• Không có kết quả nào được tìm thấy

CÁC MÔ HÌNH GIÁM SÁT TÀI CHÍNH PHỔ BIẾN TRÊN THẾ GIỚI VÀ NGUYÊN TẮC PHÒNG NGỪA RỦI RO HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM

3. LIÊN HỆ VỚI VIỆT NAM

về tiêu chuẩn thanh khoản cũng yêu cầu các ngân hàng nắm giữ các tài sản có tính thanh khoản cao và có chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu chi trả và thanh toán trong những trường hợp khó khăn.

Hệ thống điều tiết, giám sát tại nhiều quốc gia không thể phát hiện kịp thời khủng hoảng nếu chỉ đơn thuần dựa vào giám sát tài chính đơn lẻ. Hiện nay, khuôn khổ giám sát đã được hoàn thiện theo hướng bổ sung chính sách thận trọng vĩ mô bên cạnh 2 cột trụ cũ là chính sách vĩ mô và chính sách thận trọng vi mô. Sự phối hợp cả ba cột trụ này nhằm hướng tới đảm bảo an toàn vĩ mô đối với hệ thống tài chính, đảm bảo đồng thời được mục tiêu ổn định tài chính và ổn định giá cả. Cùng với việc tăng cường giám sát thận trọng vĩ mô, sự phối kết hợp giữa ngân hàng trung ương với các cơ quan giám sát trong quá trình thực hiện ổn định tài chính cũng được tăng cường. Một số nền kinh tế như Mỹ, Anh và Khu vực đồng Euro đang chuyển hướng sang kiểu sắp xếp mới nhằm phối hợp tốt hơn giữa các cơ quan điều tiết quản lý tài chính. Theo đó, các ngân hàng trung ương được giao nhiệm vụ ổn định tài chính trên cơ sở xem xét những thuận lợi về mặt thông tin của các ngân hàng này về tính năng động của hệ thống tài chính. Có 2 phương án đang được thế giới áp dụng: Hoặc ký kết và cam kết thực hiện văn kiện ghi nhớ tay ba giữa Ngân hàng Trung ương, Bộ Tài chính, cơ quan giám sát vĩ mô; hoặc thành lập một hội đồng với các thành viên đến từ 3 cơ quan trên và một số chuyên gia khác. Mô hình thứ nhất hiện đang được dùng ở Pháp, Canada…, còn mô hình thứ hai được Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Romania và tới đây có thể có thêm Anh, Mỹ, EU sử dụng. Trên thực tế, Mỹ đã thông qua Đạo luật Dodd- Frank (tháng 7/2010) và thành lập Hội đồng giám sát ổn định tài chính (FSOC) nhằm tăng cường giám sát và giải quyết vấn đề rủi ro hệ thống đối với khu vực tài chính ngân hàng. Anh thành lập Hội đồng chính sách tài chính (FPC) năm 2011 trực thuộc ngân hàng trung ương Anh với mục đích nhận diện và đánh giá các rủi ro hệ thống có thể xảy ra, gây tổn thương cho hệ thống tài chính quốc gia sau khủng hoảng. Ủy ban rủi ro hệ thống khu vực châu Âu (ESRB) đã được thành lập vào năm 2009 nhằm ngăn ngừa các rủi ro hệ thống và đảm bảo sự ổn định của thị trường tài chính châu Âu. ESRB phối hợp cùng 3 cơ quan giám sát chuyên ngành (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm và các quỹ hưu trí) để hoàn thiện hệ thống giám sát tài chính. Ngoài ra, giám sát các tập đoàn tài chính ngày càng có ý nghĩa phong ngừa rủi ro hệ thống…

tự gây thiệt hại cho mình. Mọi rắc rối nảy sinh khi cổ đông lớn nắm quyền kiểm soát và/hoặc điều hành doanh nghiệp khi chỉ nắm giữ 51% cổ phần hay thậm chí ít hơn. Nếu cổ đông này đi ngược lại lợi ích của công ty, bản thân họ chỉ phải chịu thiệt hại theo tỷ lệ phần trăm sở hữu. Đặc biệt, trong trường hợp cấu trúc tài chính kiểu kim tự tháp hoặc cổ phiếu có quyền ưu đãi quyết định, khi phần trăm kiểm soát vượt quá tỷ lệ sở hữu thì vấn đề xung đột lợi ích càng dễ trở nên trầm trọng. Khi các doanh nghiệp niêm yết tận dụng sức hấp dẫn của thị trường chứng khoán để thu hút nguồn lực xã hội, khả năng sử dụng đồng vốn ở mức hiệu quả thấp rất dễ xảy ra. Tình hình sẽ nghiêm trọng hơn, khi mà nguồn vốn từ huy động không bổ sung năng lực kinh doanh, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Đồng thời, một phần của nguồn vốn đó chuyển thành tài sản cá nhân của nhóm các cổ đông vốn sở hữu lượng cổ phần lớn trong công ty thoái vốn để thu hồi tài sản tiền mặt cá nhân.

