• Không có kết quả nào được tìm thấy

Kết quả chụp động mạch vành

CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN

4.1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG

4.1.2. Kết quả chụp động mạch vành

tỷ lệ hết triệu chứng khó thở (93,8% so với 100%; p=0,009). Tuy nhiên, DoCE là 6,25% (1 ca), không có sự khác biệt với nhóm không NMCT.

Trong nghiên cứu ISAR-Absorb AMI, với 262 bệnh nhân NMCT chia làm hai nhóm BVS và EES. Sau 12 tháng theo dõi, tỷ lệ DoCE là 6,7%; tỷ lệ huyết khối trong stent là 1,7%. Nghiên cứu BVS EXAMINATION với 580 bệnh nhân NMCTSTCL cho thấy tỷ lệ DoCE sau 12 tháng là 4,1% [142].

Nghiên cứu RAI khi so sánh nhóm NMCTSTCL với nhóm không phải NMCTSTCL khi đặt stent Absorb cho thấy các biến cố tim mạch là tương đương, dù tỷ lệ huyết khối trong stent nhóm NMCTSTCL có cao hơn nhưng không có ý nghĩa thống kê (2,5% so với 1,3%, p=0,1) [143].

quả tương đương OCT, và OCT không có giá trị tiên lượng huyết khối trong stent Absorb sau 6 tháng. Các nghiên cứu và ý kiến chuyên gia cũng cho thấy có thể thực hiện can thiệp stent tự tiêu dưới hướng dẫn của QCA [151]. Tỷ lệ QCA trong can thiệp đặt stent Absorb khá cao ở nhiều nghiên cứu: 99,6%

(Absorb China) [118].

Nghiên cứu của chúng tôi dù chỉ sử dụng QCA hướng dẫn can thiệp, tuy nhiên vì có tỷ lệ bóng nong chuẩn bị (97,5%), bóng nong thêm (98,8%) và tỷ lệ sử dụng kỹ thuật PSP (62,5%) lớn nên thời gian kéo dài. Ngược lại, tỷ lệ tổn thương típ A, B1, B2 lớn (91,2%) và tổn thương ngắn chỉ đặt một stent (100%) lại giúp rút ngắn thời gian thủ thuật.

4.1.2.2. Lượng cản quang sử dụng

Lượng cản quang được sử dụng trung bình là 151,044,03 ml. Theo các nghiên cứu thì can thiệp với stent tự tiêu sẽ sử dụng lượng cản quang nhiều hơn có ý nghĩa thống kê so với can thiệp bằng DES [149].

Nguyên nhân là do Absorb không cản quang nên khó nhìn thấy trong quá trình can thiệp, cần chụp nhiều để xác định vị trí stent. Hơn nữa, do stent là khung polymer mềm nên trong quá trình can thiệp stent tự tiêu cần các kỹ thuật chuẩn bị tổn thương kỹ, lựa chọn stent kỹ và nong bóng thêm đầy đủ làm cho lượng cản quang sử dụng sẽ nhiều hơn.

Tỷ lệ nong bóng chuẩn bị, nong bóng thêm và PSP trong nghiên cứu của chúng tôi lớn cũng như việc sử dụng QCA hướng dẫn can thiệp cũng làm lượng cản quang sử dụng nhiều hơn những trường hợp IVUS hay OCT hướng dẫn can thiệp. Như nghiên cứu Absorb III, tỷ lệ IVUS và OCT sử dụng nhiều; lượng cản quang là không khác biệt giữa nhóm Absorb và EES [150].

4.1.2.3. Đặc điểm tổn thương động mạch vành 4.1.2.3.1. Vị trí tổn thương thủ phạm

Tổn thương thủ phạm hay gặp nhất trong nghiên cứu của chúng tôi là động mạch liên thất trước LAD (64,6%). Tỷ lệ này cao so với các nghiên cứu khác. Tỷ lệ tổn thương được đặt BVS là LAD ở các nghiên cứu đã tiến hành cũng khá cao như Daniel (42%) [75], Khamis (46,4%) [133], Absorb China (55,4%) [118], Absorb Japan (46,2%) [115], Absorb III (44,5%) [134].

