• Không có kết quả nào được tìm thấy

Bố cục và kiến trúc tự vũ tại núi Thuý Vân

N. T.M.X Tài liệu tham khảo:

3. Bố cục và kiến trúc tự vũ tại núi Thuý Vân

Quần thể “Vân sơn thắng tích”9 ngoài địa thế cảnh quan còn có những công trình kiến trúc được bố trí hài hoà với không gian nơi đây.

Căn cứ vào những công trình kiến trúc còn lại, tham chiếu một số tài

6 Lê Nguyễn Lưu (2005), “Tuyển dịch văn bia chùa Huế”, tạp chí Nghiên cứu &

Phát triển, số 1-2, tr. 121.

7 Minh Mạng, Văn bia Ngự chế, tlđd.

8 Tên gọi núi Thuý Hoa có từ triều Minh Mạng, nhưng đến triều Thiệu Trị được cải thành Thuý Vân, do tỵ huý bà Hồ Thị Hoa, mẹ của vua Thiệu Trị. Trong bài viết ngày chúng tôi sử dụng tên gọi phổ biến hơn.

9 “Vân sơn thắng tích” là tên của một bài thơ của Hoàng đế Thiệu Trị. Bài thơ này cùng với đề từ được khắc trên một tấm bia hiện còn được bảo lưu phía trước bên phải chùa Thánh Duyên.

liệu có thể nhận ra dụng ý của người xưa trong việc kiến tạo nơi đây thành một thắng tích của đất Thần kinh.

Chùa Thánh Duyên, công trình kiến trúc chính của cụm kiến trúc trong “Vân sơn thắng tích”. Chùa được tái tạo vào năm Minh Mạng thứ 18 (Đinh Dậu [1837]): “Ư thị niên thu cát thần vu cựu chỉ kiến tự”

(Ngày giờ tốt, mùa thu năm ấy dựng chùa trên nền cũ)10. Chùa toạ lạc ở vị trí gần chân núi, cao chừng 16m so với mặt nước biển, trên một chi long uyển chuyển, trường hoãn nhất trong các chi long phân bố quanh ngọn núi. Quan trắc chi long này có thể nhận thấy: Cấn long lạc mạch, hữu đơn đề, chuyển Khảm, khứ Tốn. Nền đất dựng chùa được san phẳng thành các bậc cấp, sau cao, trước thấp tạo thành mặt bằng xây dựng. Tuyến độ đo đạc tại thực địa, chùa toạ Hợi hướng Tỵ, lưng dựa vào long tích, mặt hướng ra đầm Hà Trung. Điều này, còn được thể hiện qua câu thơ trong bài “Thánh Duyên tự chiêm lễ bát vận”:

背 倚 翠 山 嶠 Bối ỷ thúy sơn kiệu 面 臨 小 海 濱11 Diện lâm tiểu hải tân12.

Tọa sơn hướng thủy là một yếu tố quan trọng về hình pháp và lý được các nhà địa lý ưu tiên lựa chọn vì đó là yếu tố quan trọng nhất đối với phong thuỷ học vừa thuận theo tự nhiên vừa có thể dễ dàng nội thừa sinh khí, ngoại thu đường khí. Căn cứ vào nội cục thì hướng thượng được lập tự vượng hướng. Còn ngoại cục lại là chính sinh hướng, theo quan điểm của phong thuỷ tam hợp tân pháp. Tam hợp tân pháp là một học phái mà triều Nguyễn đã áp dụng lý pháp cho khá nhiều công trình kiến trúc do triều đình xây dựng, chùa Thánh Duyên

10 Độc giả có thể tham khảo phần dịch: Lê Nguyễn Lưu (2005), “Tuyển dịch văn bia chùa Huế”, tạp chí Nghiên cứu & Phát triển, số 1-2, tr. 121-229; Giới Hương phỏng dịch (1994), Văn bia chùa Huế, tr. 304-315; Nguyễn Phố dịch (2014), Bia ngự chế của vua Minh Mạng tại chùa Thánh Duyên, Liễu Quán, số 3, Huế: Nxb.

Thuận Hoá, tr. 22-26.

