• Không có kết quả nào được tìm thấy

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KIỂM SOÁT CHI VỐN ĐẦU TƯ

2.4 ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG TỒN TẠI HẠN

2.4.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế

Những hạn chế còn tồn tại trong kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB từ NSNN tại KBNN tỉnh Quảng Trị bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan sau:

2.4.3.1. Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất: Do bộ máy, tổ chức còn chưa đáp ứng với nhu cầu công việc, khối lượng công việc rất nhiều nhưng theo quy định hiện nay thì tại phòng kiểm soát chi KBNN tỉnh Quảng Trị chỉ bố trí 20 cán bộ, trong đó có 3 lãnh đạo phòng và 17 chuyên viên. Với khối lượng công việc rất lớn, vừa kiểm soát chi đầu tư xây dựng cơ bản, vừa kiểm soát chi thường xuyên. Chuyên viên phòng kiểm soát chi thực hiện một lúc trên 3 chương trình. Thực hiện quy trình 1 cửa tạo sự thuận lợi cho khách hàng,

Trường Đại học Kinh tế Huế

nhưng cán bộ phòng kiểm soát chi tăng khối lượng công việc từ khâu nhận chứng hồ sơ, kiểm soát hồ sơ, thực hiện thao tác trên chương trình, giao nhận chứng từ với phòng kế toán, tách chứng từ, trả hồ sơ cho khách hàng, đóng và lưu trữ chứng từ.

Thứ hai : Đó là chất lượng kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB chưa đồng đều. Trình độ đội ngũ cán bộ trongphòng Kiểm soát chi chưa đồng đều, phần đông là cán bộ nữ, tuổi lớn, số lượngcán bộ chưa phù hợp với khối lượng công việc. Cán bộ kiểm soát chi được tuyển dụng chủ yếu từ ngành kinh tế, tài chính nên không được đào tạo về lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, không có chuyên môn sâu về các kiến thức đầu tư xây dựng cơ bản. Do đó chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, đặc biệt là trong việc cải cách thủ tục hành chính, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

Thứ ba: Đó là áp lực giải ngân vào những tháng cuối năm. Cuối năm cũng là thời điểm kết thúc niên độ ngân sách cho đầu tư XDCB. Do đặc thù riêng của chi đầu tư XDCB, nên hồ sơ thanh toán thường được các Chủ đầu tư đưa tới KBNN tỉnh Quảng trị thanh toán vào thời điểm cuối cùng của niên độ với khối lượng lớn. Mặc khác, UBND tỉnh Quảng Trị thường thông báo bổ sung, điều chỉnh kế hoạch vốn vào những ngày cuối năm, nên khối lượng công việc tăng lên rất nhiều. Nguyên nhân dẫn tới hiện tượng này, một phần do khách quan gây ra, nhưng cũng có một phần do tâm lý chủ quan của Chủ đầu tư trong công tác này, một phần do nguồn vốn thường tập trung nhiều vào cuối năm. Hơn nữa, trong những thời điểm này, khối lượng công việc thường nhiều, do đó cán bộ kiểm soát chi dễ bỏ xót sai phạm trong hồ sơ.

Thứ tư : Hiện nay, việc áp dụng trình độ khoa học công nghệ nhiều. Trình độ cán bộ còn hạn chế trong lĩnh vực tin học, nên chỉ thao tác và dừng lại ở mức độ sử dụng, thao tác các bước theo quy trình. Việc nghiên cứu, vận dụng, đi sâu vào khai thác triệt để còn bị hạn chế. KBNN tỉnh Quảng Trị vẫn áp dụng chương trình Đầu tư kho bạc trên hệ điều hành Fox đã lỗi thời rất lâu trên thị trường, nên rất khó khăn trong công nhập, in hồ sơ vàcập nhập số liệutheo yêu cầu khi cần thiết.

2.4.3.2. Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất: Hệ thống văn bản quản lý đầu tư công còn thiếu đồng bộ, thiếu những chế tài cần thiết.

Trường Đại học Kinh tế Huế

Hệ thống văn bản quản lý đầu tư và xây dựng trong thời gian qua được các cơ quan ban hành sửa đổi, bổ sung thường xuyên, nhưng nhìn chung còn thiếu đồng bộ, nhiều quy định còn chồng chéo, khó áp dụng vào thực tiễn.

Thêm vào đó, các văn bản pháp luật trong quản lý đầu tư xây dựng cơ bản hiện nay chủ yếu là các văn bản dưới luật, trong khi lĩnh vực này đòi hỏi phải được điều chỉnh bằng hệ thống văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn, là cơ sở quản lý, điều hành ngân sách. Chưa có các chế tài đủ mạnh, đủ sức răn đe các đối tượng vi phạm quy trình quản lý đầu tư công từ NSNN.

