• Không có kết quả nào được tìm thấy

PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO HOẠT ĐỘNG

1.2. Quản trị rủi ro hoạt động trong các ngân hàng thương mại

1.2.5. Basel II và vấn đề quản trị rủi ro

Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking supervision - BCBS) được thành lập vào năm 1974 bởi một nhóm các Ngân hàng Trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) tại thành phố Basel, Thụy Sỹ nhằm tìm cách ngăn chặn sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng vào thập kỷ 80. Hiện nay, các thành viên của Ủy ban gồm đại diện ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng của các nước: Anh, Bỉ, Canada, Đức, Hà Lan, Hoa Kỳ, Luxembourg, Nhật, Pháp, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ và Ý.

Ủy ban được nhóm họp 4 lần trong một năm.[1]

Mục đích Ủy ban Basel là để xây dựng những khuôn khổ chung kiểm soát các rủi ro và giám sát an toàn đối với những ngân hàng hoạt động quốc tế.Mục tiêu mà Ủy ban Basel đặt ra là thu hẹp khoảng cách trong công tác giám sát an toàn hoạt động ngân hàng trên phương diện quốc tế với hai nguyên tắc chủ yếu đó là “không để một ngân hàng nước ngoài nào không chịu sự giám sát và công tác giám sát phải đảm bảo đầy đủ”.

Vào năm 1988, Hiệp ước vốn Basel (the Basel Capital Accord) hay Basel I ra đời. Hệ thống này cung cấp khung đo lường rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn vốn tối thiểu 8%. Basel I không chỉ được phổ biến trong các quốc gia thành viên mà còn được phổ biến ở hầu hết các nước khác có các ngân hàng hoạt động quốc tế. Đến năm 1996, Basel I được sửa đổi với rất nhiều điểm mới, tuy vậy, hiệp ước vẫn có khá nhiều điểm hạn chế.[1]

Hiệp định Basel II ra đời nhằm khắc phục hạn chế của Basel I, với ý nghĩa là khuôn khổ, chuẩn mực quốc tế về quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của

Trường Đại học Kinh tế Huế

áp dụng và thu được những hiệu quả cao.Hiệp định Basel II đãđề cập đến một nội dung mới trongquản trị rủi ro ngân hàng, đó là “rủi ro hoạt động”.[1]

Mục tiêu của Basel II là nâng cao chất lượng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng quốc tế; tạo lập và duy trì một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng hoạt động trên bình diện quốc tế; đẩy mạnh việc chấp nhận các thông lệ nghiêm ngặt hơn trong lĩnh vực quản lý rủi ro.

Hai mục tiêu đầu BaselII là những mục tiêu chủ chốt của Hiệp ước vốn Basel I; mục tiêu cuối cùng là mới, đó là dấu hiệu của việc bắt đầu chuyển dần từ cơ chế điều tiết dựa trên tỷ lệ, hướng đến điều tiết dựa nhiều hơn vào các số liệu nội bộ, thông lệ và các mô hình. [1]

Hiệp địnhBasel II bao gồm3 trụ cột:

- Cột trụ 1:Yêu cầu về vốn tối thiểu.

- Cột trụ 2:Quy trình rà soát, giám soát.

- Cột trụ 3:Nguyên tắc thị trường.

Theo Basel II thì rủi ro hoạt động là nguy cơ tổn thất do các quy trình nội bộ không đầy đủ hoặc không hoạt động, do con người và hệ thống hoặc do các sự kiện bên ngoài. Nó bao gồm cả rủi ro pháp lý nhưng loại trừ rủi ro chiến lược và rủi ro uy tín. Qua đó hiệp định đề xuất áp dụng yêu cầu về vốn công khai tại cột trụ 1 đối với rủi ro hoạt động, đồng thời đề xuất ba phương pháp đo lường chủ yếu đối với rủi ro hoạt động đó là phương pháp chỉ số cơ bản, phương pháp chuẩn hóa và phương pháp đo lường tiên tiếnAMA.

Cột trụ 2 nêu lên những nguyên tắc chủ yếu trong công tác rà soát giám sát an toàn hoạt độngngân hàng về quản trị rủi ro và minh bạch hóa.

