• Không có kết quả nào được tìm thấy

KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG XÂY DỰNG VÀ THỰC THI CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP 1. Chính sách công nghiệp quốc gia Nhật Bản

CÔNG NGHIỆP 4.0 - KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM

2. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG XÂY DỰNG VÀ THỰC THI CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP 1. Chính sách công nghiệp quốc gia Nhật Bản

KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC CHÂU Á VỀ XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH

trên cả thị trường quốc tế. Kinh tế Nhật Bản nhiều năm liền giữ vị trí thứ hai thế giới và chỉ mới bị Trung Quốc vượt qua là do có chính sách đầu tư vào ngành công nghiệp một cách hợp lý với rất nhiều các bước đi tương thích trong từng thời kỳ:

- Ngay từ những năm 1960, với việc xác định rõ quốc gia có rất ít tài nguyên thiên nhiên, Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện chính sách “tái cơ cấu công nghiệp”, điều chỉnh cơ bản cơ cấu công nghiệp theo hướng ưu tiên phát triển những ngành có hàm lượng trí tuệ cao, tiêu tốn ít nguyên liệu và lao động sống, tập trung phát triển nền công nghiệp theo chiều sâu. Những ngành công nghiệp được ưu tiên trong giai đoạn này gồm: công nghiệp công nghệ cao về vi mạch, máy tính, robot; ngành lắp ráp tiên tiến như sản xuất lắp ráp máy bay, máy tự động hóa; ngành thiết kế thời trang; ngành phân phối và xử lý thông tin.

- Song song với định hướng sử dụng tiết kiệm tài nguyên, Chính phủ Nhật thực hiện điều chỉnh, tổ chức lại một số ngành công nghiệp như sản xuất ô tô, thép, hóa dầu, khuyến khích các doanh nghiệp công nghiệp trong một ngành sáp nhập, liên kết và hợp tác lẫn nhau. Chính phủ thông qua “Luật ổn định công nghiệp” và “Luật hoàn thiện cơ cấu”, từ đó, thúc đẩy quá trình điều chỉnh cơ cấu công nghiệp cả cấp liên ngành và nội bộ ngành; hướng tới việc thu hẹp các hoạt động như tinh chế nhôm, đóng tàu, phân hóa học và thực hiện phát triển các mặt hàng có hàm lượng khoa học công nghệ cao.

- Trong hơn 50 năm qua, Chính phủ Nhật Bản còn đề ra và thực hiện chiến lược phát triển khoa học kỹ thuật trên cơ sở chuyển từ vay mượn, mua bản quyền công nghệ của nước ngoài sang tự đảm bảo những công nghệ và kỹ thuật tiên tiến, mở rộng hợp tác khoa học kỹ thuật trên nền tảng khoa học công nghệ của Nhật Bản. Nước này đã chú trọng vào đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học, chế tạo và thử nghiệm, khuyến khích khối doanh nghiệp tư nhận bỏ vốn đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R & D).

- Điểm nổi bật trong chính sách công nghiệp quốc gia Nhật Bản là tính linh hoạt nhằm đáp ứng với những thay đổi của môi trường kinh tế, môi trường khoa học công nghệ trong và ngoài nước. Chính phủ Nhật Bản cũng đặt chính sách công nghiệp quốc gia trong mối quan hệ hữu cơ với các chính sách tổng thể về kinh tế, xã hội như chính sách tài chính - tiền tệ, chính sách lao động và việc làm, chính sách thương mại…

- Năm 2013, trong bối cảnh của cách mạng công nghiệp 4.0, Nhật Bản đã từng bước triển khai các chính sách ddeer thúc đẩy CMCN 4.0. Trong năm này, “Chiến lược toàn diện cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạp đã được Nhật Bản đưa ra, trong đó tập trung thúc đẩy thông minh hóa, hệ thống hóa và toàn cầu hóa. Việc phổ biến và phát triển công nghệ Internet kết nối vạn vật IoT và CMCN 4.0 đã được Nhật Bản đẩy mạnh qua một loạt các mô hình hợp tác giữa Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản với các hiệp hội ngành nghề, kết quả là sự ra đời của “Sáng kiến Chuỗi giá trị ngành công nghiệp” vào tháng 6/2015.

