• Không có kết quả nào được tìm thấy

Đề thi thử THPT quốc gia 2021 môn Văn có đáp án chi tiết - Đề số 6 | Ngữ văn, Đề thi THPT quốc gia - Ôn Luyện

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "Đề thi thử THPT quốc gia 2021 môn Văn có đáp án chi tiết - Đề số 6 | Ngữ văn, Đề thi THPT quốc gia - Ôn Luyện"

Copied!
9
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

ĐỀ SỐ 6 BỘ ĐỀ THI THPT QUỐC GIA CHUẨN CẤU TRÚC BỘ GIÁO DỤC Môn: Ngữ văn

Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề



I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

Đọc đoạn trích sau đây và thực hiện các yêu cầu:

Hồn Trương Ba: (sau một hồi lâu): Tôi đã nghĩ kĩ… (nói chậm và khẽ) Tôi không nhập vào hình thù ai nữa! Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn!

Đế Thích: Không thể được! Việc ông phải chết chỉ là một lầm lẫn của quan thiên đình.

Cái sai ấy đã được sửa bằng cách làm cho hồn ông được sống.

Hồn Trương Ba: Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc đúng khác.

Việc đúng còn làm kịp bây giờ là làm cu Tị sống lại. Còn tôi, cứ để tôi chết hẳn…

Đế Thích: Không! Ông phải sống, dù với bất cứ giá nào…

Hồn Trương Ba: Không thể sống với bất cứ giá nào được, ông Đế Thích ạ! Có những cái giá đắt quá, không thể trả được… Lạ thật, từ lúc tôi có đủ can đảm đi đến quyết định này, tôi bỗng cảm thấy mình lại là Trương Ba thật, tâm hồn tôi lại trở lại thanh thản, trong sáng như xưa…

Đế Thích: Ông có biết ông quyết định điều gì không? Ông sẽ không còn lại một chút gì nữa, không được tham dự vào bất cứ nỗi vui buồn gì! Rồi đây, ngay cả sự ân hận về quyết định này, ông cũng không có được nữa.

Hồn Trương Ba: Tôi hiểu. Ông tưởng tôi không ham sống hay sao? Nhưng sống thế này, còn khổ hơn là cái chết. Mà không phải chỉ một mình tôi khổ! Những người thân của tôi sẽ còn phải khổ vì tôi! Còn lấy lí lẽ gì khuyên thằng con tôi đi vào con đường ngay thẳng được? Cuộc sống giả tạo này có lợi cho ai? Họa chăng chỉ có lão lí trưởng và đám trương tuần hỉ hả thu lợi lộc! Đúng, chỉ bọn khốn kiếp là lợi lộc.

Đế Thích: Tôi không phải là kẻ khốn kiếp... Tôi quý mến ông... Tôi sẽ chẳng bao giờ được đánh cờ với ông nữa ư? Nhờ ông đánh cờ với tôi, người trên trời, dưới đất mới biết tôi cao cờ thế nào! Ngoài ông ra không ai dám đọ cờ với tôi. Ông chính là lẽ tồn tại của tôi!

Hồn Trương Ba: Vì để chứng minh ông tồn tại mà tôi cứ phải tiếp tục sống cuộc sống không phải là tôi ư? Không, ông phải tồn tại lấy chứ!

(Trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt –Lưu Quang Vũ, SGK Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục, 2018, trang 151 –152)

(2)

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích trên. Đoạn trích này được diễn đạt theo phong cách ngôn ngữ nào?

Câu 2. Theo anh (chị), vì sao Hồn Trương Ba lại khẳng định: Không thể sống với bất cứ giá nào được, ông Đế Thích ạ! Có những giá đắt quá, không thể nào trả được?

Câu 3. Anh (chị) hiểu thế nào về câu nói sau: Sống thế này, còn khổ hơn là cái chết. Mà không phải chỉ một mình tôi khổ! Những người thân của tôi sẽ còn phải khổ vì tôi?