Th hai: Việc áp dụng các cơ chế chính sách tại KBNN tỉnh Quảng Trị còn nhiều bất cập, chồng chéo. Việc kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB từ nguồn vốn NSNN qua KBNN tỉnh Quảng Trịhiện nay phải thực hiện rất nhiều văn bản của Nhà nước, các Bộ, của UBND các cấp và của KBNN cấp trên, nên có rất nhiều văn bản hướng dẫn chồng chéo; các văn bản thường xuyên thay đổi trong thời gian ngắn, tính nhất quán các văn bản chưa cao, làm cho việc kiểm soát còn bị động, lúng túng.

Một số văn bản chỉ đạo của UBND tỉnh không thực hiện theo các văn bản hướng dẫn của các bộ, ngành cấp trên. Một số văn bản của các bộ, ngành không nhất quán với nhau, có nhiều nội dung khác nhau, làm cho công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư gặp phải lúng túng khi xử lý nghiệp vụ.

Công tác bố trí kế hoạch vốn chưa hợp lý và chưa xác với tình hình thực tế, có nhiều dự án đã có đầy đủ khối lượng hoàn thành nhưng không được bố trí vốn nên thường xẩy ra tình trạng một công trình thanh toán nhiều năm. Việc điều chỉnh, bổ sung kế hoạch vốn vào cuối năm thường xuyên diễn ra dẫn đến việc kéo dài thời gian thanh toán, gây áp lực công việc cho cán bộ thanh toán trong những ngày cuối năm, làmảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ thi côngvà giải ngân theo hợp động đã ký kết.

Công tác quản lý và điều hành vốn của UBND tỉnh chưa thật sự linh hoạt, còn nhiều cứng nhắc.

Mặc dù kế hoạch vốn là cơ sở cho công tác kiểm soát chi đầu tư nhưng quá trình triển khai thực hiện thông báo kế hoạch vốn hiện nay vẫn chưa đồng đều như Thông báo kế hoạch vốn không tập trung, mà còn rải rác trong năm, đến cuối năm vẫn còn thông báo kế hoạch vốn; Kế hoạch vốn điều chỉnh chậm, đến cuối năm, thậm chí gần hết thời hạn thanh toán vẫn tiếp tục điều chỉnh kế hoạch vốn, mặt khác do không nắm

Trường Đại học Kinh tế Huế

được khối lượng đã thực hiện và vốn đã cấp nên khi điều hòa điều chỉnh kế hoạch có nhiều dự án KBNN tỉnh đã cấp nhưng lại điều chỉnh giảm kế hoạch, dẫn đếnkế hoạch vốn không phù hợp với số vốn đã thanh toán…; tên dự án không thống nhất giữa các lần thông báo làm cho KBNN tỉnh Quảng Trịkhó theo dõi.

Th ba: Về phía Chủ đầu tư, thực tế không ít các Chủ đầu tư, ban quản lý dự án trìnhđộ, năng lực còn hạn chế,còn lúng túng trong việc lập, trình duyệt dự toán chi phí quản lý theo cơ chế mới. Mặt khác, do Chủ đầu tư là cấp tỉnh vừa là cấp quyết định đầu tư, vừa là Chủ đầu tư đồng thời là ban quản lý dự án, với đa nguồn vốn, số lượng dự án đang quản lý tương đốilớn, thời gian kéo dài trong khi năng lực hạn chế thì việc làm hồ sơ thanh quyết toán, chi phí quản lý dự án là vấn đề rất phức tạp đã ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân. Đối với những dự án mới đãđược giao kế hoạch vốn nhưng chưa duyệt xong thủ tục pháp lý nên chưa đủ điều kiện về thủ tục mở tài khoản tại KBNN. Một số dự án mới đã xong thủ tục pháp lý nhưng đang trong thời gian mời thầu, chấm thầu và trình phê duyệt kết quả trúng thầu hoặc chỉ định thầu nên Chủ đầu tư chưa đủ điều kiện để giải ngân cho dự án. Một số dự án đã có kết quả trúng thầu nhưng Chủ đầu tư chưa giải phóng được mặt bằng nên chưa đủ điều kiện để khởi công công trình vàứng vốn cho các Nhà thầu.

KẾT LUẬN CHƯƠNG2

Chương 2 đãđi sâu phân tích, đánh giá thực trạng kiểm soát chi đầu tư XDCB qua KBNN quảng Trị từ năm 2015 - 2017, đồng thời chỉ ra những kết quả đã đạt được và hạn chế cũng như nguyên nhân bất cập trong kiểm soát chi đầu tư XDCB qua KBNN trên địa bàn, được khái quát qua những điểm chủ yếu như sau: Một số cơ chế, chính sách của Nhà nước còn vướng mắc do bất cập, chồng chéo không đồng bộ. Đội ngũ cán bộ, chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế, nhất là trình độ cán bộ quản lý đầu tư hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Quy trình, biểu mẫu chứng từ kiểm soát chi đầu tư công còn nhiều bất cập. Từ những hạn chế và nguyên nhân trên làm cơ sở đề xuất giải pháp và kiến nghị được trình bày trong chương tiếp theo.

Trường Đại học Kinh tế Huế