11 Minh Mạng, Văn bia Ngự chế, tlđd.

12 Tức Hà Trung Hải Nhi (phá / đầm Hà Trung). Minh Mạng, Văn bia Ngự chế, tlđd.

cũng là một trường hợp như vậy. Điều này không khó xác nhận, khi thực địa, trắc định một số công trình kiến trúc tại cố đô Huế.

Vị trí dựng chùa được ưu tiên lựa chọn, xác lập toạ hướng, song nơi đây không đủ chứng ứng cho một chân long kết huyệt dưới nhãn quan địa lý âm trạch, mà chỉ là một cách lựa chọn và xử lý tình huống phù hợp với điều kiện tự nhiên vận dụng vào dương trạch. Vị trí đắc địa nhất của khu vực này thì tiền nhân đã lựa chọn để xây Mỹ Am từ.

Qua trường hợp này, có thể nhìn nhận đình, chùa, miếu, điện,… trong tôn giáo tín ngưỡng không phải nhất thiết được xây dựng trên bảo địa, quý địa theo quan điểm phong thuỷ.

Đây là ngôi chùa mang đặc trưng kiến trúc cung đình của triều Nguyễn. Dạng thức kiến trúc của chùa Thánh Duyên cũng là một mẫu hình tiêu biểu cho truyền thống kiến trúc chùa Huế. Chính điện là ngôi nhà rường ba gian hai chái. Phần gian và chái phía bên ngoài được phân định bằng đường cổ diêm để tạo phần mái theo lối trùng thiềm.

Các bờ nóc, bờ quyết được trang trí bằng các mô thức như lưỡng long triều nguyệt, hồi long, quyển vân,… không có gì đặc biệt so với các công trình kiến trúc khác. Nội điện phần lớn không tập trung cho các án thờ, thiết trí pháp tượng, pháp khí cả ba gian chính và hai chái hai bên. Khoảng không ở giữa là nơi sư tăng, Phật tử hành lễ. Là một quan tự được triều đình kiến tạo nên việc trang trí, liên ba, đố bản chạm khắc công phu, đặc biệt các ô hộc trang trí thi hoạ đậm chất cung đình13.

13 Xem thêm các bài viết về pháp tượng, pháp khí, trang trí ô hộc, thi hoạ, hoành phi, câu đối,…: Thích Hải Ấn, Thích Minh Chính (2014), Trang trí ô hộc - thi kệ tại Đại hùng bảo điện chùa Thánh Duyên, Liễu Quán, số 3, Huế: Nxb. Thuận Hoá, tr. 49-53; Võ Vinh Quang, Trần Đình Sơn, Thích Không Nhiên, Nguyễn Văn Thịnh (2014), Bản thống kê tự khí, pháp khí chùa Thánh Duyên đời Thành Thái vừa được phát hiện, Liễu Quán, số 3, Huế: Nxb. Thuận Hoá, tr. 54-73; Nguyễn Phúc Vĩnh Ba (2014), Về các câu đối tại quốc tự Thánh Duyên, Liễu Quán, số 3, Huế: Nxb. Thuận Hoá, tr. 44-48.

Do toạ lạc trên sườn núi, độ dốc lớn cho nên việc mở rộng mặt bằng xây dựng theo chiều toạ hướng bị hạn chế nên ngôi chánh điện không được mở rộng theo kiểu điệp ốc như những công trình kiến trúc cung đình và một số ngôi chùa lớn khác. Để làm nơi an trú, sinh hoạt của chư tăng, sát chánh điện bên phải là các công trình kiến trúc bổ trợ như tăng xá, trù ốc. Trong khi đó, bên trái chánh điện lại có một con khe nhỏ, và diện tích không đủ để kiến tạo một công trình kiến trúc khác mang tính đăng đối theo truyền thống kiến trúc chùa Huế. Những công trình kiến trúc này xung quanh có tường bao để bảo vệ và phân định với không gian bên ngoài. Thông qua quan, môn thì việc khai, bế có thể chủ động bởi sư tăng để ứng phó với các tình huống động tĩnh theo sinh hoạt thường nhật của ngôi chùa. Phía trước chánh điện, qua khoảnh sân nhỏ là tam quan, gắn với mặt trước của tường bao. Tam quan chùa Thánh Duyên, cũng như tam quan của các ngôi chùa khác, chúng được xây dựng theo kiểu thượng lâu, hạ quan, một kiểu thức phổ biến của các ngôi chùa xứ Huế.

