• Không có kết quả nào được tìm thấy

Đề thi thử THPT quốc gia 2021 môn Văn có đáp án chi tiết - Đề số 4 | Ngữ văn, Đề thi THPT quốc gia - Ôn Luyện

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "Đề thi thử THPT quốc gia 2021 môn Văn có đáp án chi tiết - Đề số 4 | Ngữ văn, Đề thi THPT quốc gia - Ôn Luyện"

Copied!
10
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

ĐỀ SỐ 4 BỘ ĐỀ THI THPT QUỐC GIA CHUẨN CẤU TRÚC BỘ GIÁO DỤC Môn: Ngữ văn

Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề



I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

Đọc văn bản dưới đây và thực hiện các yêu cầu:

Đừng nói cuộc đời mình tẻ nhạt nhé em hạnh phúc ở trong những điều giản dị trong ngày, trong đêm

đừng than phiền cuộc sống nhé em hạnh phúc ngay cả khi em khóc bởi trái tim buồn là trái tim vui

hạnh phúc bình thường và giản dị lắm là tiếng xe về mỗi chiều của bố

cả nhà quây quần trong căn phòng nhỏ chị xới cơm đầy bắt phải ăn no

hạnh phúc là khi đêm về không có tiếng mẹ ho là ngọn đèn soi tương lai em sáng

là điểm mười mỗi khi lên bảng là ánh mắt một người lạ như quen hạnh phúc là khi mình có một cái tên vậy đừng nói cuộc đời tẻ nhạt nhé em tuổi mười tám còn khờ khạo lắm

đừng tô vẽ một chân trời xa toàn màu hồng thắm hạnh phúc vẹn nguyên giữa cuộc đời thường

(Trích Hạnh phúc – Thanh Huyền) Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính và phong cách ngôn ngữ của văn bản trên.

Câu 2. Nội dung chính của đoạn thơ.

Câu 3. Chỉ ra và nêu hiệu quả nghệ thuật biện pháp tu từ chủ yếu trong đoạn thơ?

Câu 4. Anh (chị) có suy nghĩ gì về những lời nhắn nhủ của nhân vật trữ tình dành cho em mình qua những câu thơ:

Đừng nói cuộc đời mình tẻ nhạt nhé em hạnh phúc ở những điều bình dị

(…)

(2)

đừng tô vẽ một chân trời xa toàn màu hồng thắm hạnh phúc vẹn nguyên giữa cuộc đời thường.

II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1. (2,0 điểm)

Hãy viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày những suy nghĩ của anh (chị) về quan niệm hạnh phúc của nhà thơ Thanh Huyền được trích trong phần Đọc hiểu: Hạnh phúc ở những điều bình dị.

Câu 2. (5,0 điểm)

Phân tích đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng:

Tây tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu, anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

(Trích Tây Tiến – Quang Dũng, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2018, trang 89) HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI

I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

Câu 1. – Phương thức biểu đạt chính của văn bản trên là phương thức tự sự.

– Phong cách ngôn ngữ của văn bản là phong cách nghệ thuật.

Câu 2. Nội dung chính của đoạn thơ:

– Hạnh phúc là những điều hết sức bình thường, giản dị trong cuộc sống đời thường: gia đình đầm ấm, hi vọng tương lai tươi sáng, ánh mắt một người vừa lạ, vừa quen...

– Tình cảm yêu thương, trân trọng của người viết đối với hạnh phúc bình dị của cuộc sống đời thường.

Câu 3. – Biện pháp tu từ được sử dụng chủ yếu trong đoạn thơ là: liệt kê.

– Hiệu quả nghệ thuật: bằng phép liệt kê, người viết đã thể hiện quan niệm hạnh phúc một cách ấn tượng, chân thật, xúc động qua những hình ảnh hết sức cụ thể, gần gũi, bình dị, đời thường trong cuộc sống: tiếng xe về mỗi chiều của bố, cả nhà quây quần bên căn gác nhỏ, đêm về không có tiếng mẹ ho...

(3)

Câu 4. – Thanh Huyền nhắn nhủ em đừng nói cuộc đời tẻ nhạt, đừng tô vẽ chân trời xa một màu hồng thắm. Và nhắc đi nhắc lại em rằng, hạnh phúc xuất phát từ những điều bình dị.

– Đó là lời nhắn nhủ chân tình, giàu cảm xúc và tình yêu thương của người chị dành cho em.