Câu 4. Thông điệp nào của đoạn trích trên có ý nghĩa nhất đối với anh (chị)?

II. LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1. (2,0 điểm)

Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) nêu suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến được nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu: Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc đúng khác.

Câu 2. (5,0 điểm)

Phân tích tình huống cắt dây trói cứu A Phủ, Mị cũng đã tự cắt dây trói buộc cuộc đời mình với nhà thống lí Pá Tra trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.

HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

Câu 1. – Phương thức biểu đạt chính dược sử dụng trong đoạn trích trên là phương thức biểu cảm.

– Đoạn trích này được diễn đạt theo phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.

Câu 2. Sở dĩ Hồn Trương Ba khẳng định: Không thể sống với bất cứ giá nào được, ông Đế Thích ạ! Có những giá đắt quá, không thể nào trả được là vì:

– Khi sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo; sống vay mượn, chắp vá, sống nhờ gửi trong cái thân xác tầm thường, dung tục của người hàng thịt; linh hồn thanh cao, thuần khiết của Trương Ba đã bị cái thân xác tầm thường, dung tục của người hàng thịt lấn át, chế ngự, đầu độc, làm cho thay đổi đến mức không còn là mình nữa. Hồn Trương Ba cũng bị những người thân xa lánh, khinh bỉ, xua đuổi, khước từ; làm tan hoang cả một gia đình hạnh phúc.

Đó là những giá đắt quá, không thể nào trả được.

– Vì vậy, với Trương Ba không thể sống với bất cứ giá nào được. Hơn nữa, khi sống bằng mọi giá, người ta sẽ trở nên đảo điên, hèn hạ, sẵn sàng chà đạp lên đạo lí và tình nghĩa, chà đạp lên những gì tốt đẹp của cuộc đời.

Câu 3. Câu nói: Sống thế này, còn khổ hơn là cái chết. Mà không phải chỉ một mình tôi khổ!

Những người thân của tôi sẽ còn phải khổ vì tôi ẩn chứa nhiều ý nghĩa:

(3)

– Sống thế này là sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo; sống vay mượn, chắp vá sống nhờ sống gửi. Đó là khi linh hồn thanh cao, thuần khiết của Trương Ba phải sống trong cái xác tầm thường, dung tục của người hàng thịt.

– Theo Trương Ba, tình trạng sống như thế còn khổ hơn là cái chết, bởi linh hồn thanh cao, thuần khiết của Trương Ba đã bị cái thân xác tầm thường, dung tục của người hàng thịt lấn át, làm cho thay đổi đến mức không còn là chính mình nữa.

– Ý thức sâu sắc của Trương Ba về việc tình trạng sống như thế cũng gây ra vô vàn đau khổ, phiền toái cho những người thân (vợ, con trai, con dâu, cháu gái); câu nói này cũng cho thấy, trong quan niệm của Trương Ba, sống không thể chỉ là vì mình, mà còn phải vì người khác, vì những người thân yêu.

Câu 4. – HS tự chọn cho mình một thông điệp mà bản thân cho là có ý nghĩa nhất. Sau đó, giải thích vì sao chọn thông điệp đó.

– Có thể lựa chọn một trong những thông điệp dưới đây:

+ Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc đúng khác.

+ Không thế sống với bất cứ giá nào được.

+ Sống không thể chỉ là vì mình, mà còn phải vì người khác, vì những người thân yêu.

+ Mỗi người phải tự khẳng định lấy sự tồn tại của chính mình.

II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1. (2,0 điểm) HS tham khảo nội dung dưới đây để viết đoạn văn:

1. Giải thích

– Cái sai ở đây là những suy nghĩ, tình cảm, hành động không đúng hoặc không phù hợp với lẽ phải; là những điều trái với yêu cầu khách quan, dẫn đến hậu quả không hay.

