• Không có kết quả nào được tìm thấy

Đặc điểm doanh nghiệp xây dựng hoạt động theo mô hình công ty

Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN

1.2. Đặc điểm doanh nghiệp xây dựng hoạt động theo mô hình công ty mẹ -

1.2.2. Đặc điểm doanh nghiệp xây dựng hoạt động theo mô hình công ty

1.2.2.1. Đặc điểm về cơ cấu tổ chức hoạt động

Doanh nghiệp theo mô hình CTM-CTC vừa có sự tích tụ của bản thân DN, lại vừa có sự tập trung giữa các DN. Tổ hợp CTM-CTC vừa nâng cao trình độ xã hội hóa sản xuất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, vừa có năng lực cạnh tranh. Trong tổ hợp CTM-CTC, vốn được tập trung từ nhiều nguồn khác nhau, được quản lý và sử dụng, nhằm đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn. Với số vốn lớn, DN theo mô hình CTM-CTC có khả năng chi phối và cạnh tranh mạnh trên thị trường, từ đó có khả năng mở rộng nhanh chóng quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ, kỹ thuật hiện đại, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, vì vậy đạt doanh thu lớn. Phạm vi hoạt động của DN theo mô hình CTM-CTC rất rộng, có thể ở phạm vi nhiều nước.

Các DN hoạt động theo mô hình CTM-CTC không phải là một DN mà là một tổ hợp các DN thành viên có tư cách pháp nhân. CTM và các CTC đều là những pháp nhân độc lập, hạch toán độc lập. Cơ cấu tổ chức của TCT rất đa dạng tuỳ theo những đặc trưng và yêu cầu quản lý. Hiện nay TCT thường được tổ chức quản lý theo mô hình đa khối, CTM chi phối các CTC về chiến lược kinh doanh, chính sách tài chính...

TCT theo mô hình CTM-CTC có thể được tổ chức theo các dạng sau:

Cấu trúc giản đơn: Mô hình dưới đây là sự mô tả đơn giản mối quan hệ đầu tư vốn giữa các đơn vị thành viên nhằm phác hoạ cơ chế kiểm soát tài chính trong TCT.

Trong mô hình này, CTM nắm giữ cổ phần của các CTC trực hệ (CTC cấp 1); đến lượt các CTC lại đầu tư vốn nắm giữ cổ phiếu của các công ty cấp 3, được gọi là các “CTC cấp 2”. Cơ cấu đầu tư vốn theo kiểu tương đối đơn giản, tức là CTM trực tiếp chi phối về tài chính thông qua việc nắm giữ cổ phiếu của các CTC trực hệ. CTM kiểm soát gián tiếp công ty cháu qua các CTC, không có sự đầu tư lẫn nhau giữa các thành viên, không có sự đầu tư ngược trở lại từ các công ty cháu vào CTM, không có sự đầu tư gián tiếp từ CTM vào CTC cấp 2. (Sơ đồ 1.1: Cấu trúc đơn giản).

Sơ đồ 1.1: Cấu trúc đơn giản

Cấu trúc hỗn hợp: Các quan hệ đầu tư kiểm soát của mô hình này gồm có:

- CTM đầu tư, kiểm soát trực tiếp các CTC trực hệ (1);

- CTC đầu tư, kiểm soát trực tiếp các công ty cháu trực hệ (2);

- CTC đầu tư, kiểm soát chéo công ty cháu không trực hệ (2b);

- CTM đầu tư, kiểm soát trực tiếp các công ty cháu (3);

- Các công ty đồng cấp đầu tư vốn lẫn nhau (4);

- CTC, cháu đầu tư ngược trở lại CTM (5)...

Đối với trường hợp này về lý thuyết thì có thể xẩy ra, tuy nhiên, trong thực tế thường không cho phép vì như vậy sẽ dẫn đến việc tạo vốn ảo, vốn CTM đầu tư vào

Công ty mẹ

Công ty con I Công ty con

III Công ty con II

CTC cấp 2 I.1

CTC cấp 2 I.2

CTC cấp 2 II.1

CTC cấp 2 II.2

CTC cấp 2 III.1

CTC cấp 2 III.2

CTC, lại được CTC sử dụng để đầu tư ngược trở lại CTM nên thực tế không có vốn phát sinh thêm ở đây. Nếu có cho phép đầu tư trở lại thì thực tế chỉ là theo hình thức liên kết mà thôi. (Sơ đồ 1.2: Cấu trúc hỗn hợp).

