• Không có kết quả nào được tìm thấy

Đề thi thử THPT quốc gia 2021 môn Văn có đáp án - Đề số 21 | Ngữ văn, Đề thi THPT quốc gia - Ôn Luyện

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "Đề thi thử THPT quốc gia 2021 môn Văn có đáp án - Đề số 21 | Ngữ văn, Đề thi THPT quốc gia - Ôn Luyện"

Copied!
6
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

ĐỀ SỐ 21 BỘ ĐỀ THI THPT QUỐC GIA CHUẨN CẤU TRÚC BỘ GIÁO DỤC Môn: Ngữ văn

Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề



I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:

Niềm vui của người này không phải là nỗi buồn của người kia. Chỉ có thể là thế khi mình biết nghĩ đến người khác. Mình không nói cho hả giận khi người khác nhói lòng. Mình không chỉ lo cho được việc mình mặc ai kia khổ sở. Tôi có đọc một truyện ngắn của Tổng Thư kí tòa soạn Sinh Viên Việt Nam – Hoa Học Trò mang tên Huyền thoại phần mía ngọn. Câu chuyện trả lời câu hỏi khi nào em lớn? Câu trả lời khi nào em biết nhận phần mía ngọn, đề phần mía gốc cho người khác. Ấy là khi em lớn, vịt con xấu xí sẽ biến thành thiên nga.

Không ai muốn làm người xấu xí. Có phải vì thế mà ngày mùa, người dân nghèo quê tôi có thể sống ấm bằng nghề mót lúa. Có phải vì thế mà mỗi khi thu hoạch khoai lang, mẹ tôi để lại nhiều củ khoai nhỏ không vặt hết, để rồi chiều tối có đám trẻ con làng bên qua vặt lại.

Nhưng đứa trẻ con sau cơn mưa, cứ nhìn những chồi non nhú lên ruộng khoai là biết ngay dưới lớp đất mỏng có những củ khoai sót mẹ tôi có tình để lại. Có phải vì thế mà truyện cố tích nói rằng chỉ nên may túi 3 gang không là túi 7 gang?

Vô cảm với người khác là thiểu năng cảm xúc. Còn tệ hơn cả thiểu năng trí tuệ. Bởi vì thiểu năng cảm xúc nghĩa là dù không phải trời bắt tội, em cũng đã bị tật nguyền ngay trong cơ thể khỏẻ mạnh, đẹp đẽ của chính mình.

(Trích Huyền thoại phần mía ngọn, Đoàn Công Lê Huy, dẫn theo http://santruyen.com/tuyen-tap-doan-cong-le-huy) Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản?

Câu 2. Tác giả câu chuyện "Huyền thoại phần mía ngọn " trả lời câu hỏi khi nào em lớn như thế nào?

Câu 3. Tác giả kể lại câu chuyện mẹ mình để lại những củ khoai lang mỗi khi thu hoạch nhằm mục đích gì?

Câu 4. Thông điệp nào trong đoạn trích có ý nghĩa nhất với anh/ chị? Vì sao?

II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1. (2,0 điểm)

Anh/ Chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) bày tỏ quan điểm của mình về ý kiến của tác giả nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu: Vô cảm với người khác là thiểu năng cảm xúc. Còn tệ hơn cả thiểu năng trí tuệ.

(2)

Câu 2 (5,0 điểm)

Cảm nhận về bức ảnh nghệ thuật trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu (Ngữ văn 12, Tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017).

Từ đó liên hệ với cảnh cho chữ trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân (Ngữ văn 11, Tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017) để nhận xét quan niệm về cái đẹp của mỗi nhà văn.

HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

Câu 1. Đoạn trích trên thuộc phong cách ngôn ngữ chính luận/ Chính luận.

Câu 2. Đây là câu kiểm tra năng lực nắm bắt thông tin, HS dựa vào đoạn trích trả lời bằng cách trích dẫn hoặc diễn dạt lại theo ý mình. Dưới dây là câu trả lời tham kháo

– Tác giả câu chuyện "Huyền thoại phần mía ngọn" trả lời câu hỏi khi nào em lớn như sau:

Câu trả lời khi nào em biết nhận phần mía ngọn, để phần mía gốc cho người khác.

– Hoặc diễn đạt lại theo ý mình: Trở thành người lớn là khi các em biết nhường nhịn, yêu thương người khác, dành cho người khác phần tốt đẹp hơn bản thân mình nhận dược.

Câu 3. Mục đích của câu chuyện của tác giả là đưa ra ví dụ để chứng minh luận điểm: Không ai muốn làm người xấu xí, bản chất của con người là lương thiện, tốt đẹp.

Câu 4. Học sinh có thể tham khảo các gợi ý thông điệp dưới đây:

– Sống, cần biết nhường nhịn sẻ chia.

– Sống vô cảm còn tệ hơn thiểu năng trí tuệ.

