• Không có kết quả nào được tìm thấy

Công tác thanh tra, kiểm tra tham gia và thực hiện chế độ chính sách BHXH

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU BHXH BẮT

2.2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU BHXH BẮT BUỘC TẠI BHXH

2.2.4. Công tác thanh tra, kiểm tra tham gia và thực hiện chế độ chính sách BHXH

lương đóng BHXH bắt buộc khá lớn là 175.682 triệu đồng với 135 đơn vị SDLĐ nhưng cáckhối HCSN, Đảng, Đoàn với mức lương được quy định bởi Nhà nước, sự biến động lương, tăng giảm lao động không nhiều nên việc quản lý tương đối dễ dàng, ít xảy ra sai sót trong việc xửlý nghiệp vụthu.

Trong khi đó, các DNNN, DNNQD, HTX với mức lương được quy định bởi người SDLĐ nên sựbiến động lương trởnên phức tạp, tình hình laođộng tăng giảm diễn ra thường xuyên, đôi khi với số lượng lớn dẫn đến quá tải công việc. Thêm vào đó, có những đơn vị SDLĐ luôn cố tình lợi dụng kẽ hở để lách luật như kê khai không đúng tiền lương tiền công thực tế cho NLĐ, kê khai không đủ số lượng NLĐ tham gia BHXH hay cố tình lợi dụng truy đóng BHXH để NLĐ hưởng chế độ sai quy định, chậm đóng, nợtiền BHXH. Vì vậy với lực lượng cán bộquá ít trong khi khối lượng công việc lại lớn và phức tạp đã tạo áp lực, khó khăn cho các cán bộ làm công tác quản lý thu BHXH bắt buộc.

2.2.4. Công tác thanh tra, kiểm tra tham gia và thực hiện chế độ chính sách

Bng 2.9. Tình hình kim tra công tác thu và thc hin chế độBHXH bt buc các đơn vị SDLĐ của BHXH huyn Triêu Phonggiai đoạn 2014 - 2016

Đơn vị tính: đơn vị SDLĐ

Năm

Hình thức 2014 2015 2016

Kiểm tra định kỳ 15 18 25

Kiểm tra đột xuất 6 10 15

Kiểm tra liên ngành 8 12 19

Tổng cộng 29 40 59

(Nguồn: BHXH huyện Triệu Phong) Thực hiện theo Công văn của BHXH Việt Nam hàng năm phải thực hiện thanh kiểm tra trên 50% đơn vị SDLĐ. Trong đó đặc biệt chú trọng đến các doanh nghiệp vì các đơn vị này rất dể xẩy ra tình trạng lạm dụng, trục lợi các chính sách BHXH, và né tránh trong việc tham gia đóng BHXH bắt buộc cho người lao động.

Nhìn vào bảng trên ta thấy BHXH huyện Triệu Phong đã có kếhoạch và thực hiện kiểm tra các đơn vị SDLĐ tăng qua các năm. Điều này khẳng định BHXH huyện ngày càng chú trọng đến công tác kiểm tra và tầm quan trọng của hoạt động này. Vì công việc thanh tra, kiểm tra đơn vị SDLĐ hàng năm không những giúp đơn vịlàm tốt hơn, mà còn tuyên truyền cho các đơn vị SDLĐ về các chính sách BHXH nắm rỏquyđịnh của Luật BHXH.

Thực tế ởcấp huyện BHXH không có chức năng kiểm tra như BHXH tỉnh có phòng Kiểm tra riêng biệt. Vì vậy, căn cứ vào tình hình cụthể ở đơn vịvà kếhoạch kiểm tra của BHXH tỉnh, BHXH huyện Triệu Phongđã phối hợp với các cơ quan, ban ngành liên quan để thực hiện các cuộc kiểm tra định kì hoặc đột xuất. Qua quá trình kiểm tra cũng đã phát hiện nhiều sai sót và sai phạm của đơn vị SDLĐ, từ đó kiến nghị đơn vị khắc phục, sửa chữa. Tuy nhiên, do nguồn nhân lực còn hạn chế, BHXH huyện chỉ có những cán bộchuyên môn kiêm nhiệm, chưa được qua đào tạo

Trường Đại học Kinh tế Huế

vềnghiệp vụthanh tra, kiểm tra. Do vậy, hiệu quả công tác chưa cao,còn mang tính hình thức. Tại thời điểm năm 2015, cơ quan BHXH chỉcó chức năng kiểm tra chưa được phép thanh tra và xử phạt; vì vậy, vẫn chưa đủ sức răn đe. Các cuộc kiểm tra được xây dựng theo nội dung sẵn có, chỉ nhằm nhắc nhởđơn vị việc thu nộp BHXH đúng quy định và việc giải quyết, thanh toán chế độ cho NLĐ. Chủ yếu tập trung kiểm tra tại cácđơn vịlớn, đơn vịcó nợ đọng để đốc thúc người SDLĐ đóng BHXH đầyđủ.

Bng 2.10. Stin truy thu BHXH bt buc ticác đơn vị SDLĐ của BHXH huyện Triêu Phong giai đoạn 2014 - 2016.

Đơn vịtính: Triệu đồng

Sốtiền bị truy thu

Hình thức 2014 2015 2016

Doanh nghiệp 75 80 60

Hành chính sựnghiệp 20 10 6

Xã, Phường thịtrấn 0 0 0

HTX 12 5 0

Tổng cộng 107 95 66

(Nguồn: BHXH huyện Triệu Phong) Với chức năng quyền hạn của BHXH huyện không ra được Quyết định thù hồi tiền sau khi kiểm tra phát hiện đơn vị SDLĐ lạm dụng, trục lợi thu BHXH bắt buộc.

