• Không có kết quả nào được tìm thấy

Đánh giá của các đơn vị SDLĐ về hiệu quả công tác quản lý thu BHXH bắt

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU BHXH BẮT

2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU BHXH BẮT

2.3.3. Đánh giá của các đơn vị SDLĐ về hiệu quả công tác quản lý thu BHXH bắt

2.3.3. Đánh giá của các đơn vị SDLĐ về hiệu quả công tác quản lý thu BHXH

hiện giao dịch hồ sơ thu, cấp sổthẻBHXH, BHYT qua mạng Internet đảm bảo tính kịp thời, tiết kiệm.

Quy định về căn cứ đóng và thời gian đóng, mức lãi BHXH bắt buộc là hợp lý, các đơn vị SDLĐ đánh giá cao từ3,73– 3,8 điểm.

2.3.3.2.Đánh giá của các đơn vị SDLĐvề hiệu quả thực hiện nghiệp vụ quản lý thu BHXH tại BHXHhuyện Triệu Phong

Bng 2.16: Ý kiến của đơn vịvhiu quthc hin nghip vqun lý thu BHXH ti BHXH Triu Phong

Chỉ tiêu

Đánh giá(%) Giá

trị trung

bình Rất không

đồng ý

Không đồng ý

Bình

thường Đồng ý Rất đồng ý 1. Nghiệp vụ liên quan

đến thu BHXH bắt buộc của đơn vị được cơ quan BHXH thưc hiện nhanh chóng chính xác

0 9,17 27,52 55,06 8,25 3,62

2. Thông báo thường xuyên về tình hình nợ BHXH và lãi chậm đóng BHXH

0 11 49,54 33,04 6,42 3,34

3. Đơn vị được hỗ trợ kịp thời từ phía cơ quan BHXH huyện

0 7,34 33,94 52,30 6,42 3,57

(Nguồn: Sốliệu thu thập năm 2017) Có thểthấy rằng các đơn vịsữdụng lao động đánh giá nghiệp vụquản lý thu BHXH bắt buộc được BHXH huyện Triệu Phong thực hiện khá tốt. Với các tiêu chí đưa ra như: nghiệp vụ thu được thực hiện nhanh chóng, chính xác; được thông báo và nhắc nhở thường xuyên về số nợ và số lãi chậm đóng; được thông báo kịp thời về thay đổi biểu mẫu và quy định liên quan; nhận được hỗ trợ kịp thời từ phía cơ quan BHXH, các đơn vị đánh giá các chỉ tiêu này với số điểm bình quân từ3,34 – 3,62điểm. Trong đó, tiêu chí được thông báothường xuyên vềtình hình nợBHXH và lại chậm đóng có điểm trung bình là 3,34điểm, thấp nhất trong 3 tiêu chí. Vì vậy

Trường Đại học Kinh tế Huế

BHXH huyện cần nắm bắt kịp thời sự về việc thông báo lãi và tình hình nợ động củađơn vị SDLĐ từ đó thông báo và hỗ trợ cho các đơn vị SDLĐ bằng nhiều hình thức nhằm đảm bảo những thông tin liên quan được các đơn vị cập nhật kịp thời, đầy đủ.

2.3.3.3. Đánh giá của các đơn vị sữ dụng lao động về công tác kiểm tra việc thực hiện chính sách BHXH do BHXH huyện Triệu Phongthực hiện:

Bng 2.17. Ý kiến cađơn vị SDLĐvcông tác kim tra vic thc hin chính sách BHXH do BHXH Triu Phong thc hin