II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm)

Học sinh có thể đồng ý hoặc không đồng ý với quan điểm của tác giả đoạn trích nhưng lập luận chặt chẽ, lí lẽ thuyết phục. Dưới đây là một gợi ý:

Quy ước viết tắt : [Đ]: Đặt vấn đề [G]: Giải quyết vấn đề

[Đ] Tác giả cho rằng Vô cảm với người khác là thiểu năng cảm xúc. Còn tệ hơn cả thiểu năng trí tuệ, tôi hoàn toàn đồng tình là như vậy. [G] Vì con người có phần khác với động vật ở chỗ biết yêu thương, chia sẻ với đồng loại. Đó là phần tình cảm. Mà con người vô cảm, tức là thiếu đi cái vốn có của con người chẳng phải là bị khiếm khuyết, thiểu năng cảm xúc hay sao? Thiểu năng trí tuệ (không có khả năng về trí tuệ) thì có thể đã trở thành người vô ích, trở thành gánh nặng cho xã hội rồi. Nhưng vô cảm còn hơn cả thiểu năng trí tuệ nữa. Ý kiến phê phán những con người tuy được sinh ra lành lặn, đầy đủ nhưng tâm hồn lại thờ ơ, thiếu sự cảm thông, chia sẻ và yêu thương người khác. Tôi cũng hiểu phần nào vì sao tác giả có ý kiến như vậy. Vì một con người vô cảm có thể gây nên những hậu quả khủng khiếp cho xã

(3)

hội. Nó có thể biến con người thành kẻ vô trách nhiệm, vô lương tâm và vô văn hóa, thậm chí là kẻ tội đồ. Có thể nói hầu hết những vấn nạn trong xã hội hiện nay như tham những, thực phẩm bẩn, phá hoại môi trường, gây chiến tranh ... đều có nguyên nhân sâu xa từ sự vô cảm của con người. Do vậy, việc biết yêu thương sẻ chia đồng cảm với những người xung quanh và lên án mạnh mẽ lối sống vô cảm là điều hết sức cần làm.

Câu 2 (5,0 điểm)

Yêu cầu cơ bản (yêu cầu chính) của đề là cảm nhận về bức ảnh nghệ thuật trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu (Ngữ văn 12).

Yêu cầu nâng cao là liên hệ với cảnh cho chữ trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân (Ngữ văn 11) để làm nổi bật quan niệm về cái đẹp của mỗi nhà văn.

Dưới đây là gợi ý tham khảo:

1. Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Minh Châu, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa và ý nghĩa của bức ảnh nghệ thuật

– Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989), cây bút tiên phong của văn học Việt Nam sau đổi mới.

Ông "thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay" (Nguyên Ngọc). Sau 1975, ngòi bút của ông chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh.

– Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (8 – 1983) in trong tập truyện cùng tên là một tác phẩm tiêu biêu của ông sau 1975. Tác phẩm ra đời trong bối cảnh đất nước thống nhất. Như các tác phẩm sau 1975, tác phẩm có xu hướng hướng nội, khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người đời thường.

– Bức ảnh nghệ thuật là một hình tượng nghệ thuật trung tâm, là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Minh Châu.

2. Yêu cầu cơ bản: Cảm nhận về bức ảnh nghệ thuật (Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục, 2007):

a) Hoàn cảnh sáng tác bức ảnh nghệ thuật:

– Phùng được trưởng phòng giao cho nhiệm vụ đi chụp một bức ảnh cảnh biển để bổ sung vào bộ lịch Thuyền và Biển. Sau mấy buổi sáng phục kích, anh đã phát hiện ra một cảnh đắt trời cho là cảnh chiếc thuyền lưới vó thu lưới lúc bình minh trên mặt biển mờ sương. Tất cả bức khung cảnh đó từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó, người nghệ sĩ trở nên bối rối trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào. Đặc biệt hơn, Phùng còn khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.

(4)

– Phùng đã bấm máy hết cả cuộn phim để thu vào ống kính cảnh đẹp tuyệt vời đó của tạo hóa.

b) Sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh nghệ thuật:

– Khi con thuyền tiến vào bờ, nghệ sỹ Phùng phải chứng kiến một cảnh tượng đầy nghịch lý.

Trên con thuyền ngư phủ bước ra hai vợ chồng người thuyền chài, gã đàn ông vũ phu đánh đập vợ một cách dã man, đứa con trai nhỏ để bảo vệ mẹ đã chống lại bố.