=> Ý kiến trên, đề cập đến những sai lầm của con người trong cuộc sống cũng như việc sửa chữa những sai lầm ấy.

2. Bàn luận

– Đã là con người thì thường khó tránh được những "cái sai" trong cuộc đời. Nhưng đã là con người chân chính thì phải biết tỉnh táo nhận ra sai lầm, dũng cảm thừa nhận sai lầm và nỗ lực sửa chữa, khắc phục sai lầm.

– Tuy nhiên, có những cái sai không thể sửa được, nhất là những cái sai có liên quan đến nhân phẩm, danh dự, mạng sống của con người hay danh dự tồn vong của một dân tộc, một đất nước.

(4)

– Sửa sai bằng những việc làm chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Ngay cả khi bù lại bằng một việc đúng khác cũng chưa chắc đã sửa được cái sai. Vì vậy, cách tốt nhất là đừng bao giờ sai nữa.

– Quan niệm trên đúng đắn, sâu sắc, nhưng chưa thật toàn diện.

3. Bài học nhận thức và hành động – Tuổi trẻ cần nghiêm khắc với bản thân.

– Luôn phải tỉnh táo và có bản lĩnh sống trong cuộc đời để tránh mắc sai lầm.

Câu 2. (5,0 điểm) 1. Mở bài

– Hương phù sa của đời phải chăng là nhụy hoa xây đắp hình tượng nghệ thuật? Trên dải đất hình chữ S của đất Việt thân yêu có một mảnh đất nơi địa đầu của Tổ quốc – hoang vu và ngút ngàn nhưng lại là cảm hứng của biết bao văn nhân thi sĩ. Lật lại vài trang sách ta thấy lấp lánh "hồn Tây Bắc" trong trang thơ Chế Lan Viên, dòng Đà giang "Bắc độc lưu" trong trang văn Nguyễn Tuân... Đằm sâu trong vẻ đẹp đó ta làm sao có thể quên được Tô Hoài – cây bút ngược dòng về miền Tây Bắc để lưu dấu tên tuổi của mình ở xứ thiêng liêng rừng núi hóa anh hùng (Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên) với tập Truyện Tây Bắc.

– Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ mà nhà văn Tô Hoài đã dành nhiều tài năng và tâm huyết để xây dựng. Đọc Vợ chồng A Phủ, ta không thể quên được chi tiết Mị cắt dây trói cứu A Phủ – một chi tiết làm nên giá trị độc đáo của tác phẩm. Và đúng như ai đó đã từng nói, khi cắt dâу trói cứu A Phủ, Mị cũng đã tự cắt dây trói buộc cuộc đời mình với nhà thống lí Pá Tra.

2. Thân bài

2.1. Khái quát chung về tác phẩm

– Vợ chồng A Phủ trích trong tập Truyện Tây Bắc (1953) của Tô Hoài. Trong chuyến đi dài tám tháng cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc (1952), Tô Hoài đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm hứng để viết truyện này. Tô Hoài thành công trong Vợ chồng A Phủ không chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật của một cây bút tài hoa.

2.2. Khái niệm về tình huống truyện

Có thể hiểu, tình huống truyện chính là bối cảnh, hoàn cảnh (không gian, thời gian, địa điểm, âm thanh, màu sắc... tạo nên câu chuyện).

– Có ba loại tình huống phổ biến trong truyện ngắn: tình huống hành động; tình huống tâm trạng; tình huống nhận thức. Nếu tình huống hành động chủ yếu nhằm tới hành động có tính bước ngoặt của nhân vật; thì tình huống tâm trạng chủ yếu khám phá diễn biến tình cảm, cảm

(5)

xúc của nhân vật; và tình huống nhận thức chủ yếu cắt nghĩa giây phút "giác ngộ" chân lí của nhân vật.

=> Tình huống càng độc đáo, mới lạ, càng giúp cho tác phẩm hấp dẫn, ấn tượng, sâu sắc với người đọc.

