• Không có kết quả nào được tìm thấy

Đề thi thử THPT quốc gia 2021 môn Văn có đáp án chi tiết - Đề số 28 | Ngữ văn, Đề thi THPT quốc gia - Ôn Luyện

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "Đề thi thử THPT quốc gia 2021 môn Văn có đáp án chi tiết - Đề số 28 | Ngữ văn, Đề thi THPT quốc gia - Ôn Luyện"

Copied!
8
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

ĐỀ SỐ 28 BỘ ĐỀ THI THPT QUỐC GIA CHUẨN CẤU TRÚC BỘ GIÁO DỤC Môn: Ngữ văn

Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề



I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

Tôi yêu chuyện cổ nước tôi Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa

Thương người rồi mới thương ta Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm

ở hiền thì lại gặp hiền

Người ngay thì được Phật, tiên độ trì Mang theo chuyện cổ tôi đi Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa

Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa Con sông chảy có rặng dừa nghiêng soi

Đời cha ông với đời tôi Như con sông với chân trời đã xa

Chỉ còn chuyện cổ thiết tha Cho tôi nhận mặt ông cha của mình

(Trích Truyện cổ nước mình, Lâm Thị Mĩ Dạ SGK Tiếng Việt 4, Tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2018) Câu 1. Phong cách ngôn ngữ và phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ trên là gì?

Câu 2. Nêu nội dung chính của đoạn thơ?

Câu 3. Hãy liệt kê ít nhất hai câu tục ngữ, ca dao được gợi ra trong đoạn thơ trên. Tại sao tác giả lại nói: Tôi yêu chuyện cổ nước tôi/ Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa?

Câu 4. Anh (chị) có đồng tình với quan niệm của tác giả trong hai câu thơ: Chỉ còn chuyện cổ thiết tha/ Cho tôi nhận mặt ông cha của mình? Vì sao?

II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1. (2,0 điểm) Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến được nêu ở phần Đọc hiểu: ở hiền thì lại gặp lành

Câu 2. (5,0 điểm) Cảm nhận về đoạn văn dưới đây:

Từ đấy, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam - đông bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trăng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên,

(2)

sông Hương uốn một nhánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Và như vậy, giống như sông Xen của Paris, sông Đanuýp của Buđapet, sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông. Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố phường với những cây đa, cây dừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được. Những chi lưu ấy cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến cho sông Hương khi đi qua thành phố đã trôi đi chậm, thật chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Tôi đã đến Leningrad, có lúc đứng nhìn sông Nêva cuốn trôi những đám băng lô xô nhấp nháy trăm màu dưới ánh sáng của mặt trời mùa xuân; mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng; và đoàn tàu tốc hành lạ lùng ấy với những hành khách tí hon của nó băng băng lướt qua trước cung điện Peterburg cũ để ra bể Bantich. Tôi vừa từ trong khói lửa miền Nam đến đây, lâu năm xa Huế, và chính Leningrad đã đánh thức trong tâm hồn tôi giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại; ôi tôi muốn hóa làm một con chim nhỏ đứng co một chân trên con tàu thủy tinh để đi ra biển. Tôi cuống quýt vẫy tay, nhưng sông Nêva đã chảy nhanh quá, không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo. Hai nghìn năm trước, có một người Hi Lạp tên là Hêracơlit, đã khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi qua nhanh, thế vậy! Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi; chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố... Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.

Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Đã nhiều lần tôi thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày hoặc trên sân khấu nhà hát. Quả đúng như vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya. Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu và từ đó những bản đàn đã đi suốt đời Kiều.

Tôi đã chứng kiến một người nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kỷ, một buổi tối ngồi nghe con gái đọc Kiều, “Trong như tiếng hạc bay qua - đục như tiếng suối mới sa nửa vời”... Đến

(3)

câu ấy, người nghệ nhân chợt nhổm dậy vỗ đùi, chỉ vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên:

“Đó chính là Tứ đại cảnh!”.

Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vỹ Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông - tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài mười dặm trường đình. Riêng với sông Hương, vốn đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao. Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người ở đây; và để nhân cách hóa nó lên, tôi gọi đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Và giống như nàng Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ sông này, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả: “Còn non - còn nước - còn dài. Còn về - còn nhớ....”. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian; ấy là tấm lòng người dân nơi Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở.

(Trích Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2018, trang 199 – 200 - 201)

HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

Câu 1.– Phong cách ngôn ngữ của đoạn thơ trên là phong cách nghệ thuật.

– Phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ là phương thức biểu cảm.

Câu 2.– Nội dung chính của đoạn thơ: tình cảm yêu mến của tác giả đối với truyện cổ dân gian, cảm nhận thấm thía về bài học làm người ẩn chứa trong những truyện cổ dân gian mà ông cha ta đã đúc rút, răn dạy.