- Song song với việc phát triển CMCN 4.0, Nhật Bản đã đề ra nhiệm vụ thực hiện xây dựng

“Xã hội 5.0”. Khái niệm “Xã hội 5.0” được đề xuất trong Kế hoạch Khoa học Công nghệ lần thứ 5 của Chính phủ Nhật Bản (the 5th Science and Techonology Basic Plan) 2016-2020. Các Kế hoạch Khoa học Công nghệ của Nhật Bản được xây dựng 5 năm một lần, kể từ lần đầu tiên vào năm 1996, căn cứ theo Luật Cơ sở về Khoa học và Công nghệ ban hành năm 1995. Theo quan điểm của Nhật Bản, từ trước đến nay xã hội loài người đã trải qua: “Xã hội 1.0” là Thời kỳ nguyên thủy săn bắn,

“Xã hội 2.0” là Xã hội nông nghiệp, “Xã hội 3.0” là Xã hội công nghiệp, là thời kỳ cơ khí hóa với đầu máy hơi nước và việc sử dụng điện, “Xã hội 4.0” là Xã hội thông tin, trong đó giá trị gia tăng

được tạo ra nhờ việc kết nối các tài sản phi vật chất qua mạng internet. Với Xã hội 5.0, có bốn yếu tố kỹ thuật đóng vai trò quan trọng nhất trí tuệ nhân tạo (AI), big data, tự động hóa (robot) và IoT (internet vạn vật). Mục tiêu xây dựng Xã hội 5.0 được cụ thể hóa hơn nữa vào tháng 6/2017 với việc Chính phủ Nhật Bản thông qua Chiến lược Đầu tư tương lại, hướng xã hội Nhật tới việc có các khả năng: cung cấp hàng hóa và dịch vụ cần thiết cho người có nhu cầu đúng thời điểm, đảm bảo số lượng và chất lượng; đáp ứng chính xác nhiều nhất nhu cầu của xã hội và tất cả người dân có thể dễ dàng có được các dịch vụ chất lượng cao, cuộc sống hạnh phúc.

Có thể tóm lược về chính sách hỗ trợ của Chính phủ Nhật Bản cho sự phát triển công nghiệp quốc gia [8] qua bảng 1 sau:

Bảng 1: Chính sách thúc đẩy công nghiệp quốc gia của Nhật Bản Năm Chính sách

1936 Thành lập Shoko Chukin Bank - được sở hữu không chỉ của chính phủ mà còn của chính các SME nhằm cung cấp các dịch vụ tài chính cho các thành viên đóng góp, giúp các doanh nghiệp chỉ trong 3 ngày có thể vay vốn.

19451948

Thời kỳ tái thiết

Từ những năm 1940, ngành công nghiệp cơ khí ở Nhật Bản phát triển mạnh và nhu cầu về những sản phẩm này cao đã khiến những doanh nghiệp lớn phải ký hợp đồng với các doanh nghiệp nhỏ hơn trong cung cấp các linh phụ kiện thay vì mở rộng sản xuất.

Cải tiến các chính sách SME (tài chính/ tổ chức/ quản lý) Thành lập Small and Medium Enterprise Agency

1949

1952

1953

1955

1956

1962

Thời kỳ tăng trưởng (giai đoạn 1):

Chính sách nhằm bảo vệ sự tồn tại của các SME

Thành lập National Life Finance Corporation - NLFC (Công ty Tài chính Quốc gia) - cung cấp các khoản vay không đòi hỏi thế chấp cho các SME được lựa chọn.

Luật về Hiệp hội các Doanh nghiệp Hợp tác xã nhỏ và vừa nhằm đẩy mạnh sự liên kết, hợp tác kinh doanh nhỏ.

