• Không có kết quả nào được tìm thấy

THEO MÔ HÌNH LỚP HỌC ĐẢO NGƯỢC TẠI CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ HIỆN NAY

TẠP CHÍ THIẾT BỊ GIÁO DỤC - SỐ ĐẶC BIỆT THÁNG 8/2021

171

1. Đặt vấn đề

Từ năm 2020, thế giới bắt đầu chịu sự tác động sâu sắc trên tất cả các mặt của đời sống xã hội do sự diễn biến phức tạp của dịch bệnh khi Covid-19.

Trong sự ảnh hưởng đó có hoạt động giáo dục trong các nhà trường, các trường học phải tạm thời đóng cửa. Riêng Việt Nam, trong hoạt động giáo dục đã thực hiện theo chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo [1], với quan điểm người học dù không được đến trường nhưng việc học vẫn được tiếp tục. Do đó, hầu như các trường đã tổ chức dạy học trực tuyến.

Trong bối cảnh đó, một số Trường cao đẳng nghề cũng đã tiến hành tổ chức dạy học trực tuyến cho hầu như các môn lý thuyết nói chung và môn giáo dục chính trị nói riêng. Đồng thời để phát huy tính tích cực, chủ động học tập của sinh viên (SV) và mở rộng hình thức học tập với sự linh hoạt về thời gian, không gian, sự phong phú, hấp dẫn trong những học liệu đa phương tiện, mô hình lớp học đảo ngược (LHĐN) là

một cách thức hữu hiệu trong giảng dạy trực tuyến môn Giáo dục chính trị (GDCT) tại các Trường cao đẳng nghề. Bài viết đề cập đến những ưu điểm, hạn chế và yêu cầu cần thiết để áp dụng theo mô hình LHĐN đối với môn GDCT tại các Trường cao đẳng Nghề hiện nay.

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Mô hình LHĐN

- Khái niệm: Mô hình giáo dục trực tuyến lần đầu xuất hiện tại Mỹ vào năm 1999. E-Learning

(viết tắt của Electronic learning) là một hình thức học tập trực tuyến, trong đó khái niệm học tập được hiểu theo nghĩa rộng: học, nghiên cứu và tự nghiên cứu. E-Learning là một phương thức đào tạo dựa trên công nghệ thông tin và trực tuyến, đặt biệt là mạng, kĩ thuật đồ họa, kĩ thuật mô phỏng, công nghệ điện toán đám mây… Phương thức đào tạo này đang trở thành xu thế tất yếu trong nền kinh tế tri thức, thu hút được sự quan tâm đặc biệt của nhiều trường đại học trên thế giới cũng như ở Việt Nam. LHĐN là tất cả các hoạt động dạy học được thực hiện “đảo ngược” so với mô hình giảng dạy thông thường. Sự “đảo ngược”

ở đây được hiểu là sự thay đổi với các dụng ý và chiến lược sư phạm thực hiện ở cách triển khai các nội dung, mục tiêu dạy học và các hoạt động dạy học khác với cách truyền thống trước đây của người dạy và người học [3]. Theo quan điểm hiện đại, E-Learning việc là

dựa trên công nghệ, đào tạo dựa trên máy tính, đào tạo dựa trên web; đào tạo trực tuyến, đào tạo từ xa.

Người dạy và học có thể giao tiếp với nhau qua mạng dưới các hình thức: e-mail, thảo luận trực tuyến, diễn đàn, hội thảo, video…Mô hình này đã mở ra một môi trường và phương thức học tập mới giúp người học có thể tương tác thông qua Internet với sự hỗ trợ của các phương tiện truyền thông điện tử.