2.3. Phân tích cụ thể về tình huống truyện

– Câu chuyện về Mị, được bắt đầu từ một hình ảnh rất giàu sức gợi: Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra, thường thấy có một cô gái ngồi quay sợi bên tảng đá, cạnh tàu ngựa.

Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi gai, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay cõng nước dưới khe lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi, chỉ với hai câu văn giản dị ấy thôi, bản chất sự việc đã hiện lên rõ nét. Câu văn cũng như dài thêm ra để độc giả lĩnh hội một cách thấu dáo. Vị trí xuất hiện của Mị đã nói lên tất cả, ngồi quay sợi gai bên tảng đá, cạnh tàu ngựa, thậm chí còn như gắn liền với chúng.

– Mị vốn là một cô gái con nhà nghèo – "nghèo từ trong trứng nghèo ra"; Mị trẻ, giàu lòng yêu đời, ham sống và có tài thổi lá hay như thổi sáo; Mị còn là một cô gái chăm làm, một người con hiếu thảo... Nhưng, một món "nợ gia truyền" của người nghèo, mà Mị phải "đi tù khổ sai" trong nhà thống lí Pá Tra, dưới hình thức làm con dâu gạt nợ. Biết bao thân phận người dân miền núi, đã bị trả giá bằng cả đời người như bởi hình thức cho vay nặng lãi.

– Thời gian đầu, khi mới ở "nhà tù thống lí Pá Tra". Mị đau đớn, uất ức, phản ứng quyết liệt.

Có đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc. Cô không thể chấp nhận làm thân phận nô lệ cho nhà giàu. Nhưng, tất cả đã thành định mệnh nàng Kiều của Nguyễn Du trước khi dấn thân vào cuộc đời ô nhục, cũng một lần nghĩ đến quyên sinh, mà cũng Thời gian đầu, khi mới ở

"nhà tù thống lí Pá Tra". Mị đau đớn, uất ức, phản ứng quyết liệt. Có đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc. Cô không thể chấp nhận làm thân phận nô lệ cho nhà giàu. Nhưng, tất cả đã thành định mệnh nàng Kiều của Nguyễn Du trước khi dấn thân vào cuộc đời ô nhục, cũng một lần nghĩ đến quên sinh, mà cũng không thoát khỏi kiếp đoạ đày 15 năm đây, Mị còn khổ hơn, bởi món nợ vẫn còn đây, đổ lên đầu bố già.

– Ở địa ngục trần gian nhà Pá Tra, bao vất vả, cực nhọc nhất đổ lên đầu. Mấy năm sau khi bố già qua đời, Mị cũng không nghĩ đến cái chết nữa, bởi vì “Mị quen cái khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng như mình cũng là con trâu, con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Đời Mị chỉ là công việc nối tiếp nhau, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng cứ thế làm đi làm lại: tết xong thì hái thuốc phiện, năm thì giặt đay, xe đay, cuối mùa thì bẻ bắp… thêm vào sự đoạ đày thể xác ấy còn là ách áp chế về tinh thần mê tín, thần quyền đã hỗ trợ rất đắc lực cho giai cấp thống trị. Nó thực sự là thứ “thuốc phiện tinh thần” như lời Các-Mác nói.

(6)

– Không chỉ dừng lại ở đó, ở tầng sâu hơn ngòi bút Tô Hoài còn nêu lên một sự thực đau lòng: con người bị áp bức, nếu cứ nhẫn nhục chịu đựng, kéo dài đến một lúc nào đó, sẽ bị tê liệt cả tinh thần phản kháng. “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” thật không ở đâu mạng sống, nhân cách con người bị coi rẻ đến thế! Cũng không ở đâu, con người lại tự mình coi rẻ mình một cách tuyệt vọng như vậy. Mị cam chịu thân phận của người con dâu gạt nợ. Và chỉ biết ở cái buồng kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi.

