• Không có kết quả nào được tìm thấy

PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ CHO VAY

1.1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VẦ HOẠT ĐỘNG CHO

1.1.3 Khái niệm, đặc điểm, vai trò về cho vay khách hàng cá nhân của NHTM

1.1.3.1 Khái nim cho vay khách hàng cá nhân

Khoản 16 điều 4, Luật các tổ chức tín dụng số47/2010/QH 12 ngày 16/06/2010 định nghĩa “Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền đểsửdụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”.

Như vậy, có thể hiểu “Cho vay cá nhân là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng cá nhân một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”.

1.1.3.2Đặc điểm cho vay khách hàngcá nhân Đối tượng cho vay là cá nhân, hộ gia đình.

Quy mô khoản vay nhỏ, số lượng nhiều nhưng mang lại lợi nhuận cao: So với tín dụng doanh nghiệp, giá trị của các khoản tín dụng cá nhân không lớn. Đó là do giá trị hàng hoá, dịch vụ hay vốn cho các đầu tư mang tính chất nhỏ lẻ (hộ kinh doanh) không cao. Mặc dù quy mô các khoản tín dụng này của ngân hàng là nhỏ nhưng tổng

Trường Đại học Kinh tế Huế

quy mô lại khá lớn, lãi suất cho vay luôn cao hơn so với lãi suất cho vay doanh nghiệp nên thông thường lợi nhuận mang lại từhoạt động này khá cao.

Có chi phí lớn nhất trong danh mục tín dụng của ngân hàng: Quy mô của mỗi khoản tín dụng thường nhỏ thậm chí đối với các khoản tín dụng tín chấp thì lại nhỏ không đáng kể nhưng số lượng các khoản vay lại rất lớn. Hơn nữa, việc cập nhật về các thông tin cá nhân lại khó có thể được thực hiện một cách đầy đủ và chính xác.

Ngân hàng phải xử lý rất nhiều bước trong suốt quá trình cấp tín dụng từ lúc tiếp cận khách hàng, tiếp nhận hồ sơ, thẩm định các nội dung chính sách liên quan của ngân hàng về khách hàng, giải ngân khoản tín dụng cho đến lúc trả dứt khoản tín dụng này.

Chất lượng các thông tin tài chính của khách hàng vay thường không cao và không đầy đủ: Do thói quen thanh toán và nhận bằng tiền mặt trong các giao dịch cá nhân vẫn còn khá phổbiến nên việc khách hàng cánhân kê khai ít hơn hoặc nhiều hơn so với thực tế hay việc giả mạo, kê khai khống các nguồn thu nhập trong hồ sơ vay vốn là một thực trạng khá phổbiến tại các ngân hàng thương mại.

Nhu cầu vay của khách hàng cá nhân thường phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế, nhu cầu này tăng lên trong thời kỳ kinh tế hưng thịnh và giảm khi chu kỳ kinh tếsuy thoái.

Nguồn trả nợchủ yếu của người đi vay có thể biến động lớn, phụ thuộc vào quá trình làm việc, kỹ năng và kinh nghiệm đối với công việc của những người này.

Quy trình xét duyệt cho vay và hồ sơ khách hàng cá nhân thường đơn giản hơn so với doanh nghiệp, tổchức.

Tư cách của khách hàng là yếu tố khó xác định song lại rất quan trọng, quyết định sự hoàn trả của khoản vay.

1.1.3.3 Vai trò cho vay khách hàng cá nhân

Đối với nền kinh tế- xã hội

Cho vay KHCN là kênh hỗ trợ vốn cho dân cư giúp họ có cuộc sống ổn định, trang trải các khoản chi phí sinh hoạt, học tập… phát sinh trong cuộc sống để thỏa mãn từ nhu cầu thiết yếu cho đến nhu cầu xa xỉ nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng buộc các thành phần kinh tếphải đẩy

Trường Đại học Kinh tế Huế

Là một phần của tín dụng nói chung, cho vay KHCN cũng có vai trò tích cực đối với xã hội. Cho vay KHCN tích cực khai thác triệt đểcác nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội rồi lưu thông các nguồn vốn này một cách trôi chảy và hiệu quả, từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn, từ nơi có hiệu quảthấp đến nơi có hiệu quảcao.

Đối với Ngân hàng

Do có đối tượng khách hàng rất rộng nên việc phát triển cho vay KHCN giúp hình ảnh thương hiệu của Ngân hàng được biết đến rộng khắp. Thông qua cho vay KHCN, ngoài việc cấp tín dụng cho khách hàng còn giúp cho Ngân hàng thuận lợi trong việc bán chéo các sản phẩm của dịch vụ Ngân hàng bán lẻ như: tiền gửi tiết kiệm, giao dịch thanh toán, chuyển lương qua tài khoản, thu hộ tiền điện, tiền nước, phát hành và thanh toán qua thẻ, dịch vụ ngân hàng điện tử,…Khả năng cung cấp các gói sản phẩm dịch vụ tài chính cá nhân đồng bộthỏa mãn tối đa nhu cầu khách hàng sẽ tạo ra điểm khác biệt cho Ngân hàng trong cạnh tranh với đối thủ, góp phần nâng cao thương hiệu Ngân hàng.