- Ưu điểm của mô hình LHĐN trực tuyến

- Tạo ra môi trường học tập mới: Môi trường học tập của mô hình này được tổ chức bằng các công cụ hỗ trợ quản lí lớp học như Google Classroom, Edmodo,...giúp người học có thể học tập mọi lúc, mọi nơi. Vì thế, SV sẽ có môi trường học tập linh

* ThS. Trường Cao đẳng Lý Tự Trọng Tp. Hồ Chí Minh

hoạt, các em dễ dàng tiếp cận với các nội dung bài học, chủ động thời gian nào thích hợp mà không lo sợ bỏ lỡ các buổi học nào đó nếu như không thể tham gia được vì các lý do bất khả kháng nào đó như: đau ốm, tham gia các hoạt động thể thao, đi chơi hoặc các trường hợp khẩn cấp khác,…. Nhờ các video bài giảng có sẵn, học sinh nghỉ học có thể nhanh chóng bắt kịp tiến độ học tập.

Về phía giảng viên cũng có thể linh hoạt trong việc điều chỉnh thời gian làm việc của mình sao cho hợp lý. Đồng thời,giảng viên sẽ có những điều chỉnh để tương tác với SV trở nên nên tích cực hơn và

không bị gói gọn trong những bài học khô khan, tạo mối liên kết tốt hơn với SV. Trong mô hình LHĐN khuyến khích việc học tập, lấy học sinh làm trung tâm, giảng viên chỉ đề xuất các nhiệm vụ và định hướng kiến thức còn SV chủ động đặt ra câu hỏi, trao đổi thảo luận tương tác với nhau để thu nhận kiến thức cũng như vận dụng kiến thức, từ đó khơi dậy và rèn luyện khả năng tự học tập, tự nghiên cứu của người học. Với mô hình này, phần nào khắc phục được tâm lý ngại giao tiếp của một số SV vì những trao đổi giữa giảng viên và SV là hoàn toàn riêng tư.

- Tạo cơ hội đổi mới phương pháp và hình thức dạy học: Với LHĐN thông qua việc làm chủ quá trình học tập của bản thân, giúp SV làm chủ các kỹ năng, thông qua các dự án và công tác thảo luận. SV có thể sở hữu những kiến thức đã đạt được chứ không đơn thuần học thuộc lòng kiến thức suông. Mô hình này chuyển từ hoạt động thông báo và ghi nhớ kiến thức sang hoạt động độc lập tìm kiếm, khám phá, nỗ lực hợp tác. Hình thức dạy học theo nhóm nhỏ, tranh luận và trình bày, nêu vấn đề và giải quyết, theo kiểu

“dự án”... nó sẽ trở nên chiếm ưu thế trước hình thức thuyết giảng độc thoại một chiều như trước đây.

- Hạn chế của mô hình LHĐN trực tuyến

- Khó khăn về việc tiếp cận công nghệ đối với SV:

Thực tế thì trình độ sử dụng công nghệ và cơ sở vật chất trang bị cho việc học trực tuyến và tiếp cận công nghệ máy móc, thiết bị, phần mềm không phải em nào cũng có và làm được. Đây là một trong những vấn đề nổi bật nhất khi mà nhu cầu sử dụng máy tính và Internet của SV để xem các bài giảng online. Đây là những khó khăn, bất cập đối với những các em có thu nhập thấp, bị hạn chế tiếp cận với tài nguyên.

- Vấn đề về sự chuẩn bị và nỗ lực của giảng viên:

Để có được tiết học hiệu quả với mô hình LHĐN, buộc giảng viên phải tăng thêm thời gian chuẩn bị bài giảng, lượng công việc của giảng viên sẽ nhiều hơn. Bên cạnh đó, các công việc như ghi âm, edit và

đăng tải các bài giảng đều là những công việc cần thời gian và kỹ năng mà không phải giảng viên nào cũng có chuyên môn trong việc này. Ngoài ra, giảng viên cần phải giới thiệu các hoạt động trong lớp học liên quan đến bộ môn trong video để thúc đẩy học sinh tham gia và chuẩn bị trước khi học. Đó là một áp lực rất lớn, cần nhiều thời gian thích ứng, sự nỗ lực và tâm huyết từ chính mỗi giảng viên.