Qua đó, nhắn nhủ mọi người, đừng quên hạnh phúc ở trong những điều giản dị hãy trân trọng.

II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1. (2,0 điểm) HS tham khảo nội dung dưới đây để viết đoạn văn:

1. Giải thích

– Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc của con người khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó mang tính trừu tượng. Hạnh phúc là một cảm xúc bậc cao, được cho rằng chỉ có ở loài người, nó mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lí trí.

– Hạnh phúc nằm ở trong những điều bình dị, nghĩa là hạnh phúc tồn tại trong những điều bình thường, gần gũi trong cuộc sống. Tôn trọng là đánh giá cao, là coi trọng sự sống, danh dự, nhân phẩm của người khác. Một số biểu hiện của sự tôn trọng là không phân biệt màu da, tuổi tác, giới tính, trình độ, sang giàu hay nghèo hèn, nông thôn hay thành thị, tôn giáo hay dân tộc. Từ đó, có thể hiểu nguyên tắc sống trên: tôn trọng người khác là ưu tiên hàng đầu, trước khi khi làm/ nghe theo ý muốn của bản thân.

2. Phân tích

– Hạnh phúc không phải lúc nào cũng cao sang, đôi khi tình yêu lại bắt đầu từ những điều giản dị nhất mà những lúc vô tình bạn không nhận ra. Như Thanh Huyền định nghĩa hạnh phúc rất đơn giản, đó là: tiếng xe máy về mỗi chiều của bố, là sự quan tâm yêu thương, lo lắng của những người thân yêu trong gia đình: chị xới cơm đầy bắt phải ăn no, đêm về không có tiếng mẹ ho...

– Những điều ấy bình dị, mộc mạc thôi, nhưng gợi ở lòng người bao nhiêu ấm áp, yêu thương.

3. Bình luận

– Nhưng không phải ai cũng cảm nhận được rằng hạnh phúc nằm ở những điều giản dị. Họ mải mê chạy theo những thứ phù phiếm mà không nhận ra hạnh phúc chỉ đơn giản là những điều bình dị quanh mình. Cho đến khi quá muộn.

4. Bài học

– Hãy biết trân trọng hạnh phúc, đừng quá tham lam những điều xa vời. Cần sống chậm lại, yêu thương nhiều hơn:

đừng tô vẽ một chân trời xa toàn màu hồng thắm hạnh phúc vẹn nguyên giữa cuộc đời thường.

(Thanh Huyền)

(4)

Câu 2. (5,0 điểm) 1. Mở bài

– Tây Tiến là bài thơ hay nhất của đời thơ Quang Dũng và cũng là thành tựu xuất sắc của nền thơ ca kháng chiến chống Pháp. Ở trong thơ Quang Dũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian. Với bút pháp tài hoa và lãng mạn trong phút rung động thơ ca cứ tự nhiên trào dâng về hình ảnh người lính.

– Cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ và niềm tự hào đối với đoàn binh Tây Tiến, đối với con sông Mã và núi rừng miền Tây xa xôi. Đó là nỗi nhớ "chơi vơi" bao kỉ niệm đẹp và cảm động một thời trận mạc đầy gian khổ, hi sinh. Đây là đoạn thơ thứ ba trong bài Tây Tiến, đã khắc họa khí phách anh hùng và tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ trong máu lửa:

Tây tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu, anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

2. Thân bài

2.1. Khái quát chung

– Đơn vị quân đội Tây Tiến được thành lập đầu năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh tiêu hao sinh lực Pháp tại Thượng Lào và miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng; chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, có nhiều học sinh, sinh viên, trong đó có Quang Dũng. Họ sống và chiến đấu trong hoàn cành gian khổ, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành nhưng vẫn lạc quan và chiến đấu anh dũng. Hoạt động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến trở về Hòa Bình thành lập trung đoàn 52. Và cũng chính trong thời gian này Quang Dũng được điều đi làm nhiệm vụ mới ở đơn vị khác. Thế rồi vào một ngày cuối năm 1948, ngồi ở Phù Lưu Chanh, nhớ đơn vị cũ, Quang Dũng đã viết bài thơ Tây Tiến. Lúc đầu, nhà thơ đặt tên tác phẩm là Nhớ Tây Tiến, nhưng sau đó lại đổi lại là Tây Tiến. Bài thơ được sáng tác dựa trên nỗi nhớ, hồi ức, kỉ niệm của Quang Dũng về đơn vị cũ. Chính vì vậy mà toàn bài thơ là một nỗi nhớ cồn cào, tha thiết. Bài thơ in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng của hồn

(5)

thơ Quang Dũng. Với tài năng và tâm hồn ấy, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng trên nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội, mĩ lệ.

