỗi công đoạn lại có quy trình sản xuất riêng, phức tạp và có nhiều quy trình sản xuất con. Do đó các doanh nghiệp hoạt động trong ngành đa phần chỉ tập trung sản xuất trên một hoặc một vài công đoạn là chủ yếu. Tại Việt Nam, các doanh nghiệp hoạt động chủ yếu theo hình thức gia công

Sản phẩm của các công ty dệt may có yêu cầu rất phong phú, đa dạng tùy thuộc vào từng đối tượng tiêu dùng. Do dó để tiêu thụ tốt sản phẩm các doanh nghiệp dệt may cần nắm vững nhu cầu của từng nhóm người tiêu dùng tùy theo văn hóa, tôn giáo, tuổi tác, giới tính, phong tục tập quán, khu vực địa lí, khí hậu,…

Sản phẩm dệt may mang tính thời trang cao, cần thường xuyên thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc, chất liệu để đáp ứng nhu cầu thích đổi mới, độc đáo và gây ấn tượng của người tiêu dùng. Do đó đòi hỏi các doanh nghiệp trong ngành dệt may phải linh hoạt, nhạy bén và am hiểu các xu hướng thời trang để bắt kịp xu hướng, không bị lạc hậu.

Dệt may là ngành mang tính mùa vụ. Từ tháng 4 các doanh nghiệp Dệt May bắt đầu vào vụ cao điểm sản xuất. Các hợp đồng sản xuất hàng hóa được chia theo hai mùa rõ rệt: đơn hàng mùa đông sản xuất từ tháng 4 đến tháng 9, và đơn hàng hè thu từ tháng 11 đến tháng 1. Ngoài thời gian này, các doanh nghiệp dệt may khá nhàn rỗi với khối lượng công việc chỉ bằng 60% các tháng còn lại.

Một đặc thù khác của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam là nguyên phụ liệu phụ thuộc phần lớn vào nguyên liệu nhập khẩu, công nghệ được nâng cao nhưng còn lạc hậu so với thế giới, lợi nhuận thu được thấp, xuất khẩu qua trung gian dưới hình thức gia công chứ chưa tiếp cận được đến người dùng cuối, các giao dịch phụ thuộc nhiều vào ý kiến của khách hàng.

 Đặc điểm về thị trường

- Thị trường và phương thức xuất khẩu chính

Đại học kinh tế Huế

Các thị trường xuất khẩu chính của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam là Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc và chủ yếu là hàng may mặc. Đây là những thị trường cao cấp và khó tính với nhiều yêu cầu khắt khe cả về chất lượng sản phẩm cũng như điều kiện lao động,… Ngoài ra, các doanh nghiệp còn mở thêm được các thị trường xuất khẩu mới như Angola, Thái Lan, Nga với mức tăng trưởng 30 – 60%/năm. Đặc biệt phải kể đến đó là hàng dệt may Việt Nam đã xuất khẩu được vào thị trường khủng lồ Trung Quốc, Ấn Độ, Brazin. Đây là một thành quả rất đáng ghi nhận của các doanh nghiệp Việt khi mà kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc đạt tới 260 tỷ USD/năm.

Theo số liệu thống kê năm 2015, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu ở công đoạn sản xuất chủ yếu theo phương thức gia công xuất khẩu chiếm 65 – 70%, FOB chiếm 30% và ODM chiếm 5%. Đối với phương thức gia công xuất khẩu, các doanh nghiệp chỉ thực hiện việc cắt may, dựng và hoàn tất với nguyên vật liệu và thu mua hàng hóa sau sản xuất do bên đặt hàng thực hiện nên giá trị gia tăng thấp. Thông thường đơn giá gia công CTM là 25% giá trị xuất khẩu và lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp gia công chỉ đạt 1 – 3% đơn giá gia công. Với đơn hàng FOB, các doanh nghiệp chịu trách nhiệm nhập khẩu nguyên vật liệu và sản xuất đơn hàng, doanh nghiệp được hưởng khoảng 30% giá trị xuất khẩu và lợi nhuận sau thuế đạt khoảng 3 – 5%. Đối với đơn hàng ODM, các doanh nghiệp chịu trách nhiệm cả khâu thiết kế, lợi nhuận sau thuế đạt 5 – 7%. Như vậy với kim ngạch xuất khẩu. Như vậy, xét về quy mô xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may là rất lớn nhưng thực chát các doanh nghiệp Việt Nam chỉ được hưởng lợi rất thấp. Nếu các doanh nghiệp trong ngành có thể thay đổi phương thức sản xuất theo hướng nâng cao tỉ lệ giá trị gia tăng và được hỗ trợ tích cực hơn từ phía nhà nước, ngành dệt may Việt Nam sẽ có thể bức phá và trở thành cường quốc trong lĩnh vực này. (Bùi Văn Tốt, 2017)

- Thị trường nhập khẩu chính

Mặc dù tăng trưởng vượt bậc về xuất khẩu với vị trí thứ 4 thế giới về xuất khẩu hàng dệt may nhưng theo trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại Bộ Công Thương (VITIC), ngành dệt may của nước ta chỉ chủ động được khoảng 50% nguyên phụ liệu trong nước, phần còn lại phải nhập khẩu, trong đó nhập từ Trung Quốc chiếm

Đại học kinh tế Huế

tới 48%. Đặc biệt nhiều doanh nghiệp ngành dệt may phải nhập toàn bộ nguồn nguyên phụ liệu từ Trung Quốc. Cụ thể, năm 2015 Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc với 232.83 triệu USD, chiếm 35,4% trong tổng kim ngạch nhập khẩu; tiếp theo là Hàn Quốc với 104,07 triệu USD chiếm 15,8%; Đài Loan với 64,27 triệu USD chiếm 9,8%;

Mỹ với 40,83 triệu USD chiếm 6,2% và một số thị trường khác.

1.3.2. Vai trò của các doanh nghiệp dệt may

Các doanh nghiệp dệt may thường ra đời gắn với giai đoạn phát triển ban đầu của nền kinh tế và đóng vai trò chủ đạo trong quá trình công nghiệp hóa ở nhiều nước. Ở Việt Nam, dệt may được xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn. Doanh nghiệp ngành dệt may có khả năng tạo nhiều việc làm cho người lao động, tăng thu lợi nhuận để tích lũy làm tiền đề phát triển cho các ngành công nghiệp khác, góp phần nâng cao mức sống và ổn định xã hội. Sự phát triển của các doanh nghiệp dệt may có liên quan chặt chẽ tới sự phát triển của các ngành công nghiệp khác. Khi trở thành ngành công nghiệp hàng đầu của nền kinh tế, các doanh nghiệp dệt may cần một khối lượng lớn các nguyên liệu là sản phẩm của các lĩnh vực khác và vì vậy tạo điều kiện đầu tư và phát triển các ngành kinh tế này.

Trong điều kiện buôn bán quốc tế, doanh nghiệp dệt may có vai trò đặc biệt to lớn.

Xuất khẩu dệt may thu được nguồn ngoại tệ lớn để mua máy móc thiết bị hiện đại hóa sản xuất, làm cơ sở cho nền kinh tế cất cánh. Điều này thể hiện rõ trong lịch sử phát triển kinh tế của các nước như Anh, Nhật, NICs, Trung Quốc, Nam Á và Đông Nam Á. Ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, dệt may đang góp phần phát triển nông nghiệp và nông thôn thông qua tăng trưởng sản xuất bông, đay, tơ tằm và là phương tiện để dịch chuyển cơ cấu kinh tế từ nền kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.

1.4. Các nghiên cứu có liên quan và mô hình nghiên cứu đề xuất