– Tất cả những cảnh đó khiến Phùng cay đắng nhận ra: đằng sau cái toàn bích toàn thiện toàn mĩ là cái xấu, cái ác, cái trái ngang. Có thể nói, chính những bi kịch trong gia đình thuyền chài kia là thứ thuốc rửa ảnh quái đản làm bức hình kì diệu anh mới dày công chụp được bỗng hiện hình một cách khủng khiếp, ghê rợn.

c) Vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài:

– Sau khi chứng kiến cảnh gã chồng vũ phu đánh đập vợ một lần nữa, nghệ sỹ Phùng cùng bạn là chánh án Đẩu đã mời người đàn bà lên tòa án huyện để thuyết phục chị ly hôn với gã chồng vũ phu. Nhưng qua những lời giãi bày của chị ở tòa án huyện, nghệ sỹ Phùng và bạn mới nhận ra nhiều vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài.

– Đó là vẻ đẹp của tình mẫu tử, của đức hy sinh, sự trải đời. Chị không sống cho mình mà sống cho các con, vì các con mà chị van xin được sống với gã chồng vũ phu để có người chèo chống con thuyền mỗi khi giông bão đặng nuôi nấng các con. Trong đau khổ chị vẫn chắt lọc được những niềm vui, niềm hạnh phúc giản dị vui nhất là nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...

d) Cảm nghĩ của nghệ sỹ Phùng khi ngắm bức ảnh nghệ thuật:

– Tấm ảnh Chiếc thuyền ngoài xa được những người yêu nghệ thuật đánh giá cao. Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau nó vẫn còn giữ nguyên giá trị. Có thể nói cách khác, tấm ảnh ấy cũng được treo trong những phòng khách sang trọng của những người sành nghệ thuật. Sự đánh giá cao ấy xứng đáng với công sức mà Phùng đã bỏ ra để "phục kích" nhiều ngày mới chộp được nó. Đó là vẻ đẹp mà có khi cả đời Phùng chỉ nắm bắt được một lần. Những người yêu nghệ thuật trân trọng tấm ảnh ấy cũng là điều dễ hiểu. Song, có khi họ là những người yêu nghệ thuật thuần túy, cảm nhận cái đẹp trên bình diện của một tấm ảnh toàn bích, đáng thưởng thức, đáng treo ở những nơi sang trọng nhất.

– Nhưng với nghệ sỹ Phùng nó không chỉ là bức ảnh nghệ thuật mang vẻ đẹp lãng mạn mà mỗi khi nhìn kỹ anh lại thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và như thấy người đàn bà ấy bước ra khỏi tấm ảnh tấm lưng áo bạc phếch, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm...

– Ý nghĩa:

(5)

+ Màu hồng hồng của ánh sương mai là biểu tượng cho cái đẹp lãng mạn của bức ảnh nghệ thuật.

+ Hình ảnh người đàn bà hàng chài lam lũ bước ra khỏi bức ảnh là biểu tượng cho một vẻ đẹp khác của hiện thực cuộc sống. Đó là vẻ đẹp của con người trong cuộc sống tần tảo mưu sinh, nhọc nhằn, đa đoan nhưng vẫn ẩn chứa nhiều vẻ đẹp khuất lấp cần đc người nghệ sỹ tiếp tục khám phá.

+ Qua hai chi tiết này, Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm thông điệp về cái đẹp nghệ thuật:

Cái đẹp, nghệ thuật đích thực không bao giờ tách rời khỏi cuộc sống của con người; người nghệ sỹ chân chính không thể chỉ phản ánh cái đẹp lãng mạn như con thuyền ngoài xa mà phải khám phá được chiều sâu của cái đẹp trong cuộc sống và con người dù còn bộn bề ngang trái và cả những bi kịch đớn đau.

3. Yêu cầu phân hóa - nâng cao: Liên hệ với cảnh cho chữ trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân.

– Cảnh cho chữ là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có vì nó diễn ra trong một hoàn cảnh không gian và thời gian đặc biệt, giữa những con người cũng vô cùng đặc biệt:

+ Người cho chữ và người xin chữ có mối quan hệ đặc biệt. Trên phương diện xã hội, đó là những con người đối lập nhau, thậm chí không đội trời chung với nhau: Một người chống lại trật tự xã hội đương thời bị kết án tử hình, bị giam giữ trong nhà lao tử tù; còn hai người kia là ngục quan, đại diện cho cái xã hội mà Huấn Cao chống lại. Nhưng trên bình diện nghệ thuật họ lại là những người tri âm tri kỉ với nhau, ông Huấn Cao là người nghệ sỹ sáng tạo cái đẹp còn quản ngục và thư lại là những người biết trân trọng và nâng niu cái đẹp.

+ Cảnh cho chữ, một hành động sáng tạo nghệ thuật thanh cao lại diễn ra vào lúc đêm khuya giữa nhà ngục tối tăm chật hẹp ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, mặt đất vương vãi phân gián, phân chuột. Đối lập với những những thứ tối tăm hôi hám ấy là ánh sáng rừng rực của ngọn đuốc, tấm lụa bạch tinh khiết và mùi mực thơm tỏa khắp buồng giam.