– Như đã nói ở phần đầu, Mị có một tuổi trẻ hạnh phúc, một khái khao làm chủ cuộc sống tính cách ấy, phẩm chất ấy không bao giờ chết, nó chỉ lạm thời bị đè lén xuống. Và ngọn gió để thổi bùng lên đốm lửa trong lòng Mị, là hoàn cảnh điển hình: mùa xuân về trên vùng cao:

“Hồng Ngài năm ấy, ăn tết vào lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội”.

Dầu trong thời tiết khắc nghiệt, mùa xuân về cũng đem đến cho người dân vùng cao một niềm vui sống, sức sống của tạo vật và con người như bừng tỉnh: “trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra treo trên các mỏm đá, xoè ra như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện vừa nở trắng, lại đổi ra màu đỏ au, đỏ thậm, rồi sang màu tím man mát. Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà…”Sức mạnh của ngòi bút nhân đạo Tô Hoài không chỉ dừng lại ở tình cảm xót thương Mị, ở sự tố cáo tính tàn bạo của giai cấp thống trị, mà còn ở chỗ nhìn ra con người bên trong của nhân vật. Ông đã tìm sâu vào tận cùng của ý thức và trong đáy sâu của tiềm thức nhân vật, cho thấy vẫn còn le lói chút ánh sáng, hơi ấm của niềm ham sống, khát khao hạnh phúc, như lớp cho dày nguội lạnh vẫn còn ủ chút than hồng, lớp than ấy chỉ cần ngọn gió thoáng qua là bùng lên. Tô Hoài đã góp thêm vào truyền thống nhân đạo trong nền văn học dân tộc một tiếng nói có quyền năng và sức tái tạo riêng.

– Hoàn cảnh ấy không thể tác động vào tâm hồn Mị. Trong các yếu tố ngoại của mùa xuân, phải kể đến tiếng sáo: ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai sáo gọi bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi. Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi:

Mày có con trai con gái rồi Mày đi làm nương

Ta không có con trai con gái Ta đi tìm người yêu.

Như vậy, với Mị, tiếng sáo là biểu tượng lôi cuốn nhất của tình yêu, khát vọng ham sống.

Trong không khí ấy Mị lại được kích động bởi men rượu: Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Cách uống rượu ấy như báo trước sự nổi loạn mà chính

(7)

Mị cũng chưa ý thức rõ: Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng.

Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Bằng việc nhớ lại quá khứ, Mị đã vượt qua tình trạng sống "phi thời gian" lâu nay của mình. Tiếp đó, lòng ham sống trong Mị trỗi dậy mãnh liệt: Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Phản ứng đầu tiên đến trong tâm trí Mị là một ý nghĩ: Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho hết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường... ý nghĩ về cái chết lúc này chính là sự phản kháng quyết liệt với hoàn cảnh. Trong khi ấy, tiếng sáo gọi bạn yêu cứ thôi thúc, quyến rũ Mị. Nó là biểu tượng của sự sống mà bấy lâu nay Mị đã quên, giờ đang trở lại. Tiếng sáo theo sát diễn biến tâm trạng nhân vật. Tiếng sáo từ chỗ là một sự việc của thực tại bên ngoài (lửng lơ bay ngoài đường), đã trở thành sự hiện hữu của đời sống bên trong (rập rờn trong đầu).