– Tây Tiến là dòng hồi ức vô cùng thương nhớ về những đồng đội của nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng có người đã hi sinh, những người đã trở về với đất mẹ yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng là những người mãi mãi nằm lại nơi biên cương hay miền viễn xứ.

2.2. Phân tích

– Trên những nẻo đường hành quân chiến đấu, vượt qua bao núi cao dốc thẳm heo hút cồn mây súng ngửi trời, đoàn binh Tây Tiến hiện ra giữa màu xanh của núi rừng trùng điệp vừa kiêu hùng vừa cảm động. Người chiến binh với quân trang màu xanh của lá rừng, với nước da xanh phong sương vì sốt rét rừng, thiếu thuốc men, lương thực nên "không mọc tóc". Câu thơ trần trụi như hiện thực chiến tranh những năm đầu kháng chiến vốn thế. "Không mọc tóc" là hình ảnh phản ánh cái khốc liệt của chiến trường:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

+ Nhưng, trước hết, đây là những câu thơ tả thực – thực một cách trần trụi: chiến sĩ Tây Tiến hồi ấy hoạt động ở những vùng núi rùng hiểm trở, nơi rừng thiêng nước độc, chết trận thì ít mà chết vì bệnh tật thì nhiều, có những con suối rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc. "Quân xanh" ở đây có thể hiểu là xanh màu áo, xanh lá ngụy trang và xanh làn da vì thiếu máu.

Những hình ảnh rất thực đó đã đi vào bài thơ, với giọng điệu và cách diễn tả lãng mạn của Quang Dũng đã như mang nghĩa tượng trưng, rất có khí phách.

+ Chính hình ảnh về hình hài không lấy gì làm đẹp: "quân xanh màu lá", "không mọc tóc"

tương phản với "dữ oai hùm" là một nét chạm khắc tài tình làm nổi bật chí khí hiên ngang, tinh thần quả cảm xung trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm cho quân giặc phải khiếp sợ.

+ "Dữ oai hùm" là một hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí người lính mang tính kế thừa và sáng tạo của Quang Dũng. Một số ý kiến cho rằng đây là hình ảnh tột đỉnh của sự độc đáo. Ngược lại, một số cho rằng hình ảnh "đoàn binh không tóc" và "dữ oai hùm" là không chân thực, thậm chí còn làm cho hình ảnh anh bộ đội chống Pháp trở nên "quái đản". Cảm nhận thơ như vậy là vừa chưa đúng với đặc trưng của bút pháp lãng mạn, vừa chưa thật hiểu đầy đủ thực tế của cuộc kháng chiến. Thực tế kháng chiến chống Pháp không chỉ những anh bộ đội qua: Lá ngụy trang reo với gió đèo (Lên Tây Bắc – Tố Hữu) mà còn có cả những "anh vệ trọc" nổi tiếng một thời. Cho nên, hình ảnh: "đoàn binh không mọc tóc", "quân xanh màu lá", "dữ oai

(6)

hùm" vừa là một thực tế, vừa là sản phẩm của cảm hứng và bút pháp lãng mạn. Đoàn binh không mọc tóc là hình ảnh đoàn quân bị rụng hết tóc, hậu quả của những cơn sốt rét rừng khi phải sống ở miền rừng thiêng nước độc; quân xanh màu lá nghĩa là đoàn quân có nước da xanh như tàu lá – đây cũng là hậu quả của những cơn sốt rét rừng, do gian khổ và thiếu thốn;

thế nhưng đoàn binh vẫn toát lên vẻ "dữ oai hùm", nghĩa là vẫn dữ tợn như loài hổ báo của rừng xanh. Câu thơ này làm ta liên tưởng tới ý thơ:

Trong hang tối mắt thần khi đã quắc Là khiến cho mọi vật đều im hơi.

(Nhớ rừng – Thế Lữ) Đây là cách ví người hùng theo lối cổ chứ không phải làm xấu đi hình ảnh anh bộ đội như có người đã nghĩ.

+ Âm hưởng đoạn thơ hào hùng do nhấn mạnh tính chất oai phong lẫm liệt của "đoàn binh".