Luật về hợp tác với các DNNVV nhằm bảo vệ quyền đàm phán của các doanh nghiệp nhỏ cũng như tạo điều kiện để họ có thể tiếp cận được với công nghệ mới và các nguồn vốn vay.

Luật ổn định hóa các SME trong đó quy định các hoạt động thuộc phạm vi điều tiết các Hiệp hội SME.

Thành lập Japan Finance Corporation for SMEs - JASME (Công ty Tài chính Nhật Bản dành cho các SME) có chức năng bảo lãnh các khoản vay của các SME từ các tổ chức tài chính tư nhân, bảo lãnh các khoản vay tồn đọng, cung cấp các khoản vay với lãi suất cố định, dài hạn đối với các dự án của các SME mà các tổ chức tài chính tư nhân khó cung cấp.

Điều chỉnh cơ cấu 2 tầng (khoảng cách giữa các SME và doanh nghiệp lớn) Luật Phòng chống trì hoãn thanh toán chi phí thầu phụ và các vấn đề liên quan

Luật Xúc tiến Công nghiệp Chế tạo máy (được chỉnh sửa năm 1961 và 1966). Luật về Tài chính và Các biện pháp khác nhằm trợ giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa, theo đó chính phủ trung ương có thể cho phép các chính quyền địa phương thực hiện cho vay đối với SME.

Hệ thống hóa chính sách (tài chính/ tổ chức/ quản lý)

1963

19701972

Thời kỳ tăng trưởng (giai đoạn 2)

Chính sách chuyển sang nhằm phát triển, hiện đại hóa các nhà máy và tăng quy mô doanh nghiệp, xuất phát từ nhu cầu cấp thiết của nền kinh tế trong bối cảnh tự do hóa thương mại, hội nhập kinh tế quốc tế (Nhật Bản gia nhập GATT năm 1955, gia nhập một cách đầy đủ năm 1963).

Ban hành Luật Cơ bản về Doanh nghiệp nhỏ và vừa và Luật Xúc tiến hiện đại hóa Doanh nghiệp nhỏ và vừa. Những luật này là nền tảng để Nhật áp dụng các chính sách hỗ trợ công nghiệp phụ trợ.

Bổ sung chính sách đối với các bất lợi của các SME.

Thành lập Công ty TNHH Tư vấn và Đầu tư kinh doanh nhỏ để giúp tăng cường tính công bằng và tăng cường vốn.

19731984

Thời kỳ tăng trưởng ổn định

Trọng tâm chính sách là phát triển các sản phẩm mới và công nghệ mới, thúc đẩy quá trình hình thành nguồn nhân lực và các biện pháp khác nhằm gia tăng “hàm lượng tri thức” - tăng cường nguồn lực quản lý.

Thành lập Viện Công nghệ và Quản lý kinh doanh nhỏ.

Thành lập Trung tâm Thông tin kinh doanh nhỏ.

Thành lập Trung tâm thông tin địa phương kinh doanh nhỏ (cấp quận) 1985

1999

Thời kỳ chuyển tiếp (giai đoạn 1)

Thay đổi cơ cấu và sự tích tụ công nghiệp.

Hỗ trợ thành lập doanh nghiệp mới.

Luật Thúc đẩy các hoạt động sáng tạo trong kinh doanh của các SME.

Sửa đổi Luật Cơ bản về Doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Từ 2000

Thời kỳ chuyển tiếp (giai đoạn 2)

Thúc đẩy tăng trưởng năng động linh hoạt và phát triển độc lập của các SME.

Thúc đẩy đổi mới.

Tạo thuận lợi giúp SME thích ứng với sự thay đổi về kinh tế - xã hội.