- Nguyên tắc 1: Ngân hàng thương mại cần xây dựng một quy trình đánh giá mức độ đáp ứng yêu cầu vốn an toàn tối thiểu gắn liền với trạng thái rủi ro cùng với chiến lược duy trì mức độ an toàn vốn đó.

- Nguyên tắc 2: Các cơ quan giám sát an toàn hoạt động của ngân hàng phải giám sát được và đánh giá thường xuyên tính chính xác, phù hợp với cơ chế đánh giá mức độ an toàn vốn tối thiểu của ngân hàng. Trong trường hợp các ngân hàng

Trường Đại học Kinh tế Huế

thương mại không đáp ứng được các yêu cầu quy định về vốn tối thiểu cơ quan giám sát phải tiến hành các biện pháp phù hợp.

- Nguyên tắc 3: Cơ quan giám sát phải có đầy đủ các công cụ để bắtbuộc ngân hàng thương mạiduy trì mức vốn trên mức vốn an toàn tối thiểu.

- Nguyên tắc 4: Cơ quan giám sát nên sẵn sàng can thiệp sớm nhằm ngăn chặn các ngân hàng thương mạiđể mức vốn tối thiểu dưới 8%, đồng thời có cơ chế yêu cầu các ngân hàng thương mạiphải lập tức bù đắp phần thiếu hụt trong vốn an toàn so với mức vốn tối thiểu quy định.

Cột trụ thứ 3 (nguyên tắc thị trường) nhằm bổ sung các quy định về tỷ lệ an toàn tối thiểu (cột trụ 1) và quy trình rà soát (cột trụ 2). Nguyên tắc thị trường hay quy định công khai thông tin về kết quả và tình trạng hoạt động của ngân hàng thương mạilà một biện pháp áp dụng nhằm giảm thiểu các nguy cơ xảy ra các chấn động trong ngân hàng, làm cho môi trường tài chính tiền tệ có sự ổn định nhất định thông qua khả năng có thể dự đoán và minh bạch. Ngân hàng cần phải có hệ thống quy chế và quy định chính thức về công khai thông tin do Hội đồng quản trị ban hành. Hệ thống cơ chế này phải được xây dựng thành văn bản và có hiệu lực trong toàn bộ ngân hàng.

Việc tiếp cận Basel II đòi hỏi kỹ thuật phức tạp và chi phí khá cao. Đối với một nước có hệ thống ngân hàng mới đang ở giai đoạn phát triển ban đầu như Việt Nam, việc áp dụng Basel II gặp nhiều khó khăn, thách thức và mất nhiều thời gian.

Tuy nhiên, trước xu thế hội nhập và mở cửa thị trường tài chính - ngân hàng với nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng mới, việc áp dụng Basel II tại Việt Nam là yêu cầu cấp thiết nhằm tăng cường năng lực hoạt động và giảm thiểu rủi ro đối với các ngân hàng thương mại.

Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các tổ chức tín dụng Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện hệ thống pháp lý về tiền tệ và hoạt động ngân hàng cũng như nâng cao năng lực quản trị điều hành, đặc biệt là năng lực quản trị rủi ro của các ngân hàng thương mại tiến dần đến các

Trường Đại học Kinh tế Huế

Việc áp dụng các quy định Basel II sẽ đem lại lợi ích thiết thực đối với các ngân hàng thương mạitrong công tác quản trị rủi ro hoạt động. Các quy định này sẽ trở thành những chỉ dẫn cơ bản để ngân hàng thương mại xây dựng hệ thống quản trị rủi ro, cũng như để cơ quan giám sát hoạt động tài chính tiền tệ thực hiện các chức năng xây dựng ban hành khuôn khổ luật pháp, thực hiện giám sát, can thiệp kịp thời nhằm đảm bảo sự ổn định của thị trường tài chính tiền tệ trên cơ sở minh bạch, phát triển bền vững.

Tại Châu Á, hầu hết các nhà quản lý đều ủng hộ các mục tiêu chung của Basel II và tin tưởng rằng khuôn khổ này sẽ đưa ra những khích lệ hơn nữa để cải thiện công tác quản lý rủi ro, cũng như các thay đổi khác nhằm bổ sung cho các mục tiêu giám sát của họ.

1.3. Kinh nghiệm quản trịrủi ro hoạt động của các ngân hàng thương mại