• Không có kết quả nào được tìm thấy

Đánh giá chung về công tác kiểm tra thuế các DN VVN tại Chi cục thuế Quảng

PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KIỂM TRA THUẾ ĐỐI VỚI DOANH

2.4. Đánh giá chung về công tác kiểm tra thuế các DN VVN tại Chi cục thuế Quảng

Về đánh giá về công tác kiểm tra thuế các DN của Chi cục thuế Quảng Điền thì các DN VVN đánh giákhá cao. Có đến 10% ý kiến đánh giá ở mức “hoàn toàn đồngý” và 54% ý kiến đánh giá mức “đồngý”.Đối với câu hỏi “Công tác kiểm tra thuế các DN của Chi cục thuế Quảng Điền đảm bảo” có 24% ý kiến đánh giá mức

“hoàn toàn đồng ý” và 54% đánh giá ở mức “đồng ý”. Điều đó chứng tỏ công tác kiểm tra thuế hiện nay củaChi cục thuế được đa sốDN VVNđánhgiá cao.

Qua phân tích bảng2.9 và bảng 2.10 cho thấy được sựtương đồng giữa các ý kiến đánh giá của CBCC Chi cục thuếQuảng Điền đối vớiý kiến đánh giá của các DN VVN trong công tác kiểm tra thuế. Có một vài ý kiến đánh giá “đồng ý một phần” của các DN VVN, tuy nhiênđa sốcác ý kiến đánhgiáở mức độ “đồng ý”và

“hoàn toàn đồng ý” chiếm đa số. Qua đó, cũng cho thấy được sự đánh giá khách quan giữa cán bộ thuế và người nộp thuế. Để từ đó có những giải pháp, phương pháp kiểmtra hiệu quả hơn cũng như tránh làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN VVN. Tiến tới mục tiêu mà ngành thuế đặt ra là ”Cơ quan thuếvà ngườinộp thuế là bạn đồng hành”. Tránh những ảnh hưởng mang tính tiêu cực do kiểmtra thuếtạo ra. Đặt ra mục tiêu kiểm tra thuếgiúp cho người nộp thuế thực hiện tốt các chính sách pháp luật và nâng cao ý thức, trách nhiệm của người nộp thuế. Không nặng nề về số truy thu hay phạt thuế sau kiểm tra. Mặt khác, đối với Chi cục thuế Quảng Điền nói chung và Đội Kiểm tra thuế nói riêng cần có những biện pháp hiệu quả để nâng cao chất lượng kiểm tra thuế, phục vụ tốt cho nhiệm vụ tăng cường số thu cho ngân sách nhà nước. Đảm bảo các đối tượng nộp thuế chấp hành tốt theo quy định của pháp luật và nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ đốivớiNhànước.

2.4. Đánh giá chung về công tác kiểm tra thuế các DN VVN tại Chi cục thuế

Luật quản lý thuế còn lúng túng, hiệu quả của các cuộc kiểm tra thuế còn hạn chế.

Số lượng doanh nghiệp được kiểm tra hàng nămchỉ mang tính tương đối trong lúc đó tỷ lệ các doanh nghiệp không tuân thủ pháp luật thuế, sai phạm trong quá trình kê khai, nộp thuế, có hành vi gian lận thuế rất lớn. Những doanh nghiệp qua kiểm tra phát hiện gian lận thuế, Chi cục thuế mới chỉ dừng lại ở mức độ truy thu số tiền thuế khai thiếu, xử phạt hành vi chậm nộp tiền thuế.

Hàng năm, Chi cục thuế đã lựa chọn những doanh nghiệp có rủi ro cao trong kê khai thuế để tiến hành kiểm tra tại trụ sở của doanh nghiệp. Đội kiểm tra thuế đã nghiên cứu lựa chọn kỹ nội dung cần kiểm tra, phân loại doanh nghiệp theo khối lượng nghiệp vụ kinh tế phát sinh để bố trí thời gian để tiến hành kiểm tra hợp lý, đảm bảo hoàn thành công tác kiểm tra nhưng không gây ảnh hưởng đến hoạt động SXKD của doanh nghiệp.

- Công tác kiểm tra việc kê khai thuế:

Công tác kiểm tra việc kê khai thuế mặc dù đã được chú trọng nhưng việc kiểm tra,kiểm soát chất lượng kê khai thuế còn nhiều bất cập do thiếu lực lượng, thiếu thông tin để đánh giá, chưa đối chiếu thực tế để có biện pháp ngăn chặn kịp thời tình trạng đối tượng nộp thuế khai không đúng, không đủ nghĩa vụ thuế.

Vẫn còn tình trạng doanh nghiệp kinh doanh có doanh thu phát sinh lớn nhưng số thuế kê khai rất thấp, việc kê khai thuế đầu ra xấp xỉ thuế đầu vào. Thậm chí có doanh nghiệp kê khai thuế GTGT âm liên tục nhưng chưa được kiểm tra, xử lý kịp thời. Chưa kiên quyết áp dụng các biện pháp xử phạt các trường hợp kê khai chậm, không kê khai thuế hoặc kê khai có nhiều sai sót.