Phía sau chánh điện về phía trái còn có “Bắc môn”. Đây cũng là cửa ngõ để đến các công trình kiến trúc khác ở trên núi phía sau ngôi chùa. Đối với các công trình kiến trúc dinh, thự, cung, điện, đình, chùa,… tam quan thường được khai tại chính hướng, nên chùa Thánh Duyên cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Nhưng “Bắc môn” thì được tiền nhân dụng tâm hoạch định, khai môn tại phương vị Đế vượng, kết nối với các công trình kiến trúc khác qua con đường đi bộ lên đỉnh núi.

Con đường này được dựa theo long tích để lát đá thành những bậc cấp, một lối đi thuận tiện nhất cho người bộ hành. Đó là một cách vận dụng tối ưu về địa hình sườn núi để kiến tạo nhưng không phá vỡ

cảnh quan, tổn hại địa mạch14. Nó được khắc họa qua câu thơ trong bài Đại Từ Các:

幽 林 樹 密 密 U lâm thụ mật mật 曲 徑 路 迢 迢15 Khúc kính lộ diêu diêu Tạm dịch:

Cây rừng bóng san sát.

Đường nhỏ uốn xa xăm.

Đại Từ Các vốn là một công trình kiến trúc bằng gỗ ba gian gác, còn tầng dưới mở rộng thêm hai chái. Trải qua thời gian công trình này đã bị hư hỏng nên bộ khung được dựng lại bằng bằng bê tông cốt thép, nhưng kiểu dáng vẫn được giữ nguyên như thuở sơ kiến. Đây là nơi thờ phụng Di Đà Tam Tôn, được bố trí tại lưng chừng núi, vị trí long mạch chuyển hướng. Vì toạ lạc nơi long tích nên gác Đại Từ lập toạ Tý hướng Ngọ theo cách hoành kỵ long để hướng về phía chùa Thánh Duyên ở gần dưới chân núi. Quan sát địa thế gác Đại Từ toạ lạc có thể nhận thấy, gác có toạ hậu không khuyết, diện tiền tả thuỷ đảo hữu, phản bối trực lưu. Rõ ràng dùng học lý của phong thuỷ để nhìn nhận thì Đại Từ Các không phải là nơi có phong thuỷ tốt. Nhưng đối với kiến trúc Phật giáo, công năng chính là thờ Phật, cụ thể gác Đại Từ nguyên uỷ là nơi thờ phụng Di Đà Tam Tôn, nên không có sự uý kỵ như kiến trúc dân sinh. Có thể nói gác Đại Từ có một vị trí tuyệt đẹp và hoà nhập với cảnh trí tự nhiên. Nếu đứng ở đây nhìn bao quát cảnh quan có thể cảm nhận cảnh Tiên, cõi Bụt, như bài thơ Đại Từ Các của Hoàng Đế Minh Mạng:

高閣據山腰 Cao các cứ sơn yêu,

14 Điều đáng tiếc nhất đã xảy ra với con đường thiền vị này. Nó đã được chuyển thành những bậc cấp tương đối đều đặn, được đúc bằng bê tông, xây đá chẻ bằng mạch vữa xi măng. Nhưng mao thuỷ không còn theo địa thế tự nhiên để về hộ long thuỷ. Sự bất cẩn, vô ý trong trùng tu tôn tạo đó góp phần phá huỷ phong thuỷ của ngôi chùa này, mà tiền nhân đã dụng tâm trí quy hoạch xây dựng.

15 Minh Mạng, Văn bia ngự chế, tlđd.

俯觀景色饒 Phủ quan cảnh sắc nhiêu.

登臨逾百級 Đăng lâm du bách cấp, 峻峙聳層霄 Tuấn trĩ tủng tằng tiêu.

南列群峰拱 Nam liệt quần phong củng, 北來大海朝 Bắc lai đại hải triều.