Câu 3.– Tục ngữ: Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ; Thương người như thể thương thân; Lá lành đùm lá rách…

– Ca dao: yêu nhau mấy núi cũng leo/ Mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua; Dòng sông chảy nặng phù sa/ Đưa ta qua những tháng ngày trong mơ…

– Tác giả yêu những câu chuyện cổ vì:

+ Trong mỗi câu chuyện ta sẽ học được một bài học bổ ích.

+ Vun đắp và nuôi dưỡng trong ta tình yêu thương con người.

+ Nhận thức được những điều hay lẽ phải.

+ Tự hào về đất nước và dân tộc.

(4)

Câu 4. ở câu hỏi này có hai cách trả lời, đồng tình hoặc không đồng tình. Dù chọn cách nào thì HS cũng phải có sự lí giải hợp lí. Dưới đây là một gợi ý:

– Trường hợp một: Truyện cổ dân gian chính là nhịp cầu nối liền bao thế hệ.

– Trường hợp hai: Truyện cổ dân gian kết tinh những vẻ đẹp tình cảm, tư tưởng của người xưa.

II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1. (2,0 điểm) HS tham khảo nội dung dưới đây để viết đoạn văn:

1. Mở đoạn

– Cái thiện luôn chiến thắng cái ác, người tốt gặp dữ hóa lành, kẻ ác gieo gió gặt bão… là những mô típ quen thuộc trong các tác phẩm văn học, đặc biệt là trong các câu chuyện cổ tích.

– Ẩn sau những câu chuyện đầy màu sắc đó là những triết lí sống, triết lí làm người.

Mối quan hệ nhân – quả ở hiền thì lại gặp lành luôn là cái tâm, cái cốt lõi của đa số tác phẩm văn học và được nhiều người lấy đó là phương châm sống.

2. Giải thích

– Ở hiền là hiền lành, không dữ, không làm điều sai trái, gây hại cho người khác, mưu lợi cho bản thân…

– Từ “hiền” ở đây mang ý nghĩa lớn lao, bao trùm lên cả ý nghĩa nhân đạo – đạo lí làm người.

3. Bàn luận và chứng minh

– Có thể nói, “ở hiền” là sống sao có ích cho đất nước, xã hội, biết quan tâm giúp đỡ người khác lúc khó khăn, hoạn nạn, đồng thời phải biết lên án, đấu tranh chống lại cái ác, những thế lực xấu xa luôn muốn làm hại con người…

– Vậy “ở hiền” thì sẽ “gặp lành” như thế nào?

+ Người “ở hiền” sẽ nhận được nhiều điều tốt đẹp, may mắn. Khi bạn không làm điều xấu, hại người bạn sẽ không cảm thấy bất an, tội lỗi, lo lắng mà suy sụp. Không những thế khi làm việc thiện, giúp đỡ người khác bạn sẽ cảm thấy rất vui vẻ, thoải mái, tự hào…

+ Không chỉ vậy, mọi người xung quanh sẽ yêu quý bạn, giúp đỡ bạn khi bạn gặp khó khăn, cuộc sống sẽ luôn tràn đầy niềm vui và hạnh phúc.

– Từ xưa đến nay đã có rất nhiều tấm gương người tốt việc tốt khắp nơi trên thế giới:

+ Ở nước ta, Hồ Chủ tịch là tấm gương vĩ đại, mãi tỏa sáng trong lòng bao người con đất Việt. Công lao của Bác to lớn không ai trong chúng ta có thể kể cũng như đong đếm hết được, và đúng như ở hiền thì lại gặp lành, Bác đã nhận được rất nhiều sự ngợi ca và tôn kính của người đời. Bác vui sướng, hạnh phúc vì giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Không chỉ

(5)

nhiều người mà là tất cả mọi người trên đất nước Việt Nam đều quý mến Bác, coi Bác là vị Cha già kính yêu.

+ Không nói đâu xa, mới mấy tháng gần đây , thông tin hai thí sinh bỏ thi để cứu người đã làm cho bao con mắt phải trầm trồ thán phục. Đó là hai học sinh Lữ Đức Quân và Tăng Ngọc Dũng. Trên đường tới trường thi tốt nghiệp môn Sinh, hai bạn bất ngờ thấy một phụ nữ đi xe đạp bị ngã lăn ra đường bất tỉnh. Không chần chừ, hai bạn cố gắng hết sức bế nạn nhân lên chiếc xe đạp và chạy thẳng đến bệnh viện. Sau khi làm thủ tục nhập viện, hai bạn gắng sức đạp tới trường nhưng bị muộn năm phút nên không được dự thi. Người tốt ắt gặp điều tốt, ngay sau kỳ thi tốt nghiệp, hai bạn đã được tuyên dương và khen thưởng về hành động nhân ái của mình. Hai bạn được đặc cách lấy điểm tổng kết môn Sinh học lớp 12 của hai bạn thay cho điểm thi môn tốt nghiệp. Vậy đấy, những người tốt đều được đền đáp xứng đáng, mối quan hệ nhân – quả: Ở hiền thì lại gặp lành thật không có sai.