Cách miêu tả chân dung người lính Tây Tiến khiến ta nhớ tới câu thơ của Phạm Ngũ Lão thời Trần cũng miêu tả người tráng sĩ với "hào khí Đông A". Các chiến binh "Sát Thát" đời Trần:

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu (Thuật hoài – Phạm Ngũ Lão); Tì hổ ba quân giáo gươm sáng chói (Bạch Đằng giang phú – Trương Hán Siêu); nghĩa quân Lam Sơn xung trận trong khí thế bình Ngô:

Sĩ tốt kén tay tì hổ

Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh.

(Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi)

=> Một dân tộc anh hùng trên trận tuyến đánh quân thù, thời đại nào cũng có những chiến sĩ

"tì hổ" và "dữ oai hùm" như thế đó! Với niềm tự hào, Quang Dũng đã viết nên một câu thơ rất hay: Quân xanh màu lá dữ oai hùm, lấy cái "thô", cái "mộc" để tô đậm cái đẹp, cái dũng khí ân chứa trong tâm hồn người chiến sĩ.

– Gian khổ, ác liệt, thiêu thốn, bệnh tật... muôn lần khó khăn, thử thách nhưng họ vẫn có những giấc "mơ", giấc "mộng" rất đẹp:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

+ "Mộng" và "mơ" gửi về hai phía chân trời: "biên giới" và "Hà Nội", nơi còn đầy bóng giặc.

"Mắt trừng" – hình ảnh gợi tả nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh táo của người lính trong khói lửa ác liệt. Mộng qua biên giới – mộng tiêu diệt quân thù, bảo vệ biên cương, lập nên bao chiến công nêu cao truyền thống anh hùng của đoàn binh Tây Tiến. Lại có những giấc mơ đẹp. Chiến sĩ Tây Tiến vốn là những học sinh, sinh viên, những chàng trai

(7)

Hà thành xếp bút nghiên theo việc kiếm cung (Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn) giàu lòng yêu nước, phong độ hào hoa:

Từ thuở mang gươm đi giữ nước

Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long.

(Nhớ Bắc – Huỳnh Văn Nghệ) + Sống giữa núi rừng miền Tây, gian khổ, ác liệt, cái chết bủa vây, lửa đạn mịt mù, nhưng các anh vẫn mơ về Hà Nội. Quên sao được những hàng me, hàng sấu, những phố cũ trường xưa, những phố dài xao xác hơi may (Đất nước - Nguyễn Đình Thi)?... Quên sao được những tà áo trắng, những thiếu nữ thương yêu, những "dáng kiều thơm" từng hò hẹn. Có một thời, người ta đã gán cho Tây Tiến những "mộng rớt", "buồn rớt" chính là vì những câu thơ như thế này. Thực ra câu thơ đã diễn tả vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Nguyễn Đình Thi cũng đã diễn đạt rất thành công vẻ đẹp này:

Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

(Đất nước) Khác với nỗi nhớ của người lính trong thơ Nguyễn Đình Thi và các nhà thơ khác. Quang Dũng thể hiện tình cảm của người lính qua giấc mơ, khiến cho nỗi nhớ cũng lãng mạn như chính tâm hồn họ vậy. Giấc mơ đã nâng đỡ tâm hồn con người. Thật sang trọng và hào hoa!

+ Hình ảnh "dáng kiều thơm" trong câu thơ của Quang Dũng đem đến cho người đọc nhiều thú vị: ngôn từ vốn có trong thơ lãng mạn thời "tiền chiến" nhưng dưới ngòi bút nhà thơ – chiến sĩ nó trở nên có hồn, đặc tà chất lính hào hoa, trẻ trung, lãng mạn của người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến trong trận mạc. Nếu người nông dân mặc áo lính trong thơ Chính Hữu mang theo nỗi nhớ giếng nước gốc đa, nhớ mái nhà tranh, nhớ ruộng nương... trong thơ Hồng Nguyên là nỗi nhớ người vợ trẻ: Mòn chân bên cối gạo canh khuya... thì người chiến sĩ trong thơ Quang Dũng, nỗi nhớ gắn liền với "mộng" và "mơ". Mộng lập chiến công để mọi người được sống trong hòa bình và hạnh phúc, mơ "dáng kiều thơm" – sự thi vị, lãng mạn trong tình yêu thương. Hữu Loan trong bài thơ Màu tím hoa sim cũng viết rất hay về nỗi nhớ của người lính chống Pháp:

Từ chiến khu xa Nhớ vê ái ngại

Lấy chồng thời chiến tranh Mấy người đi trở lại Lỡ khi mình không về

Thì thương người vợ bé bỏng chiều quê.