2013 Chiến lược toàn diện cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo

2016 Kế hoạch cơ bản về Khoa học và Công nghệ lần thứ V giai đoạn 2016 - 2020 2017 Chiến lược Đầu tư tương lai

2.2. Chính sách công nghiệp quốc gia của Hàn Quốc

Hàn Quốc là quốc gia đặt phát triển văn hóa thành một trong những chính sách trọng điểm của Nhà nước. Thậm chí, đất nước này còn chủ trương nâng ngành công nghiệp văn hóa lên vị trí dẫn dắt các ngành công nghiệp khác. Năm 2016, Hàn Quốc cùng với Đức, Thụy Sĩ, Nhật Bản và Thụy Điển đã lọt vào top 5 quốc gia dẫn đầu về các ý tưởng (theo xếp hạng chỉ số sáng tạo Bloomberg). Để có được vị trí này là cả một hành trình dài của Hàn Quốc với cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra trong nhiều năm làm thay đổi diện mạo đất nước.

- Dấu mốc của chính sách công nghiệp quốc gia Hàn Quốc là thập niên 1970 với việc bắt đầu một nỗ lực dưới sự chỉ đạo của Chính phủ để đẩy mạnh công nghiệp nặng và công nghiệp hóa chất. Chính phủ ưu tiên cho các ngành cụ thể, áp dụng cho cả các doanh nghiệp và các tập đoàn lớn (chaebol). Các hỗ trợ cụ thể được áp dụng đó là Chính phủ cho vay với lãi suất thấp và hỗ trợ

về cơ sở hạ tầng cho các doanh nghiệp thực hiện kế hoạch công nghiệp của Chính phủ. Kết quả thu được là hầu hết các ngành công nghiệp nhận được ưu tiên đề có lợi nhuận tốt, Hàn Quốc có những doanh nghiệp xuất khẩu lớn các sản phẩm công nghiệp nặng.

- Bước sang thập niên 80, để thích ứng với những điều kiện mới, Hàn Quốc nhanh chóng từ bỏ việc can thiệp sâu của Chính phủ vào công nghiệp để chuyển sang chính sách kinh tế tự do nhằm thỏa mãn diều kiện trở thành thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế OECD.

Hàn Quốc đẩy mạnh tự do hóa cả thương mại và tài chính, tiến hành nhiều cảnh cách chính sách đối với khu vực tài chính, công nghiệp, tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước, thực hiện tự do hóa thị trường lao động.

- Hàn Quốc dần thực hiện cải tổ các chaebol vào những năm 90 của thế kỷ trước theo các hướng: (1) tập trung vào các hoạt động kinh doanh cốt lõi của tập đoàn; (2) cải thiện quản trị doanh nghiệp, tăng trách nhiệm giải trình trước Chính phủ và người dân; (3) thực hiện báo cáo kế toán toàn cầu tuân theo chuẩn mực kế toán quốc tế và (4) thực hiện luật chống độc quyền và thuế thừa kế (mức tối đa 50% và thêm 20% nếu là thừa kế từ cổ đông lớn nhất của một doanh nghiệp). Các chính sách này giúp các chaebol định hình lại theo hướng tập trung hơn, cắt giảm chi nhánh, giảm tỷ số nợ trên vốn chủ sở hữu, nâng cao sức cạnh tranh theo ngành nghề kinh doanh chính của mình. Các tập đoàn Hàn Quốc ngày nay có sức cạnh tranh mạnh mẽ không chỉ ở châu Á mà còn là toàn cầu.

- Cụ thể hóa CMCN 4.0 bằng chiến lược Cải cách công nghiệp sản xuất 3.0. Theo quan điểm của Hàn Quốc thì Cải cách công nghiệp 1.0 là sự thay thế nhập khẩu cho ngành công nghiệp nhẹ, Cải cách công nghiệp 2.0 tập trung vào thiết bị lắp ráp thì Cải cách công nghiệp 3.0 có nhiệm vụ trọng tâm là tạo ra giá trị mới và tăng khả năng cạnh trah bằng cách đưa công nghệ thông tin vào các nhà máy, từ đó nhanh chóng xây dựng hệ thống nhà máy thông minh. Mục tiêu của Chiến lược Cải cách công nghiệp 3.0 của Hàn Quốc được Chính phủ nước này cụ thể hóa bằng Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược 3.0 [3] vào tháng 3/2015 với các chiến lược cụ thể:

(1) Mở rộng quá trình sản xuất thông minh, phát triển công nghệ cốt lõi, tăng cường năng lực các phần mềm cho quản lý và sản xuất

(2) Tạo ra ngành công nghiệp mới đại diện, hướng tới việc xây dựng thêm nhiều nhà máy thông minh, thương mại hóa và phát triển vật liệu thông minh, thúc đẩy hoạt động R & D. Hướng tới việc năm 2020 sẽ có 10.000 nhà máy thông minh với tổng số vốn khoảng 23 tỷ USD, trong đó, phần hỗ trợ từ Chính phủ tối đa 10%.