- Vấn đề về ý thức của SV: LHĐN cần sự hợp tác của SV, SV phải xem bài và thực hiện theo yêu cầu của giảng viên trước lúc lên lớp, nếu các em làm được mới tăng tính hiệu quả của tiết học. Tuy nhiên, không phải em nào cũng sẽ làm theo đúng kế hoạch yêu cầu đó. Hơn nữa, mô hình LHĐN, SV sẽ bị buộc phải dành nhiều thời gian ngồi với máy tính để xem bài giảng, để làm bài tập cũng có khả năng sẽ dễ sa vào việc lạm dụng các thiết bị điện tử vì mục đích khác dẫn đến việc sao nhãng việc học, dễ mất thông tin. Học trên mạng cũng dễ bị gián đoạn tập trung bởi tin báo trên các trang mạng xã hội khi đang học. Bên cạnh đó, các em sẽ mất dần sự sáng tạo do ỷ lại vào những thứ đã có sẵn trên nền tảng Internet rộng lớn.

2.2. Sự cần thiết áp dụng mô hình LHĐN vào môn học giáo dục chính trị hiện nay

Việc áp dụng giảng dạy trực tuyến đối với môn Giáo dục chính trị cho phép người học và cơ sở đào tạo rút ngắn thời gian và giảm thiểu chi phí đào tạo đáng kể. Dựa vào phương tiện công nghệ hiện đại, cơ sở các Trường cao đẳng có thể kiểm soát quá trình đào tạo một cách khoa học, hợp lý. Cơ sở đào tạo có thể cắt giảm một số chi phí quản lý đào tạo truyền thống như quản lý lớp học, in ấn tài liệu, giáo trình.

Phương thức học trực tuyến cùng với học liệu điện tử tiện ích như: sách điện tử, bài giảng điện tử;

bộ câu hỏi ôn tập và phần kiểm tra đánh giá quá trình tự học của SV do chính các giảng viên xây dựng và

được tích hợp trên môi trường công nghệ Internet số hóa cao đáp ứng nhu cầu đa dạng của SV trong quá trình dạy và học.

Giảng dạy trực tuyến tạo ra một môi trường giao tiếp học thuật thuận lợi giữa SV với giảng viên, giữa SV với SV. Điều này không chỉ đem lại lợi ích về thông tin trao đổi mà còn hình thành và phát triển môi trường học thuật mới, hiện đại và dân chủ hơn.

Phát triển khả năng tự chủ cho SV.

Hơn nữa môn GDCT mang tính lý luận, tổng hợp, khái quát và trừu tượng cao.Là môn học có sự tổng hợp từ nhiều môn khác nhau (Triết học, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội khoa học, lịch sử đảng,…). Môn này phản ánh và có quan hệ trực tiếp đến quan điểm,

TẠP CHÍ THIẾT BỊ GIÁO DỤC - SỐ ĐẶC BIỆT THÁNG 8/2021

173

đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Yêu cầu của bộ môn đòi hỏi nguyên tắc đảm bảo tính Đảng, tính khoa học cao. Do đó, giảng viên tham gia giảng dạy phải thực sự có tư tưởng, quan điểm và cách phát ngôn phải trên lập trường của giai cấp công nhân, lý luận và phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin và giữ vững nguyên tắc Đảng. Yêu cầu cao đối với giảng viên về tính logic, tính khoa học của nọi dung trình bày được đảm bảo. Vì vậy, giảng viên có thời gian chủ động chuẩn bị cẩn thận, kỹ lưỡng nội dung để trình bày đảm bảo yêu cầu về mặt khoa học.

2.3. Quy trình áp dụng mô hình LHĐN trực tuyến đối với môn giáo dục chính trị

Quy trình áp dụng mô hình LHĐN đối với môn giáo dục chính trị theo tác giả trải các giai đoạn sau:Giai đoạn 1: Sự chuẩn bị của giảng viên

- Giảng viên lập kế hoạch: Giảng viên chuẩn bị và thiết lập nội dung và mục tiêu của tiết học với bài giảng và giáo án. Đồng thời lập một kế hoạch bài học cho nội dung đặc biệt đó của tiết học.