Sơ đồ 1.2: Cấu trúc hỗn hợp

DN hoạt động theo mô hình CTM-CTC là một hình thức liên kết của nhiều công ty hoạt động trong một ngành hoặc nhiều ngành trong một nước hoặc nhiều nước để tiến hành kinh doanh thông qua một sự điều hành chung. Phạm vi hoạt động của TCT kinh tế rất rộng, không chỉ ở phạm vi lãnh thổ một quốc gia, mà ở nhiều nước hoặc phạm vi toàn cầu. Đặc điểm này sẽ ảnh hưởng đến tổ chức công tác kế toán trong các DN hoạt động theo mô hình CTM-CTC trên các phương diện:

Một là, vì có quy mô hoạt động lớn, địa bàn hoạt động rộng nên thông tin cần thu nhận, xử lý và cung cấp trong tổ hợp CTM-CTC nhiều, đa dạng và phức tạp hơn các loại hình tổ chức kinh doanh khác. Mỗi đơn vị thành viên trong TĐKT/TCT là một đơn vị kế toán, TĐKT/TCT cũng là một đơn vị kế toán. Vì vậy, TCCTKT trong tổ hợp CTM-CTC được tiến hành ngay trong từng đơn vị thành viên (CTM và các CTC, công ty cháu..) và trong phạm vi cả TĐKT/TCT để phục vụ tổng hợp số liệu lập BCTCHN.

CTM thông qua quyền sở hữu cổ phần có quyền chi phối các CTC về chiến lược kinh doanh, chính sách tài chính..., trong đó có các quy định về việc thu nhận, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế tài chính, đảm bảo thông tin kế toán cung cấp được kịp thời, trung thực và hợp lý.

Hai, ảnh hưởng đến việc tổ chức BMKT. Các đơn vị thành viên trong TĐKT/TCT đều phải tổ chức BMKT để thực hiện các công việc kế toán ở đơn vị mình. Tuy nhiên khác với các loại hình tổ chức kinh doanh khác, khi tổ chức BMKT trong TĐKT/TCT cần phải tổ chức một bộ phận kế toán ở CTM và CTC để tiến hành thu thập, xử lý và tổng hợp số liệu lập phục vụ hợp nhất BCTC. Khi cơ cấu của một TĐKT/TCT càng đa dạng, phức tạp thì việc hợp nhất BCTC càng diễn ra khó khăn.

Công ty mẹ

CTC I CTC II CTC III

CTC cấp 2 I.1

CTC cấp 2 I.2

CTC cấp 2 II.1

CTC cấp 2 II.2

CTC cấp 2 III.1

CTC cấp 2 III.2

(1) (1) (1)

(2) (2) (2)

(3)

(4) (4)

(5) (5)

1.2.2.2. Đặc điểm tổ chức sản xuất và quản lý của doanh nghiệp xây dựng Thứ nhất, đặc điểm về tổ chức hoạt động thi công xây dựng

Xây dựng là ngành sản xuất mang tính công nghiệp, góp phần tạo nên cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế. Hoạt động sản xuất xây dựng bao gồm: xây mới, mở rộng, khôi phục, cải tạo lại hay hiện đại hóa các công trình thuộc mọi lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân như công trình giao thông (cầu, cảng, bến,...), thủy lợi, các khu công nghiệp, các công trình dân dụng...

Một trong những đặc thù của xây dựng là DN xây lắp muốn thực hiện thi công thì phải được chủ đầu tư chấp thuận thông qua việc chỉ định thầu hoặc phải tham gia vào quá trình đấu thầu (công việc đấu thầu do chủ đầu tư tổ chức). Khi trúng thầu, DN có thể đứng ra làm tổng thầu (nhận toàn bộ công trình hoặc tổ hợp nhiều công trình), tổ chức thi công toàn bộ hay gọi thêm các nhà thầu phụ (là những DN có chuyên môn sâu về mảng công việc đảm nhận, có thể là từng hạng mục, từng khối lượng công việc cụ thể). Một DN xây dựng cũng có thể chỉ tham gia xây dựng công trình với tư cách là nhà thầu phụ, họ ký hợp đồng với tổng thầu theo khối lượng công việc do hai bên thỏa thuận. Đặc điểm trên có thể thấy, tùy vào năng lực của mỗi DN xây dựng có thể đảm nhận toàn bộ hay một phần, một số hạng mục xây dựng, thực hiện chức năng bàn giao, thi công, thanh quyết toán công trình với chủ đầu tư. Với mỗi CT/HMCT xây dựng thường có những đặc điểm, độ phức tạp khác nhau khi tổ chức thi công, do đó việc lựa chọn phương thức tổ chức thi công (thủ công, máy móc,...) cũng sẽ ảnh hưởng đến TCCTKT.