Chỉ tiêu

Đánh giá(%) Giá trị

trung bình Rất không

đồng ý

Không đồng ý

Bình thường

Đồng ý

Rất đồng ý 1. Các cuộc kiểm tra

là cần thiết cho đơn vị 0 0 33,94 55,06 11 3,77

2. Thái độ của cán bộ

kiểm tra 0 0 51,37 42,21 6,42 3,55

(Nguồn: Sốliệu thu thập năm 2017) Đánh giá về công tác kiểm tra việc thực hiện chính sách BHXH do BHXH huyện Triệu Phong thực hiện, cácđơn vị được khảo sát cho rằng hiệu quảcủa công tác kiểm traở mức trung bình khá. Vềsựcần thiết của các cuộc kiểm tra, và không ảnh hưởng đến hoạt động của đơn vị được các đơn vị đánh giá với mức điểm bình quân là 3,77điểm; Với chỉ tiêu vềsựhài lòng đối với thái độ của cán bộkiểm tra, cácđơn vị được khảo sát với mức điểm bình quân là 3,55 điểm

Có thểnói rằng công tác kiểm tra tại BHXH huyện Triệu Phong hiện nay vẫn chỉ mang tính xem xét, nhắc nhở là chính, chứ chưa đủ năng lực và thẩm quyền để đưa ra những hình thức xửphạt đối với các đơn vị SDLĐlàm sai.

2.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU BHXH BẮT BUỘCTẠI BẢO HIỄM XÃ HỘI HUYỆN TRIỆU PHONG

2.4.1. Kết quả đạt đượctrong công tác quản lýthu BHXH bắt buộc

Trong thời gian qua BHXH huyện đã tích cực triển khai, tổ chức thực hiện chính sách BHXH, BHYT, luôn coi nhiệm vụ thu đúng, thu đủ, thu kịp thời và

Trường Đại học Kinh tế Huế

giảm nợ tiền đóng BHXH, BHYT là nhiệm vụ hàng đầu của Ngành. Để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, BHXH huyện đã phối hợp với phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, Liên đoàn Lao động huyện việc thực hiện chính sách BHXH, BHYT; phối hợp với UBND huyện chỉ đạo các đơn vị trong huyện tiến hành nhiều giải pháp như: phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng trên địabàn đôn đốc, kiểm tra, chấn chỉnh các đơn vị cố tính né tránh việc tham gia BHXH, BHYT đối với người lao động, khởi kiện các đơn vị nợ, đưa danh sách các đơn vị nợ lên các phương tiện thông tin đại chúng và đềnghị không tôn vinh, khen thưởng các đơn vị còn nợ đóng BHXH. Tại BHXH huyện bộ phận một cửa đã niêm yết rõ ràng, việc giải quyết nghiệp vụ thu luôn được thực hiện kịp thời, đúng thời hạn. Các hồ sơ giải quyết 1 lần, thai sản, ốm đau, tai nạn lao động. Hiện nay, ngành BHXH đã có các phần mềm hổ trợ cho đơn vị SDLĐ thông qua các nhà cung cấp dịch như VNPT, Vittel, BKAV, Eyfe. Các nhà cung cấp dịch vụ hổ trợ cho đơn vị SDLĐ thực hiện công tác khai báo, điều chỉnh hồ sơ tham gia BHXH bắt buộc. BHXH huyện cũng đã tích cực khai thác và mởrộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc bằng việc tiến hành kiểm tra các đơn vị doanh nghiệp chưa đóng BHXH bắt buộc cho NLĐ. Do vậy từ đầu năm 2017 đến nay, số đơn vị SDLĐ tham gia BHXH liên tục tăng, đặc biệt là các đơn vịvừa và nhỏ.

2.4.2. Những hạn chế còn tồn tại

Bên cạnh những kết quả đạt được thì BHXH huyện Triệu Phong còn gặp nhiều hạn chếtồn tại như: Tình trạng né tránh, không khai báo đầy đủ số lao động và mức lương vẫn còn xảy ra ở nhiều đơn vị, đặc biệt là đối với DNNQD. Những LĐ không được khai báo tham gia BHXH thông thường là những người làm việc chưa ổn định, làm công việc tạm thời, hoặc những công việc không nằm trong danh mục lao động chủ yếu của các DN, cá biệt một số đơn vịcốtình trốn tránh tham gia BHXH cho người lao động, đa số là các DNTN, hộ kinh doanh cá thể, công ty TNHH nhỏ có thuê mướn LĐ. Số lượng LĐ tham gia BHXH bắt buộc năm sau có tăng so với năm trước nhưng số lượng DN tham gia vẫn còn thấp so với thực tế.