Việc giảm nhanh tỷ lệ sở hữu của các vị trí lãnh đạo chủ chốt, đặc biệt khi cổ phiếu ở mức giá cao, làm trầm trọng thêm nguy cơ xung đột lợi ích giữa các nhóm cổ đông. Một mối nguy khác là, toàn bộ cỗ máy kinh doanh ngừng trệ hoặc suy giảm hiệu quả do chạy theo các hoạt động tài chính, quan hệ nhà đầu tư, phát hành và chuyển nhượng cổ phiếu...

Những chấn động kinh tế - tài chính ngoại nhập cũng là nguyên nhân tiềm tàng và bất ngờ gây rủi ro hệ thống tài chính thống qua mạng lưới các quan hệ kinh tế - tài chính của một loạt chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài. Khi đó, từng biến động của thị trường tài chính thế giới và khu vực sẽ ngày càng gia tăng ảnh hưởng trực tiếp tới hệ thống tài chính Việt Nam.

Chất lượng của hệ thống truyền thông tài chính ở Việt Nam tiềm ẩn những rủi ro tài chính to lớn. Thực tiễn trên thị trường tài chính, giá chứng khoán có thể tăng giảm theo các dòng thông tin.

Thực tế lịch sử Việt Nam đã từng đối diện với một số tình huống rủi ro hệ thống cao, như thời điểm đổ vỡ hệ thống tín dụng nhân dân những năm 80 của thế kỷ trước và thời điểm năm 2011, khi các ngân hàng thương mại chịu sức ép thanh khoản cao bất thường…

Việt Nam hiện đang áp dụng mô hình giám sát thể chế, theo đó, mỗi cơ quan quản lý phụ trách giám sát một lĩnh vực riêng biệt. Hoạt động ngân hàng chịu sự giám sát trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước mà đơn vị đầu mối, chủ chốt là Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng. Trong khi đó, hoạt động bảo hiểm chịu sự giám sát trực tiếp của Cục Quản lý và Giám sát Bảo hiểm; thị trường chứng khoán chịu sự giám sát trực tiếp của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.

Bên cạnh các cơ quan trên, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia có chức năng tham mưu, tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ trong phân tích, đánh giá, dự báo tác động của thị trường tài chính đến kinh tế vĩ mô và tác động của chính sách kinh tế vĩ mô đến thị trường tài chính; điều phối hoạt động giám sát thị trường tài chính quốc gia (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm); giúp Thủ tướng Chính phủ giám sát chung thị trường tài chính quốc gia.

Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính có mối quan hệ phối hợp chéo trong quản lý và giám sát những ngân hàng thương mại có sở hữu vốn nhà nước. Đồng thời, hai tổ chức này còn có mối quan hệ mật thiết liên quan đến việc phát hành trái phiếu kho bạc, cũng như thực hiện các chính sách tài chính công và chính sách tiền tệ có liên quan đến việc sử dụng các trái phiếu này.

Hoạt động của các cơ quan giám sát trên được căn cứ trên các luật chuyên ngành, bao gồm Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các Tổ chức tín dụng, Luật Chứng khoán và Luật Bảo hiểm. Hiện

nay, chưa có quy định riêng cho hoạt động giám sát tài chính của Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia.

