• Không có kết quả nào được tìm thấy

NGHIÊN CỨU NHẠC CỤ DÂN GIAN TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VÀ GIÁO DỤC CỦA NGƯỜI Ê ĐỀ

TẠP CHÍ THIẾT BỊ GIÁO DỤC - SỐ ĐẶC BIỆT THÁNG 8/2021

177

1. Mở đầu

Đồng bào Êđê bản địa ở tỉnh Đắk Nông, có