Việc kê khai thuế theo cơ chế như hiện nay hoàn toàn phụ thuộc vào tính tự giác của đối tượng nộp thuế. Do đó, một số doanh nghiệp đã lợi dụng cơ chế tự khai tự nộp, tựchịutrách nhiệm để kê khai không đúng nghĩa vụ thuế, gian lận tiền thuế.

Phần lớn các doanh nghiệp bán hàng hoá, dịch vụ cho người tiêu dùng đều không xuất hoá đơn khi bán hàng, giấu doanh thu. Chi cục thuế chưa có biện pháp kiểm tra chặt chẽ doanh thu bán hàng của các doanh nghiệpnày.

- Công tác tổ chức bộ máykiểm trathuế:

Trường Đại học Kinh tế Huế

Thực hiện cơ chế quản lý theo mô hình tự khai, tự nộp, tựchịu trách nhiệm là một bước tiến trong công tác quản lý thu thuế. Tuy nhiên, hiện nay tại Chi cục thuế nhìn chung trìnhđộ cán bộ còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Việc tổ chức tập huấn nghiệp vụ, trao đổi thông tin còn ít. Chưa có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các bộ phận chức năng nên còn tình trạng số liệu theo dõi không thống nhất giữa các bộ phận.Đặc biệt là số lượng doanh nghiệp, số nợ thuế và xác định tình trạng nợ thuế.

Từ đó, gây khó khăn cho công tác chỉ đạo điều hành cũng như công tác phân tích tình trạng chấp hành nghĩa vụ thuế của đối tượng nộp thuế.

- Công tác quản lý thu nộp thuếsau kiểmtra thuế:

Chi cục thuế đã triển khai việc quản lý thu thuế theo mô hình chức năng, mỗi đội quản lý, theo dõi một công đoạn trong cả quá trình từ khâu tính thuế đến khâu nộp thuế vào ngân sách và quyết toán thuế. Dođó,đã tăng cường tính đồng bộ và giám sát lẫn nhau trong quá trình thu thuế. Hiệu quả và chất lượng của công tác thu nộp thuế ngày càng được nâng cao.

- Công tác quảnlý nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế:

Công tác quản lý nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế đãđược triển khai tích cực, đã thực hiện rà soát, đối chiếu, phân loại nợ thuế và áp dụng nhiều biện pháp thu nợ để thu vào Ngân sách Nhà nước, đã thực hiện quản lý nợ theo đúng quy trình, ứng dụng công nghệ tin học vào trong công tác quản lý.

2.4.2 Khó khăn, hạn chếvà nguyên nhân:

Nhìn chung trong thời gian quaChi cục thuế Quảng Điền đã tập trung đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, đầu tư cơ sở vật chất, hoàn thiện quy trình kiểm tra ...

bước đầu đã thu được các kết quả cao. Tuy nhiên, qua nghiên cứu thực tế tác giả nhận thấy, công tác kiểm tra thuế các DN VVN vẫn còn có những khó khăn, hạn chế, và nguyên nhân tồn tại cần khắc phục:

- Căn cứ Luật quản lý thuế, các luật thuế hiện hành, cơ chế quản lý thuế tự khai tự nộp, tự chịu trách nhiệm được áp dụng từ năm 2007. Bộ máy quản lý thuế được tổ chức tập trung theo các chức năng: tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế; xử lý tờ khai và kế toán thuế, thu nợ và cưỡng chế thuế, kiểm tra thuế. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các Đội thuế trong nội bộ Chi cục thuế còn nhiều bất cập, chưa thật

Trường Đại học Kinh tế Huế

hiệu quả. Chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa bộ phận quản lý DNVVN với Độikiểm tra trong công tác chuyên môn. Mảng công tác, hay bộ phận nào chỉ biết việc của bộ phận đó. Đội kiểm tra khi cần thông tin và phối hợp phải mất nhiều thời gian công sức để hiểu được thông tin của bộ phận, nên gặp nhiều khó khăn, phức tạp.

- Sự phối kết hợp trong thực hiện pháp luật về thuế của các cơ quan chức năng và tổ chức có liên quan chưa chặt chẽ, còn nhiều khe hở. Một số cấp uỷ, chính quyền địa phương chưa có sự quan tâm đúng mức,chưa thực sự coi công tác kiểm tra thuế là nhiệm vụ của cơ quan mình. Các cơ quan chức năng, các tổ chức, các cá nhân có liên quan như: cơ quan địa chính, xây dựng, giao thông, UBND, công an, kiểm sát, ngân hàng, các cơ quan thông tin đại chúng... từng lúc, từngnơi thiếu sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ và chưa có hiệu quả với cơ quan thuế trong việc cung cấp thông tin cũng như áp dụng các biện pháp hỗ trợ để thuthuế đầy đủ, kịp thời tiền thuế vào ngân sách Nhà nước.