Thứ hai, phương thức tổ chức SXKD của các DN xây dựng phong phú, đa dạng Tổ chức sản xuất trong các DN xây dựng ở nước ta hiện nay phổ biến theo các phương thức khoán sản phẩm xây dựng cho các đơn vị cơ sở, các tổ đội thi công, đây là phương thức quản lý thích hợp với cơ chế thị trường. Công tác khoán trong các DN xây dựng là một quá trình thực hiện hàng loạt các công việc, từ việc xác định đặc điểm tính chất, định mức đơn giá, lập dự toán thi công, giá giao khoán,... đến khâu tổ chức thực hiện và thanh quyết toán công trình. Khi thực hiện cơ chế khoán, DN phải quan tâm đến khối lượng, chất lượng và tiến độ thi công công trình, cũng như trách nhiệm, các công việc sẽ làm của bên nhận khoán và bên giao khoán, từ đó dẫn tới việc TCCTKT cũng có sự khác biệt với các DN sản xuất thông thường. Các đơn vị nhận khoán phải quản lý và nắm bắt được tình hình thực hiện các định mức về chi phí vật tư, nhân công, máy thi công... vừa so với dự toán vừa so với giá khoán để nhằm tiết kiệm được chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm để có thể đạt mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ nhận khoán.

Hiện nay các DN xây dựng thường áp dụng cơ chế khoán cho các DN thành viên trực thuộc theo 2 hình thức sau:

- Hình thức khoán gọn: DN xây dựng là đơn vị có đầy đủ pháp nhân tham gia đấu thầu với chủ đầu tư (bên A), sau khi trúng thầu, ký hợp đồng xây dựng với bên A thì tổ chức giao khoán toàn bộ công trình, hoặc chia thành nhiều HMCT cho các đơn vị trực thuộc tất cả các khoản mục chi phí từ vật tư, nhân công, chi phí sử dụng máy thi công đến chi phí sản xuất chung (khoán cho cấp xí nghiệp hoặc cấp đội trực thuộc).

Trong trường hợp khoán gọn này, các đơn vị nhận khoán phải có đủ năng lực thi công về mọi mặt để có thể hoàn thành CT/HMCT nhận khoán với đơn vị giao khoán. Theo hình thức này đơn vị giao khoán tiến hành khoán toàn bộ giá trị công trình cho bên nhận khoán, khoán trọn gói toàn bộ các khoản mục chi phí (vật liệu, nhân công, máy thi công và sản xuất chung). Đơn vị nhận khoán sẽ tổ chức cung ứng vật tư, thiết bị kỹ thuật, nhân công tiến hành thi công. Khi công trình tiến hành bàn giao, quyết toán đơn vị sẽ được nhận thanh toán toàn bộ giá trị công trình nhận khoán theo quy định.

+ Đơn vị giao khoán là đơn vị có tư cách pháp nhân đứng ra ký kế hợp đồng xây dựng, chịu trách nhiệm về pháp lý và chất lượng công trình, thời gian thi công. Đơn vị giao khoán chỉ trích lại theo tỷ lệ % giá trị quyết toán công trình được duyệt, chính vì thế các giao dịch kinh tế phát sinh tại đơn vị giao khoán tương đối đơn giản, tuy nhiên công việc của kế toán lại dồn vào cuối tháng, hoặc khi CT/HMCT hoàn thành. Do vậy, TCCTKT tại đơn vị giao khoán cần có kế hoạch phù hợp để công việc không bị chồng chéo, chứng từ luân chuyển nhịp nhàng, kế toán cần chú ý đối với khoản tạm ứng cho bên nhận khoán, khi chưa có khối lượng công việc thực hiện thì nên mở sổ chi tiết để có thể coi đó là một khoản vay với lãi suất thỏa thuận giữa hai bên.

+ Đơn vị nhận khoán là đơn vị có đủ điều kiện đảm bảo tổ chức thi công đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng công trình, được phân cấp quản lý tài chính, có tổ chức kế toán riêng. Với mô hình này, đội nhận khoán phải tự cung ứng trang trải các chi phí của mình, tự tổ chức thực hiện sản xuất thi công, đơn vị giao khoán chỉ thực hiện chức năng kiểm tra và giám sát. Đội sẽ thực hiện và chịu trách nhiệm toàn bộ trước công ty về thi công, nghiệm thu, thanh quyết toán,... do đó đòi hỏi chủ công trình phải nhanh nhạy trong công việc chỉ đạo thi công, nghiệm thu và thanh toán. Như vậy, kế toán tại các đội công trình phải là người có trình độ chuyên môn, hiểu biết về dự toán cũng như địa bàn của các công trình do đội mình thi công, tổ chức lập và luân chuyển, bảo quản chứng từ để phục vụ cho việc ghi sổ kế toán, cần nắm bắt được tiến độ, giai đoạn công trình hoàn thành để chuẩn bị hồ sơ nghiệm thu, thanh quyết toán công trình.