Tuy nhiên trong giai đoạn 2014 - 2016 BHXH huyện Triệu Phong đã có công văn xin chỉ đạo của BHHX tỉnh Quảng Trị thành lập đoàn kiểm tra các đơn vị SDLĐ trên địa bàn. Đã phát hiện và truy thu tiền tham gia BHXH bắt buộc tại các đơn vị lạm dụng, trục lợi quỹBHXH.

Cụ thểthông qua Bảng 2.10 trong năm 2014 là số tiền bị truy thu là 107 triệu động và có sự giãm dần qua các năm 2015 là 95 triệu đồng và năm 2016 còn 66 triệu đồng. Qua đó cho thấy các đơn vị SDLĐ trên địa bàn đã có bước chuyển biến

Trường Đại học Kinh tế Huế

tốt trong công tác thu BHXH bắt buộc và có ý thức hơn trong công tác đóng BHXH bắt buộc. Tránh lợi dụng việc đóng BHXH đểmóc tiền ngân sách của nhà nước.

Tuy nhiên, loại hình Doanh nghiệp do không có sự quản lý tốt của các Giám đốc doanh nghiệp, đã lợi dụng vào chính sách của nhà nước cho các đối tượng không được đóng BHXH bắt buộc, hoặc thuộc diện được đóng BHXH bắt buộc nhưng làm hồ sơ khai khống, cấy sổ BHXH, gởi sổ BHXH cho đơn vị để trục lợi quỹ BHXH trong năm 2016 là 75 triệu đồng trong năm 2015 có tăng lên 80 triệu tuy nhiên đã giảm đi trong năm 2016 còn 60 triệu đồng bị tru thu giảm 20 triệu đồng. Đây là bước tiến quan trong qua đó các Doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp mang tính chất gia đìnhđã hiểu rỏ hơn vì Luật BHXH, các đối tượng được tham gia BHXH bắt buộc.

Bng 2.11. Tình hình thc hin gii quyết hồ sơ tham giaBHXH bt buc ti BHXH Triệu Phong giai đoạn 2014 - 2016

ĐVT: hồ sơ

TT Loại hình

Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016

Hồ

Vi phạm hồ sơ

đóng BHXH

Tỷ lệ (%)

Hồ

Vi phạm hồ sơ

đóng BHXH

Tỷ lệ (%)

Hồ

Vi phạm hồ sơ

đóng BHXH

Tỷ lệ (%)

1 DNNN 29 3 10.3 40 6 15 45 8 17.8

2 DNNQD 36 4 11.2 51 10 19.3 68 9 13.2

3 HS, Đảng,

Đoàn 120 0 0 145 0 0 175 2 1.1

4 HTX 4 0 0 8 1 12.5 7 0 0

5 Xã, phường thị trấn

8 0 0 12 0 0 26 2 7.7

Tổng 197 7 3.6 256 17 6.6 321 21 6.5

(Nguồn: BHXH huyện Triệu Phong)

Trường Đại học Kinh tế Huế

Qua phân tích bảng trên ta thấy trong khối loại hình Doanh nghiệp có tình trạng có làm dụng làm hồ sơ tham gia đóng BHXH. Trong năm 2014 chỉcó 7 hồ sơ sai thì trong năm 2015 lên đến 16 hồ sơ sai chiếm tỷlệcao. Do các doanh nghiệp có khai khống hệ số lương, hay người lao động không làm việc, không có trong danh sách tham gia lương tại đơn vị. Nhưng mà ghép, cấy hồ sơ để trục lợi chính sách thai sản của người lao động. BHXH huyện đã kết hợp với các ban ngành thực hiện các biện pháp đểxửlý trảlại công bằng cho người lao động. Trong khối Đảng, đoàn thểthì tỉ lệhồ sơ sai ít do các đơn vị nắm rỏ các chính sách BHXH, người lao động là các Công chức, viên chức nên đã hiểu rỏ về các chính sách BHXH. Tuy nhiên, việc kiểm tra hiện nay chỉ mang tính hình thức chứ chưa áp dụng biện pháp xửphạt nên khôngđủsức răn đe. Đối với cácđơn vịnợ đọng kéodài, các đơn vịtrục lợi chế độBHXH mới chỉ có hình thức là nhắc nhởvà thu hồi.

Hiện nay việc kê khai tham gia BHXH rất đơn giản và quyền lợi của NLĐ khi tham gia BHXH là rất lớn. Vì vậy nhiều đối tượng và tổchức đã lợi dụng kẽhởnày đểgian lận đóng không đủquá trình tham gia BHXH, hay khôngđúng số lượng LĐ nhằm giảm chi phí hay hưởng lợi từviệc thanh toán chế độ. Những trường hợp này phần lớn chỉ được phát hiện khi đơn vịlập chứng từthanh toán chế độ cho NLĐ và thường xảy ra đối với loại hình DNTN hay công ty TNHH với quy mô nhỏ, lẻ. Khi phát hiện trường hợp nghi vấn, BHXH huyện sẽ tạm ngưng thanh toán chế độ và tiến hành kiểm tra xác minh thực tế tại đơn vị. Nếu khẳng định là gian lận sẽtiến hành lập biên bản hủy quyết định thanh toán chế độvà hoàn tác nghiệp vụtham gia BHXH của NLĐ.

Có thể thấy rằng công tác kiểm tra tại BHXH huyện Triệu Phong tuy có sự tiến bộ nhưng hiệu quảvẫn chưa cao, mang tính hình thức và chỉdừng lại ởmức độ cảnh cáo, nhắc nhở nên chưa đủ sức răn đe và khắc phục triệt đểtình trạng nợđọng, gian lận trong quá trình thực hiện BHXH.

Trường Đại học Kinh tế Huế

2.2.5. Kết quả thực hiện thu BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Triệu Phong