– Nhưng có phải ai “ở hiền” cũng “gặp lành” không?

+ Có rất nhiều người sống và làm việc chuẩn mực, không làm điều gì trái lương tâm nhưng sao cuộc sống của họ vẫn khó khăn, vẫn gặp nhiều biến cố trắc trở, bị nhiều tai ương giáng xuống đầu?

+ Số phận không mỉm cười với nhiều đứa trẻ, những sinh linh nhỏ bé, ngây thơ. Nào là những cô bé, cậu bé mồ côi, không nơi nương tựa, những đứa trẻ tật nguyền hay những em bé bị di chứng chất độc màu da cam… Những tâm hồn trong sáng ấy có tội tình gì mà số phận nỡ đối xử với chúng một cách tàn nhẫn đến như vậy. Những đứa bé ấy còn chưa có cơ hội để “ở hiền” vậy mà đã “gặp dữ” rồi. Những đứa trẻ đó thật đáng thương! Chỉ cần một lần nhìn thấy những khuôn mặt ngây thơ đó thôi, tôi đảm bảo các bạn cũng như tôi sẽ không cầm nổi lòng mình và lúc đó, các bạn sẽ khẳng định lại câu nói của cha ông ta: Ở hiền thì lại gặp lành là sai, hoàn toàn sai!

 Chúng ta có thể thấy rằng không phải ai “ở hiền” mà cũng “gặp lành” cả. Câu nói của cha ông ta chỉ có phần nào đúng thôi. Nhưng không phải vì thế mà ta phủ nhận nó. Qua câu nói: Ở hiền thì lại gặp lành những người đi trước muốn răn đe, nhắc nhở mọi người phải sống sao cho tốt, làm công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội.

4. Bài học nhận thức và hành động

– Chúng ta may mắn hơn nhiều người, “gặp lành” hơn nhiều số phận, vì vậy chúng ta nên cưu mang, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, mang lại không chỉ niềm vui cho bản thân mà còn mang đến niềm hạnh phúc cho mọi người. Đối với thế hệ trẻ chúng ta, những chủ nhân tương lai của đất nước hãy quan tâm nhiều hơn đến cuộc sống xung quanh

(6)

mình, hãy làm những việc có ích để: Mỗi người tốt, mỗi việc tốt là một bông hoa đẹp, cả dân tộc ta là một rừng hoa đẹp.

– Có thể nói, câu nói Ở hiền thì lại gặp lành là một câu nói hay, mang nhiều ý nghĩa.

Có thể câu nói có lúc không đúng nhưng chúng ta vẫn phải “ở hiền”, làm người tốt, việc tốt, để xây dựng một đất nước giàu mạnh, ấm no, hạnh phúc.

– Liên hệ bản thân.

Câu 2. (5,0 điểm)

1. Giới thiệu khái quát về tác giả và tác phẩm

– Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí… Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích mê đắm và tài hoa.

Ai đã đặt tên cho dòng sông? Là bài bút kí xuất sắc, viết tại Huế, năm 1981 in trong tập sách cùng tên. Với sự tinh tế của một nghệ sĩ, với tình yêu dòng sông Hương của xứ Huế mộng mơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã diễn tả thành công vẻ đẹp dòng sông Hương.

2. Khái quát sơ lược đoạn trước đó

– Sông Hương và thượng nguồn – cánh đồng Châu Hóa.

– Đến ngoại ô Kim Long, dòng sông không còn mang vẻ trầm mặc, cổ thi nữa mà trở nên vui tươi hẳn lên vì đã tìm thấy đường về. Đó chính là vẻ đẹp chủ động của cô gái trong tình yêu.

3. Cảm nhận chung về đoạn văn

a. Niềm vui của Hương giang khi tìm đúng đường về thành phố

Từ đấy, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam - đông bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trăng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non.

– Sông Hương chảy qua lòng thành phố Huế mang tâm trạng của một người thiếu nữ đang yêu.

– Sự e thẹn, ngượng ngùng khi gặp thành phố Huế đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu

– Vẻ đẹp trầm mặc khi chảy qua lòng thành phố Huế và những chi lưu.

– Nhà văn liên tưởng đến những dòng sông khác trên thế giới để tô đậm vẻ đẹp có một không hai của Hương Giang.

(7)

– Từ cảm xúc của một người xa xứ lâu năm, nhà văn nói về nỗi nhớ sông Hương cùng điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế.