- Ghi lại video: Giảng viên ghi và biên tập lại video bài giảng của mình cho từng tiết học cụ thể.

Giảng viên cũng nên chú ý đến chất lượng của video, làm sao biên tập để tạo được hứng thú cho SV khi xem, để biết được video của mình có thật sự hấp dẫn và cuốn hút hay không, hãy tự đặt bản thân là người xem video và cảm nhận. Sau đó giảng viên chia sẻ video với SV

- Chia sẻ video bài giảng: Giảng viên chia sẻ bài qua công cụ như Class room, mail…có hướng dẫn và ghi chú rõ ràng để SV thực hiện chuẩn bị trước giờ học trên lớp.

Giai đoạn 2: Sự chuẩn bị của SV

SV được yêu cầu xem những tài liệu trước khi đến lớp, cụ thể như: Đọc trước bài trong giáo trình từng chương cụ thể do giảng viên yêu cầu; Xem bài giảng tóm tắt của giảng viên và slide bài giảng; Xem video giảng viên gửi kèm; Trao đổi tương tác với nhau qua group lớp học ảo đã tạo.

Giai đoạn 3: Thực hiện giờ học trên lớp Giảng viên chủ trì tổ chức hoạt động đưa ra ý kiến, thảo luận, trao đổi các nội dung bài học và kết luận các vấn đề chính của bài. SV thực hiện thảo luận trao đổi những nội dung đã chuẩn bị dưới sự hướng dẫn của giảng viên. Sau đó giảng viên kiểm tra đánh giá tiếp nhận kiến thức của SV.

Giai đoạn 4: Sau giờ lên lớp

Giảng viên tiếp tục hỗ trợ, trao đổi, giải đáp thắc

mắc của người học về nội dung đã học trên không gian lớp học qua mạng đã được tạo ra sau khi kết thúc giờ học trực tiếp cũng như thực hiện kiểm tra, đánh giá việc tiếp nhận kiến thức, kỹ năng của người học3. Kết luận

Việc tổ chức dạy học áp dụng theo mô hình LHĐN dạy học trực tuyến đối với môn Giáo dục chính trị là sự cần thiết trong xu thế hiện nay. Mô hình này sẽ giúp cho hiệu quả của hoạt động người học. SV sẽ hứng thú và chủ động hơn trong việc tiếp cận kiến thức và rèn được thêm kỹ năng. Tuy nhiên, để áp dụng mô hình này hiệu quả thì giảng viên và

SV thực sự dành thời gian hoàn thành nhiệm vụ và

mục tiêu của mình.

Tài liệu tham khảo

1. Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và

hội nhập quốc tế.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam(2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2020), Công văn Triển khai công tác đào tạo từ ứng phó với dịch COVID-19. Hà Nội

4. Lê Thị Minh Thanh (2016), Xây dựng mô hình “LHĐN” ở trường đại học, Tạp chí Khoa học, Trường ĐHSP Hà Nội.

5. Lê Thị Phượng & Bùi Phương Anh (2017), Dạy học theo mô hình LHĐN nhằm phát triển năng lực tự học cho học sinh, Tạp chí Quản lý giáo dục, Học viện Quản lý Giáo dục, 10, 1-8.

6. Trần Văn Thư (2020), Phát triển đội ngũ giảng viên dạy lý luận chính trị trong các trường đại học, Tạp chí Khoa học – Trường Đại học Mở Hà Nội, Số tháng 3/2020.

