• Không có kết quả nào được tìm thấy

Thực trạng về chương trình đào tạo nguồn nhân lực của các doanh

2.2. Thực trạng nguồn nhân lực tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong

2.2.2. Thực trạng về chương trình đào tạo nguồn nhân lực của các doanh

2.2.2. Thực trạng về chương trình đào tạo nguồn nhân lực của các doanh

trìnhđộ giảng viên, số lượng giảng viên và điều kiện giảng dạy của đại học Quảng Bình vốn không thể đáp ứng nổi việc đào tạo, giảng dạy đúng với chuẩn khung chương trìnhđào tạo này.

(Xem Phụ lục số 2, bảng 2.4. Khung chương trình đào tạo trình độ đại học ngành Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành đại học Quảng Bình)

Như vậy, thực trạng chung về chương trìnhđào tại nguồn nhân lực du lịch cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Quảng Bình chỉ có 1 trường đại học đào tạo chuyên ngành du lịch và các trường đại học và cao đẳng, trung cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp có chương trình đào tạo ngành học du lịch chưa cósự thống nhất cơ cácchương trình khungđào tạo; hệ đào tạo nghề du lịch, khiến cho hệ thống đào tạo nhân lực du lịch toàn tỉnh đang tồn tại nhiều hệ thống trên chuẩn khác nhau: Hệ thống trên chuẩn nghề quốc gia có 8 nghề thuộc nhóm du lịch, do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành, Hệ thống trên chuẩn kỹ năng nghề du lịch VTOS gồm 10 nghề do dự án EU hỗ trợ xây dựng, hệ thống trên chuẩn kỹ năng nghề ASEAN gồm 6 nghề đãđược bộ trưởng các nước ASEAN ký cam kết thực hiện.

Việc tồn tại cùng lúc nhiều hệ thống trên chuẩn như vậy cũng gây khó khăn cho việc quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước, cũng như lúng túng cho các doanh nghiệp sử dụng nhân lực du lịch, trong đó có cácdoanh nghiệp nhỏ và vừa.

Bất cập trong chương trình đào tạo:

Theo thống kê của Vụ Đào tạo (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), tính đến năm 2016, cả nước nói chung, kể cả các cơ sở đào tạo tại Quảng Bìnhcó 156 cơ sở đào tạo du lịch, trong đó có: 48 trường đại học; 43 trường cao đẳng và cao đẳng nghề. Tuy nhiên, chương trình đào tạo du lịch đến nay vẫn chưa được thống nhất.

TS Mai Hà Phương, Trưởng Khoa Du lịch, Trường đại học Văn hóa TP Hồ Chí Minh chỉ ra tình trạng kết cấu khung chương trình đào tạo giữa các cơ sở rất khác nhau về tỷ lệ giữa khối kiến thức đại cương và chuyên ngành. Có cơ sở quá thiên về trang bị kỹ năng mà không quan tâm đến trau dồi kiến thức nền, do đó chỉ tạo đội ngũ “thợ” chứ không thể tạo ra những người quản lý giỏi. Ngược lại, có cơ sở tỷ lệ dạy thực hành rất thấp, dẫn đến kỹ năng nghề của sinh viên yếu kém.

Trường Đại học Kinh tế Huế

Thêm nữa, còn thiếu hệ thống giáo trình cốt lõi; tài liệu tham khảo khá phong phú nhưng chất lượng hạn chế. Trong khi đó, không thể sử dụng giáo trình nước ngoài để giảng dạy chính thức vì nội dung, tên môn học, hệ số tín chỉ… có sự khác biệt lớn, nhiều lĩnh vực lại chưa phù hợp điều kiện phát triển và đặc điểm của nước ta. Thời gian qua, các trường đào tạo nhân lực du lịch cũng gặp nhiều khó khăn khi có tới ba bộ tiêu chuẩn nghề du lịch cùng tồn tại. Đó là bộ tiêu chuẩn do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành với tám nghề; bộ tiêu chuẩn nghề du lịch Việt Nam (VTOS) do Dự án EU hỗ trợ thực hiện với mười nghề; và bộ tiêu chuẩn nghề tham khảo của ASEAN với sáu nghề. Sự không nhất quán trong chương trình, nội dung đào tạo khiến chất lượng nguồn nhân lực du lịch ở các cơ sở đào tạo rất khác nhau. Đây cũng là lý do khiến các doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp nhỏ và vừa lúng túng khi căn cứ vào bằng cấp để tuyển nhân sự.

Ngoài ra, vấn đề “đầu ra” với các sinh viên, học sinh khi theo học tại các cơ sở đào tạo du lịch cũng chưa được bảo đảm, dẫn tới sức hút đối với người có năng lực tốt theo học chưa nhiều. Ngay từ khâu tuyển sinh, sinh viên đã thiếu sự tư vấn về nghề, dẫn đến thiếu định hướng, lựa chọn công việc không phù hợp năng lực bản thân. Hầu hết các cơ sở đào tạo chưa có chiến lược liên kết với các doanh nghiệp du lịch, cho nên dẫn đến tình trạng trường đào tạo một đằng, doanh nghiệp sử dụng cần một nẻo. Doanh nghiệp là bộ phận bảo đảm đầu ra chủ yếu cho sinh viên nhưng mối quan hệ giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp du lịch hiện nay vẫn chưa rõ ràng về lợi ích, dẫn đến việc phần lớn doanh nghiệp kết hợp với cơ sở đào tạo mang tính chất quan hệ cá nhân…

Với thực trạng công tác đào tạo nhân lực du lịch hiện nay, nguồn nhân lực du lịch tại Quảng Bình vẫn còn khoảng cách khá xa về chất lượng so với yêu cầu của doanh nghiệp và xã hội, trong đó các doanh nghiệp nhỏ và vừa vốn cần bổ sung nguồn lao động chiếm 65% lượng lao động toàn tỉnh. Nhất là trong bối cảnh Việt Nam gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN, đây sẽ là thách thức đối với lao động du lịch Việt Nam nói chung và lao động du lịch tại các doanh nghiệp tỉnh Quảng Bình nói riêng nếu không có trình độ, chất lượng tương đồng. Do đó, ít nhất là để không bị thua ngay trên sân nhà, ngành du lịch cần nhanh chóng có những giải pháp, chiến lược bài bản trong chương trìnhđào tạo nguồn nhân lực.

Trường Đại học Kinh tế Huế

2.2.3. Thực trạng việc sử dụng nhân lực của các doanh nghiệp nhỏ và vừa