Các nghiên cứu với BVS cho thấy một trong các vị trí tổn thương được ưu tiên đặt BVS là LAD so với stent kim loại, nhất là đoạn giữa LAD. Lý do là về lâu dài có thể giải phóng khung kim loại và là vị trí để làm cầu nối động mạch vú trong nếu có tổn thương đoạn gần nặng và phức tạp (thân chung, chỗ chia đôi thân chung và đoạn gần LAD) [75].

Nghiên cứu IT-DISAPPEARS lại chỉ ra tổn thương thủ phạm tại LAD cùng với tổn thương nhiều mạch, dài, chỗ chia đôi động mạch vành là các yếu tố tiên lượng độc lập làm tăng DoCE [122].

4.1.2.3.2. Đường kính mạch thủ phạm

Trong nghiên cứu của chúng tôi, toàn bộ các bệnh nhân đều có đường kính mạch thủ phạm lớn hơn 2,5mm với đường kính lòng mạch tham chiếu trung bình là 3,530,32mm. Trong các nghiên cứu đã tiến hành với Absorb thì đường kính lòng mạch tham chiếu mạch thủ phạm nhỏ hơn nghiên cứu của chúng tôi: 3,10,4mm (Ganeshkumar và cs), 2,810,03mm (Absorb China), 2,670,03mm (Absorb III), 2,760,45mm (Absorb Japan) [135], [118], [119], [134].

Theo y văn, định nghĩa mạch vành nhỏ không hoàn toàn thống nhất, với đường kính tham chiếu động mạch vành (trên QCA) thường < 2,75mm (dao động từ 2,5-3,0mm) hoặc đường kính stent đặt tại tổn thương <2,5mm. Một

số tác giả khác đưa ra định nghĩa mạch vành rất nhỏ với đường kính tham chiếu động mạch vành ≤ 2,25mm.

Kích thước mạch thủ phạm nhỏ đặc biệt là mạch vành rất nhỏ là yếu tố liên quan độc lập làm tăng MACE và huyết khối trong stent của stent tự tiêu nói chung và stent Absorb nói riêng khi so sánh với stent kim loại có phủ thuốc [119], [134]. Nguyên nhân là do kích thước mắt stent Absorb lớn và chất liệu polymer mềm và yếu hơn stent kim loại, do đó stent không nở tốt và áp sát thành mạch làm cho đường kính lòng mạch hiệu dụng sau can thiệp còn bé hơn nữa đặc biệt trên các mạch nhỏ [152].

Chính vì thế, khuyến cáo của nhà sản xuất Abbott (Hoa Kỳ) là chống chỉ định đặt stent Absorb cho mạch vành có đường kính tham chiếu <2,5mm [153].

4.1.2.3.3. Chiều dài mạch thủ phạm

Các bệnh nhân trong nghiên cứu đều có tổn thương tương đối ngắn với dài trung bình tổn thương thủ phạm là 20,94,49mm. Hầu hết các nghiên cứu lớn có tổn thương ngắn hơn nghiên cứu của chúng tôi như: 13,55,28mm (Absorb Japan), 14,10,32mm (Absorb China), 12,65,4mm (Absorb III).

Các nghiên cứu với DES đều cho thấy tỷ lệ MACE ở những tổn thương ngắn thấp hơn so với tổn thương dài. Trong khi MACE của DES lại thấp hơn so với BVS.

Reichart và cộng sự nghiên cứu vai trò của PSP đối với can thiệp BVS cho tổn thương ngắn <20mm và tổn thương dài ≥20mm cho thấy nhóm tổn thương dài có DoCE cao hơn sau 12 tháng theo dõi (8,09% so với 2,63%;

p=0,013).

Nghiên cứu FRANCE ABSORB cho thấy tổng chiều dài stent >30mm là yếu tố tiên lượng độc lập làm tăng 2,07 lần MACE và tăng 3,11 lần huyết khối trong BVS sau 1 năm theo dõi [116].

Một số nghiên cứu tổng hợp cho thấy với những tổn thương dài, đặc biệt là tổn thương >60mm và/hoặc có gối 2 BVS thì làm tăng các biến cố tim mạch do tăng sinh nội mạc tân tạo hoặc nguy cơ huyêt khối trong stent. Trong khi đó hầu hết các nghiên cứu với kết cục lâm sàng chính tốt đều được thực hiện trên những tổn thương đơn giản, ngắn [154].