+ Cảnh cho chữ được nhà văn khắc họa đầy ấn tượng, dưới ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc, một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang dậm tô những nét chữ trên tấm lụa trắng;

quản ngục và thơ lại thì run run bê chậu mực, khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ...

– Sau khi cho chữ, ông Huấn còn đưa ra những lời khuyên bảo chí tình với những người đang canh giữ mình: Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay đổi chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông tươi tắn... Ngục quan nghe lời khuyên thì cảm động, khóc mà bái lạy.

(6)

– Cảnh cho chữ trong nhà ngục thể hiện quan niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp: Cái đẹp và thiên lương cao cả có thể tỏa sáng cả ở những chốn hôi hám, nhơ bẩn, ở ngay chính nơi mà cái xấu, cái ác ngự trị. Cái đẹp có thể được sinh ra từ trong tăm tối, trong môi trường mà cái xấu, cái ác ngự trị nhưng cái đẹp phải được sống trong môi trường của cái đẹp, cái đẹp không thể chung sống lẫn lộn với cái xấu, cái ác. Cái đẹp một khi được tỏa sáng nó có tác dụng khơi dậy cái thiện bên trong con người, thèm một nét chữ đẹp của ông Huấn, quản ngục và thơ lại đã từ bỏ chốn tù ngục nhơ nhớp để giữ cho lành cho vững thiên lương của mình.

– Hai tác phẩm, hai chi tiết nghệ thuật đều thể hiện quan niệm về cái đẹp của mỗi nhà văn, quan niệm ấy có những nét tương đồng và khác biệt. Cả hai nhà văn đều quan niệm cái đẹp phải gắn với cái thiện. Với Nguyễn Minh Châu thì bản thân cái đẹp chính là đạo đức; còn Nguyễn Tuân thì quan niệm muốn chơi chữ trước hết phải giữ thiên lương cho lành vững.

Tuy nhiên, do quan niệm nghệ thuật khác nhau nên mỗi nhà văn cũng có những quan điểm riêng về cái đẹp. Với Nguyễn Tuân, cái đẹp có thể được sinh ra giữa chốn tù ngục, nơi cái xấu, cái ác ngự trị nhưng cái đẹp là một phạm trù tách bạch, đối lập hoàn toàn với cái lem luốc của cuộc đời. Tới Nguyễn Minh Châu cái đẹp hòa lẫn trong cuộc đời xù xì, lấm láp và còn nhiều ngang trái đớn đau. Cái đẹp đích thực không bao giờ tách rời khỏi cuộc sống đời thường; người nghệ sỹ chân chính phải biết nâng niu cái đẹp đó, để nó có thể tỏa sáng ngay cả trong bóng tối của sự khổ đau.

4. Đánh giá chung

Hai nhà văn đã có những đóng góp lớn về quan niệm nghệ thuật tiến bộ, mới mẻ đối với nền văn học nước nhà.

Đồng thời, quan niệm ấy là biểu hiện nét đẹp tâm hồn và tài năng của họ.

http://santruyen.com/tuyen-tap-doan-cong-le-huy)

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Với giá trị hiện thực, với thành công trong việc xây dựng nhân vật để thể hiện tư tưởng nội dung tác phẩm như đã phân tích ở trên thì truyện ngắn Vợ chồng A

– Bốn câu thơ trên là hình ảnh không khí đêm lễ hội tưng bừng hòa hợp với ánh sáng lung linh và tâm hồn trẻ trung, yêu đời của các chiến sĩ Tây Tiến thì

Điều cần nhấn mạnh là, trong bối cảnh mới của sự mở rộng hợp tác và giao lưu quốc tế như hiện nay, nhân dân Việt Nam không chỉ bảo vệ độc lập, tự chủ trên

Trên cơ sở hiểu biết về tác giả Kim Lân và tác phẩm Vợ nhặt, thí sinh có thể cảm nhận về hình tượng nhân vật người vợ nhặt, từ đó liên hệ với nhân vật Liên ( Hai

Trên cơ sở hiểu biết về tác giả Kim Lân và tác phẩm Vợ nhặt, thí sinh có thể cảm nhận về hình tượng nhân vật bà cụ Tứ, từ đó liên hệ chi tiết "bát

– Tác phẩm Tràng giang cho đến tận bây giờ vẫn là một đỉnh cao nghệ thuật mà khó ai có thể vươn tới, bởi sự khéo léo và tinh tế của tác giả trong việc

– Đoạn thơ ta sắp phân tích sau đây là đoạn thơ thể hiện quan niệm nhân sinh của Xuân Diệu về thời gian và tuổi trẻ và niềm khao khát được sống mãnh liệt, sống

Chính vì vậy mà khi nhận định về nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao, có ý kiến cho rằng: Chí Phèo vừa là một gã mất trí, công cụ nguy