Mô hình giám sát thể chế mà Việt Nam đang áp dụng là phù hợp với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, vì các lý do sau:

(i) Việt Nam là một quốc gia có hệ thống tài chính chưa thực sự phát triển; năng lực giám sát và hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động giám sát đang trong quá trình hoàn thiện, chưa thực sự đủ mạnh;

(ii) Hệ thống các tổ chức tín dụng đang đóng vai trò chi phối trong hệ thống tài chính. Theo số liệu mới nhất tại Báo cáo tổng quan hệ thống tài chính của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia (2018) (tổ chức tín dụng chiếm 95,5% tổng tài sản trong hệ thống tài chính; bảo hiểm là 3,4% và công ty chứng khoán và quản lý quỹ là 1,1%); phạm vi hoạt động của các tổ chức tín dụng vẫn chủ yếu là các hoạt động truyền thống;

(iii) Khảo sát 98 quốc gia (Melecky và Podpiera, 2008), mô hình giám sát thể chế vẫn được nhiều nước áp dụng nhất (42%), tiếp đến là mô hình giám sát hợp nhất (31%) và mô hình giám sát lưỡng đỉnh (24%);

(iv) Bài học kinh nghiệm sau khủng hoảng tài chính 2007 - 2008:

Từ thập kỷ 80 đến trước khủng hoảng tài chính 2007 - 2008, các nước trên thế giới có xu hướng cải tổ mạnh mẽ cấu trúc giám sát theo hướng tập trung chức năng giám sát thị trường tài chính (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm) vào một đơn vị duy nhất - Cơ quan giám sát tài chính (Financial supervision agency - FSA). Điều này xuất phát từ nhận định Ngân hàng Trung ướng chỉ nên tập trung vào việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ, kiềm chế lạm phát bởi lạm phát thấp được cho là nhân tố chính góp phần thúc đẩy ổn định tài chính.

Tuy nhiên, khủng hoảng tài chính 2007 - 2008 cho thấy, chính sách chỉ tập trung vào mục tiêu ổn định giá là chưa đủ mà còn phải duy trì một hệ thống giám sát hiệu quả và khuôn khổ giám sát thận trọng để ổn định tài chính, ổn định kinh tế vĩ mô. Theo đó, cần có các yêu cầu về vốn, thanh khoản, hành động can thiệp kịp thời, quy trình quản trị rủi ro chặt chẽ của từng định chế cũng như việc giám sát tính tuân thủ pháp luật của các định chế trong hệ thống; kết hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ với chính sách an toàn vĩ mô.

Ngân hàng Trung ương là cơ quan đầu mối thích hợp nhất để thực hiện các mục tiêu trên, bởi với các công cụ có trong tay Ngân hàng Trung ương có thể thực hiện được vai trò là người cung ứng thanh khoản cho thị trường khi xảy ra khủng hoảng. Hơn nữa, với vai trò điều hành, Ngân hàng Trung ương có lợi thế trong việc phản ứng kịp thời và trực tiếp nhất đối với các vấn đề mà họ xác định là bất cập và rủi ro, từ đó họ có thể yêu cầu các định chế tài chính mà họ giám sát có những bước đi cần thiết để giảm thiểu rủi ro hệ thống.

Với nhận thức trên, hiện nay ở phần lớn các nước, Ngân hàng Trung ương vẫn đảm đương trách nhiệm giám sát và ổn định tài chính. Theo thống kê của Ngân hàng thanh toán thế giới - BIS, đến cuối năm 2014, 99 quốc gia trên tổng số 120 quốc gia khảo sát (tương đương 82,5%) đã có quy định về mục tiêu ổn định tài chính một cách cụ thể trong chức năng của NHTW. Trong số này, có 85 Ngân hàng Trung ương (tương đương khoảng 86%) được giao nhiệm vụ xem xét tính ổn định,

lành mạnh và hoạt động hiệu quả cho toàn hệ thống tài chính. Hầu hết các nước thuộc khu vực Đông Nam Á đã bổ sung mục tiêu ổn định tài chính vào luật Ngân hàng Trung ương (Philippines, Thailand, Malaysia, Singapore, Indonesia). Đặc biệt, Malaysia còn tiến xa hơn khi quy định nhiệm vụ ổn định tài chính ngang hàng với nhiệm vụ ổn định tiền tệ. Cũng theo thống kê của BIS, tính đến cuối năm 2016, trong số 168 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới hiện nay, có tới 110 nước (chiếm 66%) Ngân hàng Trung ương trực tiếp đảm nhận vai trò giám sát tài chính (bao gồm ngân hàng và các định chế tài chính khác); 27 nước khác (chiếm 16%) Ngân hàng Trung ương cùng chia sẻ vai trò giám sát với Cơ quan Giám sát Tài chính (mô hình giám sát lưỡng đỉnh); 24 nước (14%) vai trò giám sát tài chính được giao cho Cơ quan Giám sát Tài chính hợp nhất độc lập đảm nhiệm.