幽林樹密密 U lâm thụ mật mật, 曲徑路迢迢 Khúc kính lộ điều điều.

花雨半空落 Hoa vũ bán không lạc,

香風午日飄 Hương phong ngọ nhật phiêu.

真如居勝地 Chân Như cư thắng địa, 金榜大慈標16 Kim bảng Đại Từ tiêu.

Tạm dịch:

Gác cao nương eo núi, Nhìn xuống cảnh sắc đầy.

Đăng lâm hơn trăm cấp, Cao vọi mấy tầng mây.

Nam bày quần phong củng, Bắc đến đại hải triều.

Rừng vắng cây san sát, Lối nhỏ đường xa xăm.

Mưa hoa giữa trời rụng, Hương gió ngày ngọ đưa.

Chân Như nơi thắng địa,

“Đại Từ” bảng vàng nêu17.

Từ đây theo con đường nhỏ lát đá tiếp tục đến đỉnh núi. Điểm cao nhất của núi Thúy Vân, là nơi tọa lạc của tháp Điều Ngự. Việc

16 Minh Mạng, Văn bia ngự chế, tlđd.

17 Ở đây dịch thơ khó có thể biểu đạt hết ý nghĩa nên chúng tôi chỉ dịch những từ có thể chuyển dịch, và có một vài thuật ngữ Phật giáo chưa chú thích. Nếu độc giả quan tâm có thể tham khảo các bản dịch khác.

chọn vị trí xây dựng tháp Điều Ngự là một sự lựa chọn mang tính tối ưu nhất vừa tận dụng độ cao của ngọn núi vừa tăng chiều cao cho ngôi bảo tháp. Từ xa nhìn lại đỉnh tháp vươn lên trên những tán cây xanh.

Trải qua một thời gian dài nhưng ngôi tháp vẫn còn gần như nguyên trạng kiến trúc. Tháp có bình diện hình vuông, ba tầng, càng lên cao càng được thu nhỏ, mỗi tầng đều có ba vòm cửa. Toạ hướng của bảo tháp theo trục Dần Thân, mặt trước được gắn biển ngạch bằng đá với ba đại tự “Điều Ngự Tháp”. Mặt chính của bảo tháp hướng về phía Đại Từ Các. Tháp Điều Ngự là nơi phụng thờ các vị Phật: Tầng thượng phụng thờ Trung Thiên Điều Ngự Thích Ca Mâu Ni Văn Phật Tây Thiên Cực Lạc Pháp Vương; Tầng giữa phụng thờ Nhân Gian Điều Ngự Phúc Bị Quần Sinh Vạn Thiện Chí Tôn; Tầng dưới thờ Địa Phủ Điều Ngự Minh Sát Sâm Nghiêm Diêm La Chủ Tể18. Trong bài thơ ngự chế Đăng Điều Ngự Tháp của Hoàng Đế Minh Mạng đã viết:

巍 峨 寳 塔 踞 山 巓 Nguy nga bảo tháp cứ sơn điên 拾 級 而 登 豈 倦 焉 Thập cấp nhi đăng khởi quyển yên, 四 面 遐 觀 臨 大 地 Tứ diện hà quan lâm đại địa,

三 層 高 矗 立 中 天19 Tam tằng cao điệp lập trung thiên…

Tạm dịch:

Nguy nga bảo tháp tọa đỉnh cao Mười cấp để lên há mệt sao Bốn phía nhìn xa khắp đại địa Ba tầng điệp lập giữa trời cao…

Phía sau Điều Ngự Tháp là Tiến Sảng Đình, công trình này không được đề cập trong thơ “Ngự chế” nhưng nó là một công trình kiến trúc đáng được lưu ý về việc vận dụng địa thế tự nhiên trong kiến tạo. Đình dựa lưng vào tháp Điều Ngự mặt hướng ra núi Linh Thái.

Đình Tiến Sảng là điểm dừng chân, nghỉ ngơi, hóng mát, ngắm cảnh,… Tại ngôi đình này đã từng được các vua triều Nguyễn và

18 Minh Mạng, Văn bia ngự chế, tlđd.

19 Minh Mạng, Văn bia ngự chế, tlđd.

nhiều tao nhân mặc khách, tăng nhân, du khách đến, trong đó có những người đã làm nên những bài thơ hay lưu lại cho hậu thế.