Trường Đại học Kinh tế Huế

Tình trạng nợ đọng kéo dài vẫn còn xảy raởmột số đơn vị. Do tình hình trong năm 2017 công việc kinh doanh sản xuất của các Doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt là các công ty TNHH xây dựng. Do thực hiện chính sách của Chính phủ thắt chặt lại vần đề xây dựng công và tiết kiệm 10% chi phí trong việc đầu tư xây dựng cơ bản.Chính vì vậy, một số doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn dẫn đến các đơn vị này vẫn trì hoãn, không thực hiện đúng cam kết trả nợ làm cho số nợ đọng ngày một tăng.

2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế

Những hạn chế trên xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan:

2.4.3.1. Nguyên nhân khách quan

Do tình kình kinh tế nhiều biến động và khó khăn dẫn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp không thuận lợi; từ đó nhiều DN nợ BHXH, hay phá sản nhưng vẫn không thanh toán được số nợ nên số nợ liên tục tăng và tỷ lệ nợ ở mức cao.

Chế tài pháp luật về việc thực hiện các quy định, chính sách BHXH vẫn chưa đủ sức răn đe. Tính đến nay vi phạm về BHXH của các đơn vị chủ yếu là dùng hình thức kiểm tra, nhắc nhở; đối với các đơn vị nợ đọng kéo dài, số tiền lớn cơ quan BHXH sẽ tiến hành khởi kiện nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức dân sự. Do vậy, việc châyỳ tiền đóng BHXH hay tình trạng vi phạm về BHXH vẫn thường xảy ra

2.4.3.1. Nguyên nhân chủquan

Do sự hiểu biết về chính sách BHXH và ý thức của NLĐ và người SDLĐ còn thấp. Đối với NLĐ có thể do khó khăn về kinh tế và không nhận thức được sự cần thiết khi tham gia BHXH nên họ sẵn sàng chấp nhận không đóng BHXH, hoặc kí HĐLĐ với mức lương thấp hơn rất nhiều so với thực tế khi thỏa thuận làm việc với người SDLĐ để đóng BHXH với mức thấp. Về phía người SDLĐ, cái mà họ quan tâm nhất là lợi nhuận. Việc đóng BHXH cho NLĐ sẽ làm tăng chi phí cho DN.

Trong khi đó với tình hình kinh doanh nhiều biến động để đảm bảo an toàn, lợi ích cho DN họ sẵn sàng tìm mọi cách tối đa hoá lợi nhuận, tối thiểu hoá chi phí. Từ đó tìm mọi cách né tránh trách nhiệm tham gia BHXH cho NLĐ, khai báo không đúng

Trường Đại học Kinh tế Huế

mức lương, nợ đóng BHXH nhằm chiếm dụng vốn để kinh doanh hoặc sử dụng vào mục đích khác.

Trong các đơn vị ngoài quốc doanh, hoạt động của tổ chức công đoàn chỉ mang tính hình thức, chưa thể là đại diện bảo vệ lợi ích chính đáng của NLĐ. Hơn nữa do nhu cầu việc làm và thu nhập khó khăn nên dù biết là bị thiệt nhưng họ vẫn không đấu tranh với chủ SDLĐ để đòi quyền lợi về BHXH.

Phần mềm quản lý thu còn chưa ổn định, chưa liên thông số liệu trong toàn tỉnh cũng như trên toàn quốc nên không thể quản lý việc tham gia BHXH của NLĐ một cách toàn diện.

Trường Đại học Kinh tế Huế