Nếu một Ngân hàng chỉ tập trung cho vay khách hàng doanh nghiệp có nhu cầu vốn lớn, vì lý do nào đó mà hoạt động của doanh nghiệp gặp khó khăn gây ảnh hưởng đến khả năng trả nợ, từ đó tác động tiêu cực đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.

Do vậy, với nguyên tắc “tránh để cho trứng vào một rỗ” Ngân hàng sẽ phát triển cho vay KHCN như một sựphân tán rủi ro vì với số lượng KHCN nhiều, số tiền vay ít thì khi có một khách hàng hay một số ít khách hàng gặp rủi ro sẽ ít gây ảnh hưởng đến tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.

Đối với khách hàng cá nhân

Cuộc sống con người luôn tồn tại những nhu cầu vềvật chất lẫn tinh thần, những nhu cầu đó ngày càng đa dạng và cao hơn bắt đầu từnhững hàng hóa thiết yếu rồi đến những hàng hóa xa xỉ hơn cùng với sựphát triển của nền kinh tế.Nhưng việc thỏa mãn những nhu cầu đó lại phụ thuộc vào khả năng thanh toán của hiện tại.Ở một chừng mực nào đó, tín dụng cá nhân giúp cho các khách hàng linh hoạt hơn trong việc giải quyết vấn đề thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Thay vì phải chờ đợi tích góp đủvốn ở hiện tại đểthực hiện kếhoạch của bản thân, người tiêu dùng sẽkhéo léo phối hợp giữa thỏa mãn nhu cầu hiện tại với khả năng thanh toán ởhiện tại và tương lai. Đồng nghĩa

Trường Đại học Kinh tế Huế

với việc họ sẽ lựa chọn vay vốn Ngân hàng để tiêu dùng cho nhu cầu trước sau đó sẽ tích lũy và hoàn trảcho Ngân hàng.

Vai trò này hết sức có ý nghĩa đối với những trường hợp mua sắm các hàng hóa thiết yếu có giá trị cao như nhà ở, xe hơi,… hay chi tiêu cấp bách như ốm đau, ma chay,cưới hỏi,… Trong những trường hợp này thay vì bếtắc hoặc phải tìmđến những khoản vay nóng có lãi suất cao ngất ngưỡng, thì KH có thể an tâm vay vốn từ ngân hàng với lãi suất và kỳ hạn hợp lý. Điều này được thể hiện rõ nét nhất tại các nước đang phát triển vì thông qua các khoản cấp tín dụng của NH hết sức nhanh chóng và thuận tiện, thì khách hàng hầu như được đáp ứng cá nhu cầu cá nhân thiết yếu như mua nhà, xe hơi, cưới hỏi, học tập,… góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống.

Ngoài ra cho vay khách hàng cá nhân còn là kênh các NHTM tài trợ vốn cho vay hoạt động sản xuất kinh doanh của cá hộ gia đình giúp họ có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh trong cùng lĩnh vực.

1.1.3.4 Khác bit gia khách hàng cá nhân vi khách hàng doanh nghip, t chc

Các NHTM phân biệt bên đi vay thành 2 nhóm khách hàng là khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp, tổ chức. Vì đặc điểm của 2 nhóm này có sự khác nhau, sự phân biệt này nhằm mục đích chuyên môn hóa trong tiếp cận khách hàng cũng nhưviệc quản lý khoản cho vay, đồng thời hạn chếnhững rủi ro cho ngân hàng.

Khách hàng cá nhân thường vay các khoản vay nhỏ lẻ, không thường xuyên và khôngổn định. Các khoản vay này thông thường phát sinh từ nhu cầu chi tiêu của cá nhân, hộ gia đình,do đó đáp ứng nhu cầu tức thời cho nhóm đối tượng khách hàng cá nhân là mục tiêu của các NHTM hướng tới. Việc cho vay khách hàng cá nhân cũng giúp ngân hàng phân tán rủi ro tín dụng thông qua việc cấp tín dụng cho nhiều món vay với nhiều khách hàng hơn. Đối tượng được xếp vào nhóm này không phải căn cứ vào giá trị khoản vay lớn hay nhỏ mà căn cứ vào pháp lý của bên đi vay trước pháp luật. Trong quan hệ vay này ngân hàng và khách hàng có quan hệ trực tiếp với nhau, trực tiếp ký kết vào các hợp đồng tín dụng và các văn bản liên quan đến việc vay vốn.

Trường Đại học Kinh tế Huế

cầu có tính ổn định cao.Vì các khoản dư nợlớn nên mỗi khoản vay đòi hỏi ngân hàng phải thẩm định rất chặt chẽ, quy trình thẩm định, phân tích và kiểm soát khoản vay nghiêm ngặt.

1.2 LÝ LUẬN CHUNG VỀCHẤT LƯỢNG DỊCH VỤNGÂN HÀNG