• Không có kết quả nào được tìm thấy

MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC KẾ TOÁN Ở VIỆT NAM

BÀN LUẬN VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN KẾ TOÁN KHI ÁP DỤNG IFRS Ở VIỆT NAM

6. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC KẾ TOÁN Ở VIỆT NAM

Khi Việt Nam áp dụng IFRS, kế toán viên sẽ ngày càng được yêu cầu cao hơn về các vấn đề liên quan đến đạo đức nghề nghiệp. Để đáp ứng yêu cầu đó, các trường đại học cần quan tâm tới việc giảng dạy đạo đức nghề nghiệp kế toán cho sinh viên trong chương trình đào tạo của mình.

Sau đây là một đề xuất:

(1) Các trường cần bố trí thời lượng nhất định để giảng các nội dung về đạo đức kế toán, xem xét việc sẽ tích hợp vào chương trình đào tạo hiện nay của nhà trường như thế nào.

Bernardi (1994) đã chỉ ra rằng các nhà quản lý kế toán khi đã được học các nội dung về đạo đức sẽ đạt điểm cao hơn về thước đo độ nhạy cảm đạo đức và phát hiện gian lận tốt hơn, chứng tỏ việc dạy đạo đức cho sinh viên có thể gia tăng hành vi đạo đức khi những sinh viên này trở thành chuyên gia. Nghiên cứu của Bean và Bernardi (2007) cho thấy rằng dung lượng giảng dạy về đạo đức tăng lên trong môi trường học thuật sẽ dẫn đến sự gia tăng độ nhạy cảm đạo đức của người làm kế toán. Tuy nhiên, tăng thời lượng giảng về đạo đức là các cơ sở đào tạo phải đánh đổi các nội dung giảng về kỹ thuật chuyên môn khác. Vì vậy, thời lượng như thế nào là hợp lý cần phải được tính toán. Nên lồng ghép vào nội dung các môn học hay có những học phần riêng giảng dạy về đạo đức nghề nghiệp cũng cần được cân nhắc sao cho phù hợp với mục tiêu đào tạo, chương trình đào tạo và điều kiện sẵn có về vật chất, nguồn lực của từng trường.

Với những trường đào tạo đa ngành, nên cân nhắc việc bổ sung thêm học phần về đạo đức nghề nghiệp, mời những giảng viên chuyên môn về tâm lý giảng dạy có thể có những phương pháp phù hợp hơn mang lại hiệu quả tốt hơn. Lựa chọn một số học phần hiện có để lồng ghép các nội dung về đạo đức, sẽ do các giảng viên chuyên ngành kế toán đảm nhiệm.

Với những trường thuộc khối ngành kinh tế, có thể thiết kế khóa học capstone. Giới thiệu những nội dung khái quát về đạo đức nghề nghiệp, nhà trường có thể mời các giảng viên chuyên ngành tâm lý tham gia giảng dạy. Quá trình lồng ghép nội dung về đạo đức trong các môn học sẽ do giảng viên chuyên ngành kế toán đảm nhiệm. Khóa học capstone chuyên biệt về đạo đức nghề nghiệp có liên kết với tất cả những nội dung chuyên môn trước đó sẽ có sự phối hợp giữa giảng viên chuyên ngành kế toán và các chuyên gia đến từ các hiệp hội, các kế toán viên có nhiều kinh nghiệm… cùng chia sẻ, thảo luận về các tình huống. Khi đó, người học sẽ được tiếp cận với các vấn đề về đạo đức theo các mức độ tăng dần, với những cách thức làm việc phong phú, được tạo hứng thú về nghề nghiệp nhiều hơn khi được tiếp xúc với các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm thực tế.

(2) Xây dựng tài liệu giảng dạy đầy đủ, thiết kế khoa học, phù hợp, trên cơ sở tham khảo các nguyên tắc về đạo đức được nêu trong Tiêu chuẩn quốc tế về đạo đức của kế toán viên chuyên

nghiệp (Tiêu chuẩn đạo đức IESBA).

Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) được thành lập năm 1977 bao gồm 175 thành viên và cộng sự tại 130 quốc gia. IFAC là tổ chức nghề nghiệp toàn cầu chuyên phục vụ lợi ích công cộng bằng cách hỗ trợ các tiêu chuẩn quốc tế chất lượng cao và giúp xây dựng các tổ chức kế toán chuyên nghiệp (IFAC, 2014). IFAC đã thành lập Ủy ban quốc tế tiêu chuẩn về đạo đức của kế toán viên (IESBA) để thiết lập các tiêu chuẩn đạo đức quốc tế phù hợp cho kế toán viên chuyên nghiệp trên toàn thế giới. Mục tiêu của IFAC là thúc đẩy việc thực hiện tiêu chuẩn đạo đức này cho tất cả các kế toán viên ở các quốc gia, trong nhiều lĩnh vực từ giáo dục, lĩnh vực công hay doanh nghiệp.

Tuy rằng tiêu chuẩn này chưa nhiều quốc gia áp dụng này song những vụ bê bối đầu thế kỷ 21 và các cuộc khủng hoảng tài chính đã đặt ra những vấn đề về niềm tin của các nhà đầu tư. Hội đồng giám sát lợi ích công cộng (PIOB) cho rằng việc áp dụng tiêu chuẩn đạo đức trên toàn thế giới cho kế toán viên chuyên nghiệp là một dự án cần ưu tiên hàng đầu (PIOB, 2012). Và trong tương lai, khi Việt Nam áp dụng IFRS sẽ không thể bỏ qua việc cân nhắc áp dụng các tiêu chuẩn về đạo đức của IESBA. Ngay cả khi chưa áp dụng nó thì việc tham khảo nó để xây dựng bộ tài liệu phục vụ giảng dạy đạo đức kế toán trong các nhà trường cũng nên được xem xét.

Tuy nhiên, giảng dạy đạo đức phải phù hợp với truyền thống đạo đức và những đặc trưng về văn hóa ở mỗi quốc gia vì vậy rất có thể Tiêu chuẩn đạo đức của IESBA không được áp dụng toàn bộ tại Việt Nam. Rất cần có sự nghiên cứu nghiêm túc, chuẩn bị kỹ lưỡng của các cơ sở đào tạo trong quá trình xây dựng bộ tài liệu phục vụ cho giảng dạy đạo đức kế toán.

(3) Cần quan tâm tới đổi mới phương pháp giảng dạy truyền thống, để phù hợp với nội dung giảng dạy về đạo đức, mang lại hiệu quả cao. Một trong những khó khăn đối với việc giảng dạy về đạo đức kế toán đó là thường yêu cầu những phương pháp giảng dạy khác biệt nhiều so với những phương pháp giảng dạy kế toán thông thường. Bởi vậy nó đòi hỏi giảng viên phải nghiên cứu, đổi mới và thích nghi nhiều hơn. Học phản xạ là một trong những phương pháp hiệu quả trong giảng dạy đạo đức kế toán nhưng dường như cũng khá khác so với các phương pháp giảng dạy kế toán đang được áp dụng hiện nay. Ngoài ra, để áp dụng phương pháp này yêu cầu giảng viên nắm vững các mô hình ra quyết định về đạo đức, có một sự nhạy bén nhất định về các vấn đề đạo đức và nó được tích lũy rất nhiều nhờ các kinh nghiệm thực tế. Bởi vậy, không chỉ đổi mới phương pháp giảng dạy mà còn cần các giảng viên không ngừng tích lũy kinh nghiệm. Ở giai đoạn đầu áp dụng IFRS để tích lũy kinh nghiệm cho giảng viên là một thách thức, đòi hỏi sự nỗ lực của mỗi cá nhân, sự hỗ trợ đặc lực của các tổ chức nghề nghiệp.

Tuy nhiên, kinh nghiệm của các nước cho thấy nếu để tự các cơ sở giáo dục quan tâm tới việc giảng dạy về đạo đức kế toán thì sẽ là một bài toán khó và thường bị bỏ ngỏ bởi điều này mất nhiều thời gian và tốn kém về kinh phí. Những áp lực từ phía hiệp hội nghề nghiệp sẽ là một động lực buộc các trường phải quan tâm tới vấn đề đạo đức trong đào tạo kế toán, đảm bảo sinh viên tốt nghiệp đáp ứng được các tiêu chuẩn hành nghề được đưa ra. Bởi vậy, Hiệp hội nghề nghiệp hoặc cơ quan quản lý ở Việt Nam (Bộ tài chính) cần thắt chặt quản lý nhà nước về hành nghề kế toán, đưa các yêu cầu về đạo đức kế toán trở thành bắt buộc đối với kế toán viên hành nghề, từ đó gây áp lực một cách gián tiếp lên các cơ sở đào tạo buộc họ phải quan tâm hơn tới vấn đề này để đáp ứng chuẩn đầu ra của sinh viên.