4.1.2.3.4. Số nhánh tổn thương

Tất cả (100%) bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi có có một tổn thương trên một nhánh động mạch vành.

Các nghiên cứu đã được tiến hành cho thấy tổn thương nhiều mạch vành là một yếu tố tiên lượng độc lập làm tăng biến cố tim mạch của BVS. Như trong nghiên cứu IT-DISAPPEARS, tổn thương nhiều mạch vành làm tăng 1,76 lần biến cố tim mạch liên quan đến bệnh nhân (POCE) với p=0,004 [122], [154], [155].

4.1.2.3.5. Mức độ phức tạp của tổn thương

Đặc điểm chung của các tổn thương trong nghiên cứu là ngắn, đơn giản.

Típ tổn thương A hoặc B1 là 80%. So với các nghiên cứu thì tỷ lệ tổn thương đơn giản trong nghiên cứu của chúng tôi là lớn hơn [133], [115], [118]. Tuy nhiên không có sự khác biệt về kết quả can thiệp QCA cũng như MACE khi so sánh với típ tổn thương phức tạp hơn là B2 hoặc C trong nghiên cứu.

Trong nghiên cứu Absorb III, khi so sánh với nhóm DES, thì nhóm BVS có tỷ lệ biến cố tương đương ở phân nhóm tổn thương phức tạp (B2+C) trong khi tỷ lệ biến cố lại nhiều hơn ở phân nhóm có tổn thương đơn giản (A+B1) [118].

Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ tổn thương chỗ chia đôi khá lớn (47,5%). Toàn bộ các tổn thương (100%) được thực hiện kỹ thuật đặt 1 stent

nhánh chính. Kỹ thuật sử dụng thêm chỉ có tối thiểu: dây dẫn bảo vệ nhánh bên (50%), nong nhánh bên (7,9%).

Kết quả tức thời cho thấy không có trường hợp nào bị mất nhánh bên, theo thời gian cũng không có trường hợp nào mất nhánh bên hoặc tái hẹp đáng kể nhánh bên. Kết quả theo dõi theo thời gian cho thấy không có sự khác biệt về MACE so với nhóm không có tổn thương chỗ chia đôi.

Trong thực hành can thiệp, có khoảng 20-23% số bệnh nhân tổn thương chỗ chia đôi động mạch vành. Các stent tự tiêu có mắt stent dày và tỷ lệ stent/mạch lớn do đó có những lo ngại về việc mất nhánh bên sau can thiệp.

Nhiều kỹ thuật đặt hai stent tự tiêu được thực hiện nhưng vì không đạt được kết quả tối ưu nên thực hành vẫn ưu tiên phương pháp đặt một stent. Nếu lựa chọn đặt 2 stent tự tiêu thì kỹ thuật T cải tiến được ưu tiên hơn. Một số kỹ thuật phối hợp cũng cho những kết quả ban đầu đáng khích lệ tuy nhiên cần những nghiên cứu với số lượng lớn và thời gian dài hơn [157], [158], [159].

4.1.2.4. Kỹ thuật can thiệp động mạch vành 4.1.2.4.1. Nong bóng chuẩn bị (pre-dilatation)

Trong nghiên cứu của chúng tôi, các tổn thương động mạch vành được nong bóng chuẩn bị trong 97,5% trường hợp. Tỷ lệ các ca được nong bóng chuẩn bị khá tương đồng với các nghiên cứu với Absorb đặc biệt là các nghiên cứu gần đây khi các kỹ thuật đặc hiệu cho BVS được áp dụng một cách thường quy và chặt chẽ hơn [161].

Áp lực lên bóng trung bình là 12,463,25atm, tương tự các nghiên cứu khác như: 12,43,3atm (Absorb China), 11,63,8atm (Absorb Japan), [115], [118], [161]. Áp lực sử dụng thường là đúng áp lực chính danh của bóng không giãn.

Chuẩn bị tốt tổn thương bằng nong bóng trước khi đặt stent phù hợp với các nghiên cứu cũng như các hướng dẫn quy trình đặt stent tự tiêu [25]. Do stent tự tiêu ABSORB có khung là polymer nên sức chống đỡ (radial strength) yếu hơn stent kim loại chính vì thế tổn thương cần được nong kỹ để đảm bảo stent nở tối ưu. Hơn nữa, kích thước của hệ thống vận chuyển stent Absorb lớn, do đó khi chuẩn bị kỹ cũng giúp đưa stent đến đúng vị trí tổn thương thủ phạm.