(3) Xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại và tái cơ cấu sản xuất công nghiệp theo hướng xuất khẩu giá trị cao. Mục tiêu đến 2024 giá trị xuất khẩu quốc gia vượt 1.000 tỷ USD, vượt qua Nhật Bản để nằm trong top 4 (sau Trung Quốc, Hoa Kỳ và Đức).

2.3. Chính sách công nghiệp quốc gia của Trung Quốc

Hệ thống chính sách công nghiệp quốc gia Trung Quốc luôn được định hình và thực hiện từ chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Trung Quốc qua văn kiện đại hội Đảng. Theo đó, chính sách công nghiệp quốc gia Trung Quốc hiện nay tuân theo Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội lần thứ XII (2012 - 2016) và XIII (2016 - 2020), trong đó, xác định rõ nhiệm vụ, mục tiêu, chiến lược phát triển công nghiệp Trung Quốc. Cụ thể hóa nghị quyết được Trung Quốc thể hiện qua kế hoạch Made in China 2025.

Năm 2015, Bắc Kinh công bố dự án “Chế tạo tại Trung Quốc 2025” (Made in China 2025 - MIC 2025). Đây là bản kế hoạch 10 năm phát triển ngành công nghiệp chế tạo, một sáng kiến chiến lược đầy tham vọng nhằm biến TQ thành siêu cường chế tạo cạnh tranh được với Mỹ. Lấy cảm hứng từ Chiến lược Industry 4.0 của Đức, dự án “Chế tạo tại TQ 2025” xác định 10 lĩnh vực trọng điểm lớn về phát triển ngành chế tạo: (1) Công nghệ tin học thế hệ mới; (2) Máy công cụ điều khiển số cấp cao và robot; (3) Thiết bị hàng không vũ trụ; (4) Thiết bị công trình biển và tàu biển công nghệ cao; (5) Trang thiết bị giao thông quỹ đạo tiên tiến; (6) Ô tô tiết kiệm năng lượng và dùng nguồn năng lượng mới; (7) Thiết bị điện lực; (8) Trang thiết bị nông nghiệp; (9) Vật liệu mới; (10) Y dược sinh học và thiết bị y tế tính năng cao [7].

Trải qua hơn 3 năm thực hiện, theo đánh giá của Ủy ban Phát triển và Cải cách quốc gia Trung Quốc, MIC 2025 đã góp phần duy trì đà phát triển ổn định của đất nước, cơ cấu nền kinh tế không ngừng được ưu việt, các ngành mang tính chiến lược như chế tạo công nghệ cao có đà phát triển tốt. MIC 2025 đồng thời giúp nâng cao năng lực sáng tạo, sức cạnh tranh của sản phẩm. Tính tới hết năm 2018, năng suất của các dự án thí điểm vận hành theo hướng thông minh của nước này tăng 38% về hiệu suất, đồng thời giá thành vận hành kinh doanh giảm 21%.

Về khung khổ chính sách, MIC 2025 được hoạch định như một chiến lược công nghiệp 10 năm, bổ sung cho các chiến lược phát triển kinh tế cùng giai đoạn và kế hoạch hàng năm. Về tầm nhìn, MIC 2025 được cho chỉ là giai đoạn 1 của chiến lược dài hơn hơn nữa, bao gồm: 2015-2025:

trở thành cường quốc chế tạo công nghệ; 2025-2035: gia nhập nhóm các cường quốc chế tạo công nghệ toàn cầu hạng trung; 2035-2045: cường quốc hàng đầu thế giới về chế tạo công nghệ.