Các cơ sở đào tạo có lẽ sẽ quan tâm hơn tới vấn đề giảng dạy về đạo đức kế toán khi Việt Nam chính thức áp dụng IFRS. Tuy nhiên, giáo dục đào tạo cần có những chuẩn bị về nguồn lực giảng viên, tài liệu, phương pháp…để có nguồn nhân lực có thể hành nghề ngay khi IFRS chính thức có hiệu lực tại Việt Nam, tránh được những bất lợi do “lép vế” với nguồn nhân lực nước ngoài. Thực tế hiện nay lộ trình áp dụng IFRS tại Việt Nam đã có song dường như các cơ sở đào tạo vẫn đang chờ đợi những bước tiến mạnh mẽ hơn từ phía Bộ Tài chính như những tín hiệu để các cơ sở đào tạo thực sự bắt tay vào công cuộc chuẩn bị cho áp dụng IFRS tại Việt Nam, vốn đã khá muộn và chậm trễ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Abdolmohammadi, Mohammad J, Jane Fedorowicz and Ophera Davis. “Accountants’

Cognitive Styles and Ethical Reasoning: A Comparison Across 15 Years.” Journal of Accounting Education 27 (2009): 185-196.

2. Alan Graham (2012), The Teaching of Ethics in Undergraduate Accounting Programmes:

The Students’ Perspective, Accounting Education, Volume 21, 2012 - Issue 6: BAFA-SIG 2011 ANNUAL CONFERENCE, 599-613.

3. Bean, D. F. & R. A. Bernardi (2007). Accounting ethics courses: do they work? The CPA Journal, January, 64-67.

4. Bernardi, R. A. (1994). Fraud detection: the effect of client integrity and competence and auditor cognitive style. Auditing: A Journal of Practice and Theory, 13(supplement), 68-84.

5. Dellaportas, Steven. “Making a Difference with a Discrete Course on Accounting Ethics.”

Journal of Business Ethics 65 (2006): 391-404

6. Felton, Edward L and Ronald R Sims. “Teaching Business Ethics: Targeted Outputs.”

Journal of Business 60 (2005): 377-391.

7. Flanagan, Jack and Kevin Clarke. “Beyond a Code of Ethics: A Holistic Model of Ethical Decision-Making for Accountants.” Abacus 43.4 (2007): 488-518.

8. Frank, Gary, Emeka Ofobike and Suzanne Gradisher. “Teaching Business Ethics: A Quandry for Accounting Educators.” Journal of Education for Business 85 (2010): 132-138.

9. Huss, H. Fenwick and Denise M. Patterson. “Ethics in Accounting: Values Education Without Indoctrination.” Journal of Business Ethics 12 (1993): 235-243.

10. IFAC. (2014), “Responses to the Member Body Compliance Program”, Available at http://www.ifac.org/ about-ifac/membership/compliance-program

11. McNamee, S. 1978. Moral behavior, Moral development and Motivation. Journal of Moral Education 7: 27-32

12. Mintz, Steven M. “Accounting Ethics Education: Integrating Reflective Learning and Virtue Ethics.” Journal of Accounting Education 24 (2006): 97-117.

13. Oddo, Alfonso R. “A Framework for Teaching Business Ethics.” Journal of Business

Ethics 16 (1997): 293-297.

14. PIOB. (2012), “Seventh Public Report of the Public Interest Oversight Board, available at http://www.ipiob.org/media/files/attach/ANNUAL_REPORT11.pdf

15. Ponemon, L. 1992. Ethical Reasoning and Selection-Socialization in Accounting.

Accounting, Organizations and Society 17(3,4): 239-258.

16. Stephan, Karl D. “How Ethics was Specialized Away.” Academic Questions 16.4 (2003):

31-40.

17. Swanson, Diane L. “Business Ethics Education at Bay: Addressing a Crisis of Legitimacy.”

Issues in Accounting Education 20.3 (2005): 247-253.

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA NHIỆM KỲ KIỂM TOÁN ĐẾN TÍNH ĐỘC LẬP

Đề cương

Tài liệu liên quan