Chính vị vậy, tỷ lệ đưa stent Absorb đến đúng tổn thương của nghiên cứu là 100%.

Một số tác giả cho rằng, nong bóng chuẩn bị tốt có vai trò quan trọng trong làm giảm co hồi stent tự tiêu sau can thiệp. Hẹp tồn lưu ≥20% sau nong bóng chuẩn bị làm tăng độ co hồi cấp sau can thiệp của stent tự tiêu trong khi stent kim loại không có hiện tượng này [162]. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy độ hẹp tồn lưu sau nong bóng chuẩn bị là 22,34  10,31 (%). Khi so sánh giữa hai nhóm hẹp tồn lưu sau nong bóng chuẩn bị ≥20% và <20% đường kính lòng mạch thì không thấy sự khác biệt về đường kính lòng mạch tối thiểu sau can thiệp hay mức độ mở rộng lòng mạch tức thời.

Các tổn thương nên tránh đặt Absorb trực tiếp là tổn thương dài, típ C và có mảng xơ vữa lớn do stent đưa vào có kích thước lớn nên khó đưa đến tổn thương nếu không được nong chuẩn bị đầy đủ từ trước [164].

Trong hội chứng vành cấp, khi đường kính tham chiếu mạch lớn và tổn thương xơ vữa mềm giúp stent tự tiêu có thể áp sát thành mạch do đó không cần thiết phải chuẩn bị kỹ tổn thương trước khi đặt stent mà trong một số trường hợp có thể đặt stent trực tiếp. Tuy nhiên trong nhiều nghiên cứu vẫn tiến hành thường quy nong bóng chuẩn bị cho các bệnh nhân HCVC với tỷ lệ cao (90-100% các ca) khi cân nhắc lợi ích của chuẩn bị kỹ tổn thương cao hơn các nguy cơ của huyết khối hay mảnh xơ vữa bắn đi gây tắc mạch đoạn xa [17], [136], [161].

Đối với NMCTSTCL, có thể đặt stent trực tiếp mà không cần nong bóng chuẩn bị với tỷ lệ thành công 100% và kết quả can thiệp trong bệnh viện cũng như theo dõi trung hạn tốt [163]. Nghiên cứu của Lukasz và cộng sự với 91 bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp trong đó có 50 ca được đặt Absorb trực tiếp cho thấy tỷ lệ thành công lên được stent tại tổn thương là chấp nhận được khi so với nhóm chứng (91% so với 98%) [164].

4.1.2.4.2. Lựa chọn kích thước stent

Số ca lựa chọn stent đạt tiêu chuẩn (theo PSP) là 61 ca (76,3%). Để lựa chọn đúng kích thước stent Absorb theo các “Kỹ thuật đặc hiệu cho stent tự tiêu” như 5Ps, PSP... thì các nghiên cứu nói chung đều khuyến cáo sử dụng các biện pháp chẩn đoán hình ảnh xâm nhập để hướng dẫn can thiệp như IVUS hay OCT [165], [166], [167]. Tuy nhiên trong nghiên cứu, chúng tôi chỉ dựa vào hình ảnh QCA chụp động mạch vành và đối chiếu kích thước bóng nong chuẩn bị để lựa chọn kích thước stent phù hợp và để hướng dẫn can thiệp đặt stent Absorb.

Có 100% các bệnh nhân được đặt 1 stent nên chúng tôi không có ca nào đặt stent gối nhau hay tổng chiều dài stent lớn >30mm, là các yếu tố làm tăng nguy cơ huyết khối và DoCE [116].

Áp lực stent trung bình trong nghiên cứu là 11,482,97atm. Áp lực này cũng tương đương áp lực lên stent của các nghiên cứu như: 13,91,6atm (Australian ESHC-BVS), 10,43,0atm (Absorb Japan), 12,82,4atm (Absorb China) [118], [115], [161]. Nghiên cứu của Sorrentino cho thấy khi lên bóng stent ở áp lực 12atm và giữ >30 giây sẽ giúp nở stent tối ưu và giúp giảm hẹp tồn dư sau can thiệp BVS [168].