– Từ những chuyển biến trong suy nghĩ, Mị đã có một hành động thật ý nghĩa Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Hành động lấy ống mỡ, xắn một miếng có ý nghĩa là Mị đã thắp lên một ngọn đèn, soi rọi cuộc sống tối tăm triền miên của quá khứ. Giữa lúc lòng ham sống trỗi dậy mãnh liệt, cũng là lúc nó bị vùi dập một cách tàn bạo. A Sử bước vào, không hỏi thêm nữa. A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Suốt cái đêm bị trói đứng vào cột nhà ấy, Mị đã sống trong sự giằng xé mãnh liệt giữa niềm khao khát hạnh phúc cháy bỏng và thực tại tàn bạo, lạnh lùng. Lúc mới bị trói, Mị vẫn còn như sống trong tâm trạng mê say với tiếng sáo ngoài kia. Mị như quên mình đang bị trói, quên những đau đớn thể xác, đến nỗi trong giây phút khát khao cuộc sống mãnh liệt, Mị vùng bước đi. Nhưng thực tế phũ phàng là vòng dây trói đang thít chặt, dẫu mong ước mãnh liệt đến mấy, Mị cũng không vượt qua được. Hai biểu tượng của ước mơ và thực tại hiện ra trong hai âm thanh trái ngược, tiếng sáo gọi bạn yêu tha thiết và tiếng chân ngựa đạp vào vách khô khan. Và Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa – thực tại phũ phàng đã bóp nghẹt những khát vọng tươi sáng. Kết cục ấy nói lên rằng, chỉ có những phản kháng tự phát, nhân vật không tự giải thoát cho mình; đồng thời nó cũng hứa hẹn những cuộc nổi loạn trong tương lai của nhân vật.

(8)

– Sau đêm xuân bị trói đứng, tình cảm u mê của Mị có phần trầm trọng. Trước cảnh А Phủ bị trói đứng, lúc đầu Mị là người hoàn toàn vô cảm, vô hồn, cô vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. A Phủ có là cái xác chết đứng đấy, với Mị cũng thế thôi. Đôi mắt mở trừng trừng của A Phủ chẳng gợi lên cho Mị một điều gì cả. Nhưng như đã nói ở đoạn trên, khát vọng đi theo tiếng gọi tự do hãy còn đó trong tâm hồn Mị. Không phải ngẫu nhiên, hình ảnh ngọn lửa được tác giả lặp đi lặp lại nhiều lần trong một đoạn văn miêu tả tâm lí nhân vật khá sâu sắc, tinh tế.

– Nhưng, cái gì đã khiến Mị trở lại với con người thật của mình? Một lần trở dậy, ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Chao ôi! nước mắt. Cái giọt đau, giọt khổ ấy đã làm Mị "chợt nhớ lại" việc Mị bị trói đứng năm trước, cũng là nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không lau đi được; Mị lại nhớ đến người đàn bà đã bị trói chết đứng trong nhà này, và A Phủ chỉ đêm nay là chết thôi. Tết năm trước đã thế, lần này, trí nhớ của Mị lại lóe lên một cách vô thức. Và như một phản ứng dây chuyền, nó nối lại ba số phận. Mị không còn sống với ngọn lửa nữa. Lửa vạc đi mà cô không thổi. Mị chìm vào tưởng tượng. Mị nghĩ mình có thể chết thay cho A Phủ. Cô đã đứng lên trong một ý thức chấp nhận sự hi sinh về mình: Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây trên người А Phủ. Đó là đỉnh cao của đời Mị và cũng là nơi tập trung giá trị nhân văn. Hành động của Mị, tuy không thể đoán trước nhưng vẫn nằm trong sức sống nội tại nhân vật. Mị nguyện làm rẫy, chịu khổ để trả nợ thay cho bố, đã toan chết để tìm sự giải thoát thì lẽ nào lại không dám chết để cứu một con người vô tội? Nhưng, tính cách Mị có sự hợp lí, quy luật mà vẫn gây cho ta sự bất ngờ, ngạc nhiên thú vị. Vừa mới nghĩ đến việc có thể chết thay cho A Phủ, nhưng khi A Phủ chạy đi, Mị đứng lặng trong bóng tối rồi cũng chạy theo. Một kết cấu chặt chẽ: Mị đã cứu A Phủ, thì tại sao lại không tự cứu mình? Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi.