Để khắc phục những nhược điểm của mô hình giám sát thể chế, học tập kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới áp dụng mô hình này, tác giả gợi mở một số vấn đề lớn cần quan tâm để góp phần nâng cao năng lực của hệ thống giám sát tài chính ở Việt Nam hiện nay:

Thứ nhất, sử dụng cả hai bàn tay

Thực tế cho thấy, không chỉ nền kinh tế do Nhà nước chỉ huy tập trung thái quá không mang lại hiệu quả như mong đợi, mà ngay cả thị trường tự do cao độ cũng không là giải pháp hữu hiệu để giải phóng triệt để tài năng sáng tạo của cá nhân và sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội cho mục đích tăng trưởng bền vững. Nói cách khác, khi “bàn tay hữu hình” của Nhà nước hoặc nắm quá chặt, hoặc bị buông lỏng quá mức, thì cũng đồng nghĩa với quá trình đã, đang và sẽ từng ngày từng giờ tạo ra những nguồn lực và thị trường “ảo”, gây đổ vỡ và tổn thất nặng nề cho đời sống kinh tế-xã hội và môi trường… Vì vậy việc sử dụng hài hòa “hai bàn tay” trong quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay là một vấn đề có tính nguyên tắc nhằm vượt qua khủng hoảng tài chính.

Thứ hai, phối hợp các nguồn lực

Có thể nói, thế giới hiện đại và ngày càng “phẳng” hơn đang làm cho các nước xích lại gần nhau hơn bởi những quan tâm chung trong cuộc chiến với những vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống, cũng như các cuộc khủng hoảng toàn cầu như khủng hoảng tài chính, khủng hoảng môi trướng sống. Giải cứu cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu hiện nay không thể chỉ trông cậy vào một nguồn lực và trong phạm vi một quốc gia, mà đòi hỏi cần có sự đa dạng hoá và phối hợp chặt chẽ các nguồn lực toàn quốc và toàn cầu. Vấn đề then chốt để giải cứu một nền kinh tế thành công là các chính sách phát triển được lựa chọn phải phù hợp cả với bối cảnh quốc tế, lẫn các điều kiện lịch sử cụ thể trong nước, cho phép khai mở, cộng hưởng cao nhất các tiềm năng và hiệu quả các nguồn lực phát triển trong và ngoài nước, tham gia sớm, ngày càng chặt chẽ và hiệu quả vào “chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu”. Đồng thời, cần chủ động tham khảo, đan xen và phối hợp chính sách giữa các quốc gia trong phạm vi khu vực, cũng như toàn cầu, trước hết trong các lĩnh vực thương mại, đầu tư, dịch vụ và lao động; coi trọng các yêu cầu và thúc đẩy hoàn thiện các định chế quốc gia và quốc tế quản lý các quá trình phối hợp và trao đổi đó, để gia tăng sức mạnh, khả năng và hiệu quả giải quyết các vấn đề quốc gia, khu vực và toàn cầu.

Thứ ba, chú ý tính đồng bộ và tính 2 mặt của các chính sách tài chính

Khủng hoảng tài chính nguyên nhân không chỉ từ một phía thị trường mà cả ở phía quản lý nhà nước do đó trong quá trình giải cứu, cần chú ý đến việc phối hợp đồng bộ các giải pháp chính sách phù hợp, nhất là “Liệu pháp kích cầu”. Về bản chất, đó là việc chủ động sử dụng “Bàn tay

Nhà nước” tác động tích cực tới tổng cung và tổng cầu xã hội một cách thống nhất, có tổ chức và có chủ đích, theo hướng khuyến khích đầu tư và mở rộng quy mô tiêu dùng, kích hoạt và tăng động lực phát triển kinh tế của doanh nghiệp, nhất là khu vực kinh tế tư nhân...