– Dòng sông bỗng lãng mạn hơn bao giờ hết bởi nó gắn liền với sinh hoạt văn hóa Huế: có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.

b. Sông Hương gắn liền với âm nhạc cổ điển Huế

– Nhà văn nhân cách hóa Hương giang như một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya và liên tưởng thú vị đến Tứ đại cảnh – một thiên nhạc huyền thoại mở đầu cho nhã nhạc cung đình Huế.

– Thi hào Nguyễn Du đã từng ôm ấp một phiến trăng sầu trong bao năm lênh đênh trên dòng sông Hương. Một nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kỉ đã chỉ đích danh hai câu thơ

Trong như tiếng hạc bay qua Đục như tiếng suối mới sa nửa vời mang điệu nhạc cung đình Tứ đại cảnh.

– Sông Hương chung tình với kinh thành Huế như nàng Kiều một đời chung tình với Kim Trọng.

c. Sông Hương rời khỏi kinh thành

– Sông Hương rời khỏi kinh thành lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vỹ Dạ, rồi nó lại đổi dòng đột ngột gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói. Phải chăng khúc lượn này, sông Hương có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người. Tác giả cho rằng đó là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu.

– Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh sông Hương giống như nàng Kiều trong đêm tình tự, ông dẫn buông hai câu thơ của Nguyễn Du để nói về sự lưu luyến chí tình với lời thề trước khi về biển cả. Thật không có sự so sánh nào hay hơn khi nói về con sông mang tình người, tình son sắt chung thủy của lứa đôi. Còn non - còn nước - còn dài. Còn về - còn nhớ....”. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian. Sâu xa hơn nữa lời thề ấy là tấm lòng người dân nơi Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở thân thương.

d. Nét đặc sắc của đoạn văn

(8)

– Soi bóng tâm hồn với tình yêu say đắm, lắng sâu niềm tự hào tha thiết quê hương xứ sở vào đối tượng miêu tả khiến đối tượng trở nên lung linh, huyền ảo, đa dạng như đời sống, như tâm hồn con người.

– Sức liên tưởng kì diệu, sự hiểu biết phong phú về kiến thức địa lí, văn hóa nghệ thuật và những trải nghiệm của bản thân.

– Ngôn ngữ trong sáng, phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử dụng nhiều phép tu từ như: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ,…

– Có sự kết hợp hài hòa cảm xúc, trí tuệ, chủ quan và khách quan.

4. Nhận xét và đánh giá

– Làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của đoạn văn là tình yêu đắm say với dòng sông được thể hiện bằng tài năng của Hoàng Phủ Ngọc Tường

– Đến với Huế mộng mơ là đến với sông Hương, đến với tiếng chuông chùa Thiên Mụ, đến với tiếng gà Bảo Vinh, là đến với lăng tẩm đế vương, đến với những con người thủy chung trọn tình trọn nghĩa, là đến với những bài ca điệu hò dân gian dịu ngọt. Tác giả bài bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? đã nói hộ lòng ta những tình cảm sâu sắc, tốt đẹp ấy.

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Hình ảnh ấy đưa chúng ta liên tưởng truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, truyện đã để lại trong lòng người đọc, một hình ảnh khó quên đó là nhân vật

– Bài thơ cũng là bản tình ca đã khắc họa hết thảy mọi cung bậc tình cảm của tác giả hay nói đúng hơn là giữa kẻ ở – người đi, giữa nhân dân đồng bào Việt Bắc

– Miêu tả, kế chuyện về một dòng sông, một vùng đất thuộc miền Tây của Tổ quốc, Nguyễn Tuân đã thể hiện sự hiểu biết sâu rộng, một tình yêu tha thiết bao la

– Qua nhân vật Mị, ta thấy Tô Hoài là một nhà văn tài năng khi đưa cuộc đời Mị sang trang mới, bắt đầu một ngày mới tươi đẹp sau "giấc ngủ mê" dài

Từ những lời tự hát tình yêu trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, có ý kiến cho rằng: Sở dĩ bài thơ đi cùng năm tháng là bởi: Sóng đã thể hiện được một tình

Với giá trị hiện thực, với thành công trong việc xây dựng nhân vật để thể hiện tư tưởng nội dung tác phẩm như đã phân tích ở trên thì truyện ngắn Vợ chồng A

– Bốn câu thơ trên là hình ảnh không khí đêm lễ hội tưng bừng hòa hợp với ánh sáng lung linh và tâm hồn trẻ trung, yêu đời của các chiến sĩ Tây Tiến thì

Điều cần nhấn mạnh là, trong bối cảnh mới của sự mở rộng hợp tác và giao lưu quốc tế như hiện nay, nhân dân Việt Nam không chỉ bảo vệ độc lập, tự chủ trên