7. Hồ Bá Thâm (2020), Đổi mới sáng tạo - triết lý của nền giáo dục Việt Nam trên con đường thay đổi, phát triển, vượt qua thách thức của Cách mạng công nghiệp 4.0, Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, Số 42/2020

8.Nguyễn Xuân Nam (2016), Ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp giảng dạy tại Trường Đại học CSND, Tạp chí KHGD CSND, số 78 (7/2016)

1. Mở đầu

Hứng thú nói chung và hứng thú nghề nghiệp (HTNN) nói riêng là một yếu tố có ý nghĩa rất quan trọng, làm cho con người say mê, kích thích sự sáng tạo, tăng nghị lực vượt khó. Từ đó, con người yêu nghề và nỗ lực hơn trong công việc của mình. HTNN là động lực quan trọng để con người gắn bó với nghề.

HTNN là cơ sở tâm lí hình thành lòng yêu nghề. Chỉ có hứng thú, công việc mới được nâng lên đỉnh cao sáng tạo. Lòng yêu nghề thường bắt nguồn từ hứng thú với nghề đó. Nhiều khi gặp rất nhiều khó khăn trở ngại trong lao động nghề nghiệp, nhưng hứng thú đã giúp con người vượt qua”[2]. Hơn nữa, HTNN được hình thành ngay trong trường chuyên nghiệp góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nghề nghiệp cho sinh viên (SV). Do đó, nghiên cứu HTNN của SV đại học như ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền (BC&TT) làm cơ sở khoa học đề xuất các biện pháp hình thành và nâng cao HTNN cho SV rất có ý nghĩa và cần thiết.

Theo [1] , [3], [4], [5], [6], có thể hiểu: HTNN của SV là thái độ đặc thù của cá nhân sinh viên đối với nghề nghiệp chuyên môn, do nhận thức được ý nghĩa của nghề trong đời sống nên nó có sức hấp dẫn về mặt tình cảm, lôi cuốn hoạt động.

HTNN của SV được biểu hiện ở: i) Mặt nhận thức: Tầm quan trọng của HTNN; Ý nghĩa và

vai trò của HTNN; Giá trị nghề nghiệp SV chọn; ii) Mặt thái độ:

Yêu thích chuyên ngành đang theo học; Hài lòng với chuyên ngành đang học; Thích thú khi nghĩ đến nghề mình chọn; Quyết tâm theo đuổi nghề đã chọn; Hào hứng trong các giờ học; Nuối tiếc khi phải nghỉ buổi học; iii)

Mặt hành vi: Đi học đúng giờ; Chú ý nghe giảng; Ghi chép bài đầy đủ; Hay phát biểu ý kiến: Nói với người khác về nghề mình học; Sưu tầm những tài liệu có liên quan đến nghề của mình; Đọc, tìm nhiều thông tin về nghề của mình; Gặp gỡ những người đã làm nghề mình đang theo học; Tham gia các ngày hội việc làm;

Liên hệ với các công ty giới thiệu việc làm; Tham gia các cuộc hội thảo hướng nghiệp.

2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Tổ chức khảo sát

Tác giả sử dụng phương pháp (PP) điều tra viết là PP chính để phát hiện thực trạng mức độ, biểu hiện, cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến HTNN của SV Học viện BC&TT trên cở sở khảo sát 234 SV của đang theo nhiều chuyên ngành khác nhau được chia thành hai nhóm ngành học: Nhóm ngành lí luận và nhóm ngành báo chí và truyền thông. Căn cứ vào điểm trung bình (ĐTB) các biểu hiện, HTNN của SV Học viện BC&TT được đánh giá 3 mức độ:

1≤ĐTB≤1.67: Thấp; 1.67<ĐTB≤2.34: Trung bình (TB); 2.34<ĐTB≤3: Cao.

2.2. Thực trạng HTNN của SV Học viện BC&TT 2.2.1. Đánh giá chung về thực trạng trạng HTNN của SV Học viện BC&TT

Kết quả bảng trên cho thấy, HTNN của SV Học viện BC&TT ở mức cao (ĐTB=2.39). Trong đó, mặt

HỨNG THÚ NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN

Đề cương

Tài liệu liên quan