- Công tác lập kế hoạch tuy đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn chưa thực sự khoa học. Thông tin DN VVN và các thông tin khác liên quan phục vụ cho công tác lập kế hoạch còn nhiều bất cập. Công tác lập kế hoạch hiện vẫn mang tính chủ quan, dựa trên cảm quan của cán bộ quản lý phụ trách công táckiểmtra, chủ trương, yêu cầu của lãnh đạo Chi cục. Đây là khó khăn lớn khi tổ chức thực hiện kiểm tra luôn luôn vượt định mức kế hoạch kiểm tra lập ra. Việc điều chỉnh kế hoạch chưa thực sự kịp thời,đồng bộ, dẫn đến thiếu tính chính xác trong công tác kế hoạch hóa công tác kiểmtra thuế đối vớiDN VVN.

- Hồ sơ DN, đặc biệt là DN VVN hiện nay đa số chưa được hoàn thiện, thiếu nhiều thông tin, sổ sách chưa đầy đủ, đồng bộ, nhiều DN làm ăn còn mang tính gia đình và phần lớn không phản ánh mọi hoạt động liên quan vào sổ sách, đặc biệt là sổ sách kế toán. Chính điều này, đã gây khó khăn không nhỏ cho công tác quản lý thuế nói chung và kiểm tra thuế nói riêng. Vì vậy trong thời gian đến, Chi cục thuế cần phối hợp với chính quyền địa phương, các cơ quan liên quan từng bước hướng dẫn các DNVVN thực hiện tốt hệ thống sổ sách và thông tin DN.Đồng bộ dữ liệu với Cục thuế,Tổngcục thuếnhằm tăng cường công tác quản lý và kiểmtra thuế.

Trường Đại học Kinh tế Huế

- Trong thực tế, đối với loại hình DN VVN, tình trạng gian lận thuế thông quan hóa đơn chứng từ diễn ra khá phổ biến. Kiểm tra thuế vẫn chưa có biện pháp hữu hiệu để đấu tranh, ngăn ngừa, phát hiện, xử lý triệt để vấn đề này. Tình trạng này diễn ra nhiều năm, thường xuyên, mang tính phổ biến đối với DN VVN trên địa bàn huyện.

Đòi hỏi trong thời gian đến, Chi cục thuế vàĐộikiểm tra thuế cần phối hợp với các cơ quan chức năng có biện pháp hợp lý nhằm thựchiện tốt công tác này.

- Trong những năm qua, kiểm tra hồ sơ DN, hồ sơ khai thuếcủa DNVVN còn nhiều hạn chế. Việc kịp thời cập nhật thông tin hoạt động kinh doanh của các DN VVN là rất quan trọng, giúp cho cơ quankiểm tra thuế tổ chức thực hiện chính xác công tác kiểmtra, tránh cácảnh hưởng xấu, gây phiền hà cho DN. Việc có được các thông tin mới để phân tích hồ sơ khai thuế, báo cáo tài chính của các DN VVN còn mang tính sơ sài, hình thức chưa đánh giá được các rủi ro tiềm ẩn của hồ sơ kiểm tra một cách chính xác, bài bản.

- Số lượng DN VVN trên địa bàn huyện Quảng Điền ngày càng tăng nhanh, đặc biệt năm 2016, 2017 chủ trương của tỉnh lấy làm năm DN, trong khi số lượng cán bộ làm công tác kiểmtra thuế gần như không tăng. Chất lượng cán bộkiểm tra, kiến thức chuyên môn và trình độ, mặc dù đã được đào tạo, bỗi dưỡng thường xuyênnhưng chưa thể đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong công tác kiểm tra. Do thị trường ngày càng phát triển đi vào chiều sâu, gian lận của các DN ngày càng tinh vi hơn. Trìnhđộchuyên môn của một sốcán bộcòn yếu, có những cán bộ không được đào tạo chuyên ngành tài chính, kếtoán, thuế; kỹ năng tin học còn yếu, khả năng sử dụng và khai thác các phần mềm quản lý thuế kém, chưa biết ứng dụng công nghệ thông tin vào phân tích rủi ro hồ sơ khai thuếmà thực hiện thủcông.

- Ngành thuế chưa có chế độ khuyến khích hiệu quả để cán bộkiểmtra thuế tự học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn. Việc khuyến khích đối với cán bộ không chỉ là vấn đề lương, thưởng, bằng cấp, chứng chỉ mà còn là vấn đề tạo áp lực phải đạt đến một trình độ chuyên môn nhất định, tạo mọi điều kiện thuận lợi để nghiên cứu, học tập. Ngoài ra, chế độ đãi ngộ cán bộ chưa thoả đáng đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới trình độ chuyên môn, phẩm chất nghề nghiệp của cán bộ kiểm tra.

Phong cách ứng xử của một số cán bộ kiểm tra chưa văn minh, lịch sự, cách thức làm việc thiếu tính khoa học, chuyên nghiệp.

Trường Đại học Kinh tế Huế