• Không có kết quả nào được tìm thấy

PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH TIÊU THỤ SẢN

2.3. Các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Công ty

2.3.1. Môi trường vĩ mô

2.3.1.1.Môi trường kinh tế

CTCP Dược Medipharco cũng như tất cả các công ty khác trên toàn quốc đang phải đối mặt với nhiều vấn đề thay đổi của môi trường kinh tế. Môi trường kinh tế chuyển biến tốt thì có lợi cho các doanh nghiệp và ngược lại, chuyển biến xấu thì gây ra tình trạng khó khăn cho các doanh nghiệp.

Sựphát triển và cải cách của hệ thống ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, thị trường chứng khoán đang tăng trưởng với sức nóng chóng mặt, làn sóng đầu tư ồ ạt vào Việt Nam. Đất nước đang trên đà phát triển và mở rộng quan hệ kinh tế hợp tác với các quốc gia và khu vực trên thế giới làm cho môi trường kinh doanh của công ty ngày càng được mở rộng và nhiều thách thức cũng đang chờ phía trước. Với những thuận lợi đó cơ hội để mở rộng và phát triển thị trường, thiết lập quan hệ phân phối tiêu thụ rộng rãi không chỉ trên địa bàn tỉnh, mà trên khắp cả nước và xuất khẩu ra khắp thị trường nước ngoài. Có điều kiện tiếp thu khoa học kỹthuật công nghệ máy móc dây chuyền hiện đại cũng như dễ dàng thu mua nhập khẩu các nguyên dược liệu để bào chếthuốc.

Trường Đại học Kinh tế Huế

Những cơ hội cho công tydo môi trường kinh tếtạo ra như:

+ Tỷgiá ngoại tệ: Yếu tốnày cóảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận sau thuếvà tỷ lệlợi nhuận sau thuếcủa doanh nghiệp. Theo BộTài chính, tỷ giá USD/VNĐ tính đến 24/12/2016 là 22.155 tăng 1,18% so với đầu năm 2016 và chỉ tăng 0,8% so với cuối năm 2015. Số liệu cập nhật gần cuối năm 2017 của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2017 tăng 0,02% so với tháng trước và giảm 0,05% so với cùng kỳ năm 2016; bình quân năm 2017 tăng 1,4% so với năm 2016.[15] Do các hợp đồng nhập khẩu NPL và thuốc thường được ký bằng đô la nên khi tỷgiá ngoại tệ ổn định sẽ giúp công ty thuận lợi hơnkhi nhập khẩu NPL, thuốc và đầu tư sản xuất.

+ Hồi tháng 4/2016, tại hội nghị đối thoại với doanh nghiệp, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước xem xét giảm lãi suất cho vay nhằm hỗtrợ doanh nghiệp, kích nền kinh tếphát triển.Theo đó, nhiều Ngân hàng, nhất là các Ngân hàng Thương mại lớn của Nhà nước như BIDV, Vietcombank, Agribank, VietinBank cũng đã đồng loạt điều chỉnh giảm lãi suất cho vay từ 0,5% đến 1%/năm. Năm 2017, các Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều chỉnh giảm lãi suất cho vay ngắn hạn từ 7%/năm xuống 6,5%/năm đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệpứng dụng công nghệcao,...Đây là tín hiệu tốt cho công ty khi mà công ty đang có tỷlệvay nợcao.

+ Thị trường chứng khoán đang ngày càng khởi sắc.

2.3.1.2.Môi trườngvăn hóa xã hội

- Dân số: Việt Nam có quy mô dân số hơn 95 triệu người và dân số ở độtuổi lao động chiếm tỷlệ rất lớn, tỷlệsinh duy trì ở mức cao nên nhu cầu vềthuốc chữa bệnh cũng là rất lớn. Ngoài ra tăng trưởng GDP của Việt Nam hiện nay vào khoảng 6,81%/

năm, mức sống người dân ngày càng được nâng cao nên nhu cầu với các loại thuốc bổ dưỡng, vitamin, tăng cường sức khỏe là rất cần thiết. Đây là những nhân tố góp phần phát triển của Công ty. Bên cạnh đó,Việt Nam là một nước nông nghiệp trên 70% dân sốsốngở khu vực nông thôn, có mức sống thấp hơn khu vực thành thị nên có nhu cầu dùng thuốc với giá thành rẻ. Đây là một thị trường “béo bở”cho các doanh nghiệp sản xuất nội địa nói chung và cho công ty nói riêng, do ngoại trừmột sốbiệt dược, chuyên khoa cần phải nhập ngoại, đa số thuốc generic sản xuất của công ty đều đáp ứng nhu

Trường Đại học Kinh tế Huế

cầu điều trịtrong khi giá rẻ hơn.