4.1.2.4.3. Nong bóng thêm (post-dilation)

Tỷ lệ nong bóng thêm sau đặt stent trong nghiên cứu của chúng tôi là 98,8%, trong đó nong bóng đạt tiêu chuẩn PSP là 85%. Áp lực lên bóng nong thêm trung bình là 19,343,43 (atm), tương đương với các nghiên cứu khác:

19,64,6atm (Australian ESHC-BVS), 16,83,8atm (Absorb China), 15,54,2atm (Absorb Japan), [118], [115], [161].

BVS có mắt stent lớn (156µm) so với các DES cùng thế hệ. Trong những năm gần đây, thì kỹ thuật tối ưu stent BVS thường bao giờ cũng có nong bóng thêm áp lực cao với bóng không giãn. Điều này sẽ giúp mở rộng lòng mạch vành và làm mắt stent ăn sâu vào nội mạc mạch vành. Các nghiên cứu trước đây như Absorb II hay Absorb III không sử dụng bóng áp lực cao mà thường lên stent với áp lực vừa phải, giải thích tỷ lệ huyết khối trong stent cao theo thời gian [166].

Các tác giả cũng cho rằng bảng áp lực đi cùng stent thường đánh giá quá mức các kích thước lên stent do được nghiên cứu và đưa ra dựa trên các thí nghiệm invitro mà không dựa trên đáp ứng và sức co thực tế của mạch máu.

Chính vị thế khi stent được làm nở bằng bóng thường (semi-compliant balloon) ở áp lực cao sẽ làm tách thành mạch hai đầu stent, vỡ mạch vành và tổn thương nội mạc dẫn đến đáp ứng viêm và làm tăng tái hẹp. Do đó dùng bóng nong thêm không giãn áp lực cao không những phù hợp về sinh lý mạch mà còn an toàn về kỹ thuật hơn [169].

Chính vì thế, sử dụng IVUS hay OCT hướng dẫn can thiệp, nong bóng chuẩn bị, lựa chọn kích thước stent phù hợp và đặc biệt nong bóng thêm với bóng không giãn 0,25-0,5mm lớn hơn đường kính mạch ở áp lực cao 18-20atm sẽ giúp BVS nở tối ưu, áp sát, mở rộng lòng mạch và làm mắt stent “chìm” vào

nội mạc mạch vành. Tất cả những điều trên sẽ giảm huyết khối trong stent và cải thiện kết cục [166].

Tuy nhiên, bóng không giãn cũng có những nhược điểm: có thể gây tách thành động mạch vành hai đầu stent, vỡ mạch vành, biến dạng hoặc gẫy stent, mât nhánh bên dẫn đến tăng tái hẹp. Trong các bệnh nhân nghiên cứu chúng tôi có một ca can thiệp NMCT cấp do tắc đoạn xa động mạch vành phải (nhánh PLV). Sau khi nong bóng thêm với bóng không giãn ở áp lực cao 20atm thì mạch vành đầu xa stent bị tách thành, tuy nhiên sau khi được nong bóng áp không giãn áp lực vừa phải trong 5 phút thì đoạn mạch vành bị tách thành liền lại và ổn định khi chụp lại động mạch vành 10 phút sau.

Trong một số nghiên cứu, đối với các tổn thương không quá phức tạp (típ A, B1) thì nong bóng thêm không làm giảm MACE theo thời gian so với nhóm chứng [170].

4.1.2.4.4. Kỹ thuật PSP

Trong số các bệnh nhân nghiên cứu, “Kỹ thuật đặc hiệu cho stent tự tiêu”

hay PSP được thực hiện trên 50 ca (62,5%). Như vậy, tỷ lệ PSP chúng tôi thực hiện trong nghiên cứu khá cao so với nhiều nghiên cứu khác. Kỹ thuật này giúp tăng khả năng nở tối ưu, mở rộng lòng mạch tức thời, giúp áp sát stent tự tiêu, giúp giảm nguy cơ hình thành huyết khối trong stent và các biến cố lâu dài [71], [171], [172].

Trong nghiên cứu của chúng tôi, đường kính lòng mạch tối thiểu ngay sau can thiệp của nhóm PSP cao hơn đáng kể so với nhóm không PSP (3,55  0,31mm so với 3,32  0,31mm, p=0,013). Tuy nhiên, các thông số còn lại đều không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm trên.