Đặc trưng của những công cụ được dùng chủ yếu trong liệu pháp kích cầu ở các nền kinh tế thị trường thường là: Áp dụng chính sách nới lỏng ở các mức độ khác nhau cả chính sách tài chính, lẫn tiền tệ và tín dụng, như miễn, giảm, hoàn thuế, khoanh nợ, giãn nợ, nới lỏng các điều kiện tín dụng, giảm lãi suất và tăng quy mô dư nợ tín dụng ngân hàng cho các hoạt động kinh doanh và tiêu dùng, tăng lương, tăng phát hành tiền và trái phiếu nợ Chính phủ, gia tăng quy mô và phạm vi các hoạt động chi tiêu công và đầu tư Nhà nước…; Gia tăng mức độ tự do hoá trong kinh doanh, giảm bớt và thu hep lĩnh vực độc quyền Nhà nước, mở rộng tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài và tư nhân trong các doanh nghiệp cổ phần có vốn Nhà nước; khuyến khích các hoạt động mua lại, sáp nhập và tái cấu trúc cơ cấu kinh tế vĩ mô và vi mô…; Giảm bớt rào cản thủ tục hành chính các loại cho hoạt động kinh doanh và tiêu dùng; khuyến khích giảm giá, đồng thời có thể có sự gia tăng các hình thức bảo bộ phi thuế quan đi đôi với kiểm soát an toàn vĩ mô đối với thị trường nội địa…

Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu năm 2009, sự xuất hiện các “gói kích cầu” này là phổ biến cả ở các quốc gia, dù phát triển hay đang phát triển, lẫn ở các tổ chức khu vực và quốc tế như IMF, EU, ASEAN, với quy mô ngày càng tăng, từ hàng ngàn tỷ USD như ở Mỹ, hàng trăm tỷ USD như ở Nhật, Trung Quốc, Nga và các nước thành viên EU…

Về tổng thể và cơ bản, “liệu pháp kích cầu” có nhiều tác động tích cực thúc đẩy kinh tế phục hồi, tạo dựng lòng tin của xã hội với nhà nước trong quá trình phát triển và quản lý kinh tế-xã hội đất nước, nhất là trong các tình huống khẩn cấp và đặc biệt, tuy nhiên cần tỉnh táo trước những hệ luỵ của gói kích cầu có thể gây ra như: làm thất thoát, lãng phí các nguồn vốn vay; gia tăng gánh nặng nợ nần đặc biệt là nợ công; làm tổn hại đến sức cạnh tranh của nền kinh tế; làm gia tăng hoặc kéo dài tình trạng bất bình đẳng thị trường giữa các loại hình doanh nghiệp, khu vực kinh tế và các địa phương nếu không tuân thủ tốt các nguyên tắc minh bạch và bình đẳng trong triển khai các

“gói kích cầu”. Đặc biệt, về trung hạn, tạo áp lực tái lạm phát cao trong tương lai nếu kéo dài quá lâu “liệu pháp kích cầu” và sử dụng không hiệu quả “gói kích cầu” khiến gia tăng tích tụ các mất cân đối hàng -tiền và vi phạm thô bạo, nghiêm trọng quy luật lưu thông tiền tệ.

Như vậy có thể thấy khủng hoảng tài chính cần phải có biện pháp giải cứu trong đó giải pháp

“gói kích cầu” là đặc biệt quan trọng, nhưng với liều lượng nào, vào thời điểm nào và kéo dài bao lâu cũng mang tính nguyên tắc và quan trọng không kém. Như vậy sử dụng chính sách tài chính với gói “kích cầu” đòi hỏi luôn tỉnh táo ngăn chặn, giảm thiểu các tác động lan tỏa, dây chuyền có tính 2 mặt của các biến cố và chính sách kinh tế đang và sẽ có mặt trên thị trường trong nước và quốc tế.

Thứ tư, giữ vững lòng tin thị trường và hiệu lực chính sách

Chưa bao giờ yếu tố thông tin và lòng tin, nhất là trong khu vực kinh tế tư nhân và thị trường tài chính, lại có vai trò nhạy cảm và quan trọng như hiện nay, khi thế giới vẫn đang trong chu kỳ suy thoái kinh tế. Khi tình trạng các thông tin bất đối xứng bị hạn chế, chậm trễ và thiếu chính xác càng nặng nề và phổ biến thì tình trạng khủng hoảng càng trầm trọng và kéo dài. Việc duy trì ổn định dòng vốn huy động và cho vay qua hệ thống các ngân hàng thương mại nói riêng, thị trường tài chính trong nước và quốc tế nói chung, ngày càng là điều kiện tiên quyết cho lối thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế thì việc giữ vững lòng tin thị trường và hiệu lực

Đề cương

Tài liệu liên quan