Như vậy, MIC 2025 có tính liên tục khi kế thừa cách vận hành của chính sách cải cách mở cửa đã áp dụng thành công của Trung Quốc, như việc đặt trong khung khổ các chiến lược phát triển kinh tế nói chung; có tầm nhìn dài hạn, có trọng tâm thí điểm, kết hợp về không gian và lĩnh vực ưu tiên. Ví dụ: Thâm Quyến - vốn là điểm sáng về thí điểm đặc khu - trước đây là một trung tâm chuyên sản xuất hàng nhái sản phẩm của các hãng nổi tiếng trên thế giới thì nay đã trở thành trung tâm sáng tạo đổi mới và đầu tư công nghệ mới, tập trung vào các ngành công nghiệp sáng tạo. Ngoài sự phát triển nối tiếp trên cùng một không gian, có thể thấy rõ tính kết nối liên hoàn giữa nền công nghiệp sản xuất truyền thống và CN 4.0 khi cảng Ninh Bô được lựa chọn làm nơi thí điểm ứng dụng CN 4.0 trong lĩnh vực logistics.

CN 4.0 cũng không phải là hoàn toàn mới đối với nền sản xuất và chính sách quản lý nhà nước; vấn đề chỉ là sự thay đổi về nhận thức vốn lại phụ thuộc vào những thành tựu phát triển công nghệ trong thực tế. Được biết giai đoạn 2010- 2020, Trung Quốc đã hoạch định chiến lược đẩy mạnh các ngành công nghiệp đang nổi lên (strategic emerging industries), bao gồm: công nghệ tiết kiệm năng lượng thân thiện môi trường, công nghệ thông tin thế hệ mới, công nghệ sinh học, chế tạo thiết bị hiện đại, năng lượng mới, nguyên liệu mới, phương tiện sử dụng năng lượng mới;

với mục tiêu đạt 8% GDP vào năm 2015 và 15% GDP năm 2020. Chiến lược này nhấn mạnh các ngành công nghiệp năng lượng và mối quan tâm đối với môi trường, vốn là những thách thức hàng đầu của Trung Quốc phản ánh cách tiếp cận còn hạn chế như đối với những chính sách phát triển công nghệ nói chung do các công nghệ CN 4.0 ở thời điểm này chưa phát triển rõ rệt.

Đối với MIC 2025, mục tiêu và tính thương mại rõ ràng hơn rất nhiều. Cụ thể, MIC 2025 nhắm vào 10 lĩnh vực công nghiệp sau: công nghệ thông tin, tự động hóa và máy móc điều khiển số

cao cấp, thiết bị hàng không và vũ trụ, thiết bị cơ khí hàng hải và đóng tàu hiện đại, thiết bị đường sắt, phương tiện tiết kiệm năng lượng, thiết bị điện, nguyên nhiên liệu mới, thiết bị y tế hiện đại và dược phẩm sinh học, thiết bị nông nghiệp. Có thể thấy, các lĩnh vực đều gắn với công nghiệp truyền thống và đều có tính thương mại lớn, thể hiện ở các thị phần mục tiêu được thay đổi (Biểu đồ 6). Đóng góp kinh tế của chiến lược cũng được thể hiện cụ thể hơn khi đặt mục tiêu chủ đạo là nâng tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm và nguyên liệu nói trên lên 40% năm 2020 và 70% năm 2025 [5]. Bên cạnh đó, các nhà hoạch định chính sách hy vọng bằng việc thực hiện chiến lược này, các nhà sản xuất Trung Quốc sẽ tham gia đầy đủ vào chuỗi giá trị toàn cầu, hợp tác hiệu quả với các nền kinh tế phát triển và các lĩnh vực khác như tài chính, y tế, giáo dục đều được hưởng lợi.

3. KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP TRUNG - DÀI HẠN CHO VIỆT NAM

Đề cương

Tài liệu liên quan