(8)

+ Viết về "mộng" và "mơ" của người chiến binh Tây Tiến, Quang Dũng đã ca ngợi tinh thần lạc quan yêu đời của đồng đội. Đó là một nét khám phá của nhà thơ khi vẽ chân dung anh bộ đội Cụ Hồ xuất thân từ tầng lớp tiêu tư sản trong chín năm kháng chiến chống Pháp.

=> Đâu chỉ có "mộng" và "mơ" mà Quang Dũng còn khắc tạc bức tượng đài bi tráng về người lính Tây Tiến bằng những nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật và tạo được những ấn tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ Quang Dũng.

– Nếu như ở bốn câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một "đoàn binh"

với những bước chân Tây Tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi bật về sự hi sinh của họ:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

+ Trong gian khổ và chiến trận, bao đồng đội đã ngã xuống trên chiến trường miền Tây. Họ nằm lại nơi chân đèo góc núi. Nấm mồ người chiến sĩ nằm "rải rác" ở miền "biên cương".

Câu thơ để lại trong lòng ta nhiều thương cảm, biết ơn, tự hào biết bao. Có thể thấy câu thơ:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ nếu tách riêng ra rất dễ gây cảm giác nặng nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến ở nơi "viễn xứ". Từng chữ, từng chữ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt nhạc buồn của khúc hát về linh hồn của những tử sĩ.

Chẳng phải thế sao? Nói về những nấm mồ, lại là những nấm mồ "rải rác" dễ gợi sự hoang lạnh, lại là "rải rác" nơi "viễn xứ", những nấm mồ ấy càng gợi sự cô đơn côi cút đến quặn thắt cõi lòng. Quang Dũng muốn nói tới nơi yên nghỉ của những người đồng đội:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời!

Câu thơ của Quang Dũng làm ta nhớ tới ý thơ trong tuyệt phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn:

Hồn tử sĩ gió ù ù thổi

Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi Chinh phu tử sĩ mấy người Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn.

+ Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ "rải rác" nơi "biên cương" đã trở về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân, của đất nước. Bởi đó chính

(9)

là nấm mồ của những người con anh dũng: Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh, đã nâng cao chí khí và tầm vóc người lính. Các anh đã ra trận vì một lí tưởng rất đẹp. "Đời xanh" là đời trai trẻ, là tuổi thanh xuân của những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng, hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm (Ngày về – Chính Hữu)... những học sinh, sinh viên Hà Nội. Họ lên đường đầu quân vì nghĩa lớn của chí khí làm trai. Họ quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Câu thơ: Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh vang lên như một lời thề thiêng liêng, cao cả. Các anh quyết đem xương máu để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc.

– Quang Dũng ghi lại cảnh bi tráng giữa chiến trường miền Tây thuở ấy:

Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

+ Các tráng sĩ ngày xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh, còn đối với những người lính Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ, với tấm "áo bào" bình dị ấy: "anh về đất". Một cái chết nhẹ nhàng, thanh thản. Anh ra trận giết giặc vì quê hương. Anh ngã xuống là: "về đất", nằm trong lòng đất mẹ Tổ quốc thân yêu. Nhà thơ không dùng từ "chết", từ "hi sinh" mà lấy cụm từ "về đất" để ca ngợi sự hi sinh cao cả mà bình dị, thầm lặng mà thanh thản, nhẹ nhàng coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. "Về đất" cũng là hòa vào linh hồn đất nước để bất tử cùng hồn thiêng sông núi và trường tồn cùng đất nước.

+ Người chiến binh Tây Tiến đã sống và chiến đấu cho quê hương, đã chết vì đất nước quê hương. "Anh về đất" bằng tất cả tấm lòng chung thủy của người chiến sĩ. Bao nhiêu thương yêu của Quang Dũng trong một câu thơ như vậy về một đồng đội của mình? Ai bảo Quang Dũng không xót thương những người đồng đội của mình ra đi trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận. Lại trong cảnh kháng chiến còn rất khó khăn nên tiễn đưa người chết không có cả một chiếc quan tài. Hoàng Lộc trong Viếng bạn cũng đã viết về cảnh tiễn đưa như thế:

Ở đây không manh ván Chôn anh bằng tấm chăn Của đồng bào Cửa Ngàn Tặng tôi ngày sơ tán.