Lập hướng cho các công trình kiến trúc ở núi Thuý Vân, ngoài Thánh Duyên tự, công trình kiến trúc chính, chúng ta có thể nhận thấy, của các công trình khác không quá chú trọng về lý pháp mà dựa theo hình pháp để lập và căn cứ vào phương vị toạ lạc của chùa Thánh Duyên để phối hợp. Hướng của các công trình kiến trúc y cứ lẫn nhau, thuận theo địa thế để xác lập. Đình Tiến Sảng đối toạ hướng với Điều Ngự Tháp. Tháp Điều Ngự toạ trấn tại sơn đính, nhưng hướng của bảo tháp vẫn thuận theo long hành hướng về gác Đại Từ. Gác Đại Từ cũng vậy, hướng theo long tích nhìn về chùa Thánh Duyên. Cho dù là những đơn nguyên kiến trúc riêng biệt nhưng chúng bổ trợ cho nhau, kết nối với nhau trong một tổng thể hoà hợp. Tinh thần của dạng thức bố cục này thấm đậm quan điểm Phật giáo trong kiến tạo tự vũ. Dưới triều Minh Mạng, vị hoàng đế này đã để lại rất nhiều điển lệ về Phật giáo rất giá trị, và việc quy hoạch, xây dựng “Vân sơn thắng tích” cũng là một điển lệ rất đáng được hậu nhân trân trọng, tham khảo học tập.

Qua ngự chế thi của Minh Mạng còn có một công trình kiến trúc khác đó là Thúy Hoa Sơn Hành Cung:

牆 後 倚 山 麓 Tường hậu ỷ sơn lộc 窗 前 臨 水 邊 Song tiền lâm thủy biên.

蔡 頭 吞 北 海 Thái đầu thôn bắc hải, 堆 頂 擎 南 天20 Đôi đỉnh kình nam thiên…

Tạm dịch:

Tường sau dựa chân núi, Cửa trước nhìn thủy bên.

Đầu Thái nuốt biển bắc, Đỉnh Đôi chống trời nam…21.

20 Minh Mạng, Văn bia ngự chế, tlđd.

21 Văn bia chú: “Linh Thái sơn đầu hướng Bắc dĩ lâm hải. Cao Đôi sơn cách ngạn chi nam kỳ cao kinh kỳ vô hữu tỷ giả”, Minh Mạng, Văn bia ngự chế, tlđd. (Núi

Nhưng hành cung này đã bị hư hoại qua thời gian, đến nay đã mất dần dấu tích22. Dựa vào những câu thơ trên, kết hợp với bản vẽ của Bộ Công trong “Danh thắng hội đồ thi tập” và hình vẽ núi Thuý Vân trên đồ sứ ký kiểu triều Thiệu Trị, có thể đoán định Thuý Hoa Sơn Hành Cung nằm phía dưới chân núi ở phía trước chùa. Hành cung được xây dựng trên khoảnh đất khá bằng phẳng, lưng dựa vào núi mặt hướng ra đầm Cầu Hai.

Quan sát tổng thể vị trí toạ lạc của các công trình kiến được kiến tạo dưới triều Minh Mạng, có thể nhận thấy ý đồ quy hoạch xử lý các tình huống địa lý của tiền nhân. Hầu hết các công trình kiến trúc được kiến tạo vào triều Minh Mạng đều được bố trí thuận theo một chi long tại núi Thuý Vân từ đỉnh cho đến chân núi nơi giáp đầm phá. Tuỳ theo địa thế và diện tích sử dụng cho mỗi công trình kiến trúc mà san lấp hợp lý, không phá vỡ tổng thể địa lý cảnh quan. Độ cao thấp, trước sau, khoảng cách của các công trình cũng được bài bố hợp lý. Chùa Thánh Duyên và những công trình kiến trúc liên quan ở núi Thuý Vân là một dạng thức bố cục khá đặc thù trong những danh lam xứ Huế.