- Khoán theo khoản mục: Trường hợp đơn vị nhận khoán không đủ năng lực nhận khoán gọn toàn bộ CT/HMCT thì đơn vị giao khoán có thể giao khoán theo một hoặc vài khoản mục chi phí nhất định trên cơ sở điều kiện cụ thể của các đơn vị trực thuộc. Theo hình thức này, đơn vị giao khoán sẽ khoán những khoản mục nhất định khi thỏa thuận với bên nhận khoán như: nguyên vật liệu, nhân công, còn các chi phí khác do đơn vị giao khoán tự chi, hạch toán và chịu trách nhiệm giám sát kỹ thuật, chất lượng công trình. Với hình thức này thì công việc kế toán chủ yếu tập trung ở bên giao khoán, kế toán cần xác định rõ khoản mục chi phí nào khoán, khoản nào không khoán để có kế hoạch trong việc thu nhận và xử lý thông tin kế toán cho phù hợp. Do đó, việc TCCTKT ở bên nhận khoán khá đơn giản, kế toán cần xác định nhận khoán khoản mục chi phí nào để theo dõi công việc và hạch toán chi phí cho phù hợp.

Như vậy, cơ chế khoán hợp lý trong DN xây dựng có tác dụng tích cực thúc đẩy sản xuất, gắn liền với lợi ích của người lao động, tổ, đội, thi công với khối lượng, chất lượng, tiến độ thi công công trình, tạo động lực khiến người lao động quan tâm đến số lượng và hiệu quả công việc. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu nhận thông tin, xử lý và cung cấp thông cho từng bên tham gia.

1.2.2.3. Đặc điểm về mối quan hệ giữa các doanh nghiệp hoạt động theo mô hình công ty mẹ-công ty con

Quan hệ đầu tư vốn: Là quan hệ đặc trưng nhất của TCT theo mô hình CTM-CTC. Với CTM-CTC nhiều cấp, CTC lại đầu tư và kiểm soát trực tiếp đối với công ty cháu, như vậy CTM đã đầu tư và kiểm soát gián tiếp công ty cháu qua CTC. Các CTC cũng có thể đầu tư vào CTM và đầu tư lẫn nhau với mức đầu tư không tạo quyền kiểm soát, chi phối.

Quan hệ kinh tế - tài chính phát sinh giữa các thành viên: CTM và các CTC trong TCT là những pháp nhân kinh tế độc lập, bình đẳng trước pháp luật nhưng giữa các công ty lại có mối quan hệ chặt chẽ về hợp tác SXKD. Vì vậy, các mối quan hệ kinh tế - tài chính như quan hệ tín dụng, mua - bán, thuê - cho thuê... giữa các DN thành viên trong nội bộ TCT phải được thực hiện trên cơ sở các hợp đồng kinh tế, tuân thủ nguyên tắc thị trường, đảm bảo tính tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi, như các pháp nhân khác, tuy nhiên bên cạnh đó cũng có những bảo hộ, ưu đãi theo những điều kiện nhất định.

Quan hệ phân phối kết quả: CTM đầu tư vốn vào CTC do đó CTM là một cổ đông (thành viên góp vốn) và có đầy đủ quyền lợi của một cổ đông trong CTC, trong đó có quyền được phân phối kết quả theo tỷ lệ vốn góp. Sự phân phối kết quả kinh doanh được thể hiện dưới dạng trả và nhận cổ tức. Mức cổ tức phụ thuộc vào kết quả hoạt động, chính sách trả cổ tức của công ty nhận đầu tư.

Các đặc điểm trên các DN xây dựng thuộc TCT đã ảnh hưởng đến việc tổ chức thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin kế toán. Một công ty riêng rẽ không thể có một khoản đầu tư vào chính nó, cũng như không thể có các giao dịch vay- trả, mua - bán, thuê - cho thuê trong chính nó và vì vậy không thể phát sinh các khoản lãi lỗ để phân phối cổ tức. Khi lập BCTCHN thì các giao dịch nội bộ phải được loại trừ. Vì vậy, khi TCCTKT tại TCT và các DN thành viên cần thiết lập các chứng từ kế toán, sổ kế toán phản ánh các giao dịch nội bộ: đầu tư vốn, mua - bán, vay - trả, phân phối kết quả…

1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức công tác kế toán trong doanh nghiệp xây

Đề cương

Tài liệu liên quan