- Thói quen sử dụng hàng hóa của người tiêu dùng: Phần lớn người tiêu dùng Việt Nam dùng thuốc không cần kê đơn của bác sĩ đối với các bệnh thông thường.

Bệnh nhân khi nhức đầu, sổ mũi, đau bụng… tự mua thuốc hoặc uống theo đơn và bệnh của người khác. Nhiều người chỉ uống thuốc vài ngày không khỏi hoặc khi bệnh rất nặng mới đi khám bác sĩ. Nếu lần sau bị ốm mà có những triệu chứng giống lần trước thì họsẽlấy đơn cũ đi mua. Hầu hết bệnh nhân ngại vào bệnh viện khi mắc các bệnh thông thường. Họ cho rằng nếu vào bệnh viện để lấy đơn thuốc vì những bệnh thông thường thì vừa mất thời gian vừa tốn tiền. Khi bị nhức đầu, sốt nhẹ, tiêu chảy...

thì họ ra hiệu thuốc tây khai bệnh. Người bán bán đưa thuốc gì uống thuốc đó. Cũng có khi người bệnh mua thuốc theo hướng dẫn của một người hàng xóm từng có bệnh tương tự. Nắm được thói quen này của người tiêu dùng, công ty đã dùngđội ngũ trình dược viên tác động đến các hiệu thuốc dưới hình thức hoa hồng do sự tư vấn và kê toa của nhà thuốcảnh hưởng lớn đến quyết định mua thuốc của người bệnh. Ngoài ra, khi mức sống ngày một cao, hiện tượng lạm dụng thuốc bổtrong thói quen sửdụng thuốc của người tiêu dùng ngày một phổ biến. Cuộc sống ngày càng bận rộn với nhiều áp lực, nhu cầu bổsung vitamin và khoáng chất đểduy trì sức khỏe cho cơ thểngày càng được quan tâm. Do vậy, thị trường thuốc bổ cung cấp vitamin và khoáng chất đang phát triển rất nhanh và là “miếng bánh” tương đối lớn cho các các doanh nghiệp dược phẩm đểmắt tới.

2.3.1.3.Môi trường chính trịvà pháp luật

- Chính trị: Việt Nam được đánh giá là nước có môi trường chính trị, xã hội, an ninhổn định. Chính phủ đã có những nổlực trong việc thểchếhóa hệthống luật pháp, cải cách hành chính tạo điều kiện tốt cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước nói chung, các doanh nghiệp trong ngành dược phẩm nói riêng.

- Pháp luật: Trong những năm gần đây hệ thống pháp luật của Việt Nam đã có nhiều cải cách tạo điều kiện thuận lợi cho công ty, tuy nhiên vẫn còn nhiều thủtục vẫn còn phức tạp, kém hiệu quảcản trởhoạt động kinh doanh của công ty. Như:

+ Ngành Dược chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước về giá bán. Thuốc là mặt hàng nhạy cảm do có khả năng tác động khá lớn đến đời sống xã hội, do đó Chính phủ

Trường Đại học Kinh tế Huế

đã đưa dược phẩm vào danh sách kiểm soát giá. Theo quy định của Cục Quản lý Dược, các doanh nghiệp phải đăng ký giá bán thuốc với Cục Quản lý Dược dựa trên chi phí sản xuất cho từng năm, nếu có biến động mạnh vềgiá nguyên liệu đầu vào thì các công ty có thể trình Sở Y Tế địa phương để xin điều chỉnh giá thuốc, việc điều chỉnh này chỉ được thực hiện nếu được sự chấp thuận của Sở Y tế. Tuy nhiên, thuốc ngoại nhập lại không nằm trong phạm vi ảnh hưởng của chính sách kiểm soát này.

Trong nhiều trường hợp, các cơ quan chức năng đã có những phản ứng khá chậm với diễn biến của thị trường và do đó phần nào đãảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của công ty.

+ Chính sách phát triển ngành dược: Năm 2014 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt "Chiến lược quốc gia phát triển ngành Dược Việt Nam giai đoạn đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 " nhằm nâng cao năng lực của ngành dược nội địa, tuy nhiên nội dung của chiến lược mới chỉ đặt ra mục tiêu và nhiệm vụ mà chưa đưa ra được chính sách hỗtrợ cụthểcho các doanh nghiệp dược. Do đó trong tương lai gần, các doanh nghiệp dược sẽ khó có sự bứt phá, đặc biệt là về công tác nghiên cứu nguyên liệu dược phẩm và phát triển sản phẩm mới.

2.3.1.4.Môi trường kỹthuật công nghệ

Ởbất kỳquốc gia nào, khoa học và công nghệ đều được xem là lĩnh vực tối quan trọng, quyết định năng lực cạnh tranh cũng như hiệu quả tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân.

TWAS (Viện Hàn lâm khoa học thếgiới thứ3), một tổchức khoa học quốc tếrất có uy tín và thân thiện với Việt Nam, do UNESCO bảo trợ xếp Việt Nam vào nhóm nước SLDC (Scientifically Lagging Developing Countries) dịch nghĩa là “nhóm nước đang phát triển lạc hậu vềkhoa học”. Nhóm này gồm 79 nước trên thếgiới, trong khu vực ASEAN có Lào, Campuchia, Myanma và Indonesia. Qua đó cho thấy Việt Nam là một nước có trìnhđộ công nghệlạc hậu và ngành dược Việt Nam không nằm ngoài sự đánh giá đó. Trìnhđộ kỹthuật, công nghệsản xuất thuốc còn thấp và chưa được đầu tư đúng đắn, đang diễn ra tình trạng đầu tư dây chuyền trùng lặp.

Tại các nước phát triển, hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) trong ngành

Trường Đại học Kinh tế Huế

dược rất được chú trọng. Từ năm 2002, các công ty dược phẩm đa quốc gia đã có xu hướng triển khai hoạt động R&Dở nước ngoài nhiều hơn, đặt biệt các nước trong khu vực Châu Á và các nước đang phát triển trở thành điểm đến của hoạt động R&D ở nước ngoài của các công ty này do chi phí nhân công rẻ. Trung Quốc vàẤnĐộlà hai nước thu hút hoạt động R&D nhiều nhất hiện nay, kế đến là Singapore. Tuy nhiên, mặc dù Việt Nam là một nước đang phát triển với chi phí nhân công rẻ nhưng đầu tư nước ngoài trong hoạt động R&D tại Việt Nam chưa tương xứng với tiềm năng của ngành.Nguyên nhân là do quy định về đầu tư và sản xuất của chính phủ đối với ngành dược phẩm vẫn tồn tại một số rào cản đối với các nhà đầu tư như: các doanh nghiệp dược 100% vốn nước ngoài vẫn chưa được phép thành lập, trừ khi đã có nhà máy sản xuất tại Việt Nam hoặc liên doanh với một doanh nghiệp dược nội địa; hạn chế việc các công ty nghiên cứu và phát triển dược phẩm hoạt động một cách toàn diện; một số quy định vềthửnghiệm lâm sàng trước khi đăng ký thuốc mới, giấy chứng nhận dược phẩm cùng với việc kiểmđịnh vắc xin và sinh phẩm y tếnhập khẩu vào Việt Nam, bảo hộquyền sởhữu trí tuệ…chưa phù hợp với quy định chung của quốc tế.

2.3.1.5.Môi trường tựnhiên

Việt Nam nằm trong đới khí hậu nhiệt đới gió mùa, độ ẩm cao, thời tiết phức tạp, đặc biệt là miềntrung mưa nắng thất thường và luôn xảy ra tình trạng bão lũ nên ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Đối với công ty là doanh nghiệp sản xuất các loại dược phẩm nên điều đó rất quan trọng bởi các sản phẩm phải được sản xuất trong điều kiện ánh sáng, độ ẩm nhiệt độ thích hợp và kho hàng phải được bảo quản tránhẩm mốc hư hỏng.

Với điều kiện khí hậu đó cộng với điều kiện mức sống của người dân còn thấp nên thường phát sinh ra nhiều căn bệnh do tự nhiên gây ra như nhiễm trùng, sổ mũi, cảm cúm, sốt rét,…Làm tăng nhu cầu sửdụng các loại dược phẩm.

2.3.2.Môi trường vi mô