2.4. Bình luận về tình huống

– Thực chất, quá trình Mị cắt dây trói và chạy theo A Phủ là một quá trình tự nhận thức: nhận thức thực tại xã hội tàn bạo, lạnh lùng. Mị cứu A Phủ bởi cô thấy sự bất công, phi lí sắp giết chết một con người vô tội và nhận thức "người" cũng là để qua đó nhận thức, soi sáng

"mình".

– Cho nên, có thể nói, Mị cắt dây trói cứu A Phủ, cũng là Mị đã tự cắt dây trói buộc cô với nhà thống lí Pá Tra. Điều đó hoàn toàn đúng với lí luận cũng như thực tiễn thời đại. Dòng đầu tiên của tuyên ngôn Đảng Cộng sản mà Ăng–ghen từng khẳng định: Lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp, áp bức bóc lột của giai cấp thống trị càng nặng nề, sự vùng lên đấu tranh càng mạnh mẽ.

3. Kết bài

(9)

– Với nghị lực phi thường và lòng ham sống, Mị đã tìm thấy cuộc sống cho bản thân và dám đấu tranh với những thử thách để rồi vượt qua. Rõ ràng khi xây dựng nhân vật Mị, nhà văn Tô Hoài hoàn toàn có ý thức làm nổi bật sức sống tiềm tàng của Mị ngay trong cảnh ngộ tưởng chừng như buông xuôi cho số phận vì cuộc đời quá cay nghiệt.

– Đọc Vợ chồng A Phủ ta thấy Mị là bức chân dung tĩnh lặng. Hầu như trong thời gian ở nhà thống lí Mị chỉ nói có vài ba câu. Nhưng ẩn chứa trong tâm hồn câm lặng ấy, là một sức sống mãnh liệt, một khát vọng lớn lao như mạch suối ngầm trong mát. Tiếp xúc với Vợ chồng A Phủ ta nhớ, ta yêu một cô Mị ở Hồng Ngài, càng bị đọa đày đau khổ, càng khát khao sức sống mãnh liệt để có thể hiểu hơn một cô Mị du kích Phiềng Sa sau này. Thấm thoắt đã hơn nửa thế kỉ trôi qua, lớp bụi của dòng thời gian đã phủ dày lên những trang giấy, nhưng những gì là tình đời, tình người thì vẫn còn mãi.

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

- Mỗi nhà văn đều có một phong cách nghệ thuật độc đáo trong việc thể hiện hình tượng các dòng sông, giúp người đọc có những cái nhìn phong phú, đa dạng về

Hình ảnh ấy đưa chúng ta liên tưởng truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, truyện đã để lại trong lòng người đọc, một hình ảnh khó quên đó là nhân vật

– Bài thơ cũng là bản tình ca đã khắc họa hết thảy mọi cung bậc tình cảm của tác giả hay nói đúng hơn là giữa kẻ ở – người đi, giữa nhân dân đồng bào Việt Bắc

– Miêu tả, kế chuyện về một dòng sông, một vùng đất thuộc miền Tây của Tổ quốc, Nguyễn Tuân đã thể hiện sự hiểu biết sâu rộng, một tình yêu tha thiết bao la

– Qua nhân vật Mị, ta thấy Tô Hoài là một nhà văn tài năng khi đưa cuộc đời Mị sang trang mới, bắt đầu một ngày mới tươi đẹp sau "giấc ngủ mê" dài

Từ những lời tự hát tình yêu trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, có ý kiến cho rằng: Sở dĩ bài thơ đi cùng năm tháng là bởi: Sóng đã thể hiện được một tình

Với giá trị hiện thực, với thành công trong việc xây dựng nhân vật để thể hiện tư tưởng nội dung tác phẩm như đã phân tích ở trên thì truyện ngắn Vợ chồng A

– Bốn câu thơ trên là hình ảnh không khí đêm lễ hội tưng bừng hòa hợp với ánh sáng lung linh và tâm hồn trẻ trung, yêu đời của các chiến sĩ Tây Tiến thì