Bảng 4.2. Kết quả chụp động mạch vành

Thông số Chúng tôi Absorb China

Absorb Japan

Absorb III

Tổn thương LAD (%) 63,8 55,4 46,2 44,5

Tổn thương chỗ chia đôi (%) 47,5 50,2 0 0

Tip A+B1 (%) 80 25,1 24 31,3

ĐK mạch tham chiếu (mm) 3,53 2,81 2,72 2,67 ĐK lòng mạch tối thiểu (mm) 0,54 0,98 0,96 0,92 Phần trăm hẹp lòng mạch (%) 88,5 65,3 64,6 65,3 Chiều dài tổn thương (mm) 21 14,1 13,5 12,6

Nong bóng chuẩn bị (%) 97,5 99,6 100 100

Nong bóng thêm (%) 98,8 63 82,2 65,5

Kỹ thuật PSP (%) 62,5 78,2

Thời gian thủ thuật (phút) 41 42,2

Trong một số nghiên cứu, PSP giúp giảm biến cố tim mạch so với khi không sử dụng PSP (4,2% so với 26%; p=0,001), và PSP là yếu tố tiên lượng độc lập sống còn sau 2 năm theo dõi [173]. Trong nghiên cứu ABSORB II, PSP áp dụng cho cả hai nhóm đái tháo đường và không đái tháo đường thì tỷ lệ huyết khối trong stent chung là 0,5%; 0,8%; 1,4% sau lần lượt 12, 24 và 36 tháng. Tuy nhiên, DoCE ở nhóm đái tháo đường cao hơn nhóm không đái tháo đường tại thời điểm 24 tháng (12,6% so với 5,6%; p=0,05) [131].

Một nghiên cứu đa trung tâm trên bệnh nhân thực cho thấy khi thực hiện PSP thì tỷ lệ huyết khối sau 1 năm là thấp (0,5%) và vẫn ổn định (0,7%) sau 4 năm theo dõi, trong khi TLF cộng dồn là 3,0% - 6,0% - 7,8% - 12,2%

[174]. Trong một phân tích tổng hợp cho thấy PSP giúp giảm tỷ lệ huyết khối

cho Absorb từ 0,95% xuống còn 0,35% khá tương đương tỷ lệ huyết khối của các DES thế hệ mới là 0,33-0,50% [85].

Tuy nhiên, kể cả khi dùng PSP thì kết quả cũng khác nhau trên các tổn thương khác nhau. Một nghiên cứu so sánh hiệu quả của PSP trên động mạch vành có tổn thương ngắn (<20mm) và động mạch vành tổn thương dài (≥20mm) cho thấy sau 36 tháng theo dõi thì tổn thương dài có tỷ lệ biến cố liên quan đến stent cao hơn có ý nghĩa (9,59% so với 4,96%, p=0,01). Dù vậy, tỷ lệ huyết khối là thấp và tương đương giữa hai nhóm [175]. Tuy nhiên kể cả trong nghiên cứu AIDA với hầu hết bệnh nhân được thực hiện PSP (98,6%) tuy nhiên sau 2 năm, tỷ lệ huyết khối vẫn cao 3,5% trong khi mạch nhỏ <2,25, hay một số yếu tố khác lại không liên quan đến vấn đề này [176]. PSP cũng cho làm giảm các biến cố liên quan đến tổn thương so với nhóm chứng trên bệnh nhân có hội chứng vành cấp sau thời gian dài hạn [177].

Trong thực hành lâm sàng, 60% bác sĩ can thiệp khẳng định có sử dụng PSP trong 100% ca can thiệp bằng stent tự tiêu, trong khi 29% sử dụng trong

>75% số ca. Có 77% khẳng định tất cả các bước PSP đều quan trọng, trong khi 9% cho rằng chỉ đo đạc chính xác kích thước mạch và nong bóng thêm là cần thiết, 8% cho rằng chỉ cần nong bóng chuẩn bị và 5% chỉ nong bóng thêm. Có 91% bác sĩ cũng cho rằng PSP có thể cải thiện kết quả can thiệp [178].

4.2. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SỚM VÀ TRUNG HẠN (SAU 12 THÁNG) CỦA STENT TỰ TIÊU ABSORB