Chỉ có điều câu thơ của Quang Dũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên thành cảm hứng tráng lệ, coi "chiếu" là "áo bào" để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm, cổ kính. Cũng có người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có, chỉ có chính tấm áo của người lính. Dù hiểu theo cách nào thì cũng phải thấy Quang Dũng đã tráng lệ hóa cuộc tiễn đưa bi thương bằng

(10)

hình ảnh "chiếc áo bào" và sự hi sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông.

+ Tiếng thác sông Mã "gầm lên" giữa núi rừng miền Tây như tiếng kèn trong bài ca Chiêu hồn liệt sĩ tiễn đưa linh hồn liệt sĩ về nơi an giấc ngàn thu. Câu sông Mã gầm lên khúc độc hành là một câu thơ hay vì gợi tả được không khí thiêng liêng, trang trọng, đồng thời tạo nên âm điệu trầm hùng, thương tiếc. Các anh đã hi sinh cho mảnh đất nảy nở đầy thơ, đầy nhạc và cùng với thiên nhiên, linh hồn các anh vẫn hát mãi khúc quân hành.

2.3. Nhận xét và đánh giá

– Đặc sắc của đoạn thơ không chỉ ở thủ pháp đối lập mà còn bộc lộ trong việc dùng từ, đặc biệt là dùng các động từ. Nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét: Nội lực trong cảm hứng thơ Quang Dũng thường dội xuống ở các động từ. Động từ "gầm" trong câu thơ khiến âm hưởng cứ âm vang mãi như dội mãi vào núi rừng miền Tây và ngân lên trong tâm hồn độc giả. Cộng hưởng với các động từ là các từ Hán Việt: "biên cương", "viễn xứ", "chiến trường", "áo bào",

"sông Mã", "khúc độc hành".

– Nhà thơ đã đưa người đọc vào một không gian cổ kính, trang trọng. Tất cả những thủ pháp nghệ thuật đó đã bộc lộ được sự hài hòa giữa cái "bi" và cái "hùng" tạo nên chất "bi tráng"

trong bức tượng đài cao cả về người lính Tây Tiến. Chất bi tráng và màu sắc lãng mạn từ vần thơ tỏa rộng trong không gian và chiều dài lịch sử.

3. Kết bài

– Từ sự kết hợp một cách hài hòa giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kì chống thực dân Pháp.

– Đó là bức tượng đài được kết tinh từ khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn được nhà thơ kết hợp vận dụng sáng tạo trong miêu tả và biểu lộ cảm xúc, tạo nên những câu thơ "có hồn". Người lính đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con anh hùng ấy mãi mãi là một tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc.

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

- Tự ngàn xưa, cái chết đã trở thành nỗi ám ảnh trong tiếng đức con người có người cho rằng chết là hết là chấm dứt hết tẩy bỏ quan niệm rằng buộc với cuộc đời

Từ những lời tự hát tình yêu trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, có ý kiến cho rằng: Sở dĩ bài thơ đi cùng năm tháng là bởi: Sóng đã thể hiện được một tình

Điều cần nhấn mạnh là, trong bối cảnh mới của sự mở rộng hợp tác và giao lưu quốc tế như hiện nay, nhân dân Việt Nam không chỉ bảo vệ độc lập, tự chủ trên

– Bài thơ Từ ấy là bài thơ đánh dấu mốc son quan trọng, có ý nghĩa nhất đối với cuộc đời của nhà thơ, chính giây phút nhà thơ bắt gặp ánh sáng lí tưởng cách mạng

– Đoạn thơ ta sắp phân tích sau đây là đoạn thơ thể hiện quan niệm nhân sinh của Xuân Diệu về thời gian và tuổi trẻ và niềm khao khát được sống mãnh liệt, sống

+ Hình ảnh đoàn binh không mọc tóc không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng mà nét vẽ này xuất phát từ một hiện thực trong cuộc sống của người lính Tây Tiến:

Nhân sự kiện có ý nghĩa lịch sử này, Tố Hữu viết bài thơ để ôn lại một thời kháng chiến gian khổ mà hào hùng, thể hiện nghĩa tình sâu nặng của những người

Hình tượng những người chiến sĩ, nghĩa sĩ trong Tây Tiên và Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đều phải trải qua nhiều đau thương, mất mát, hi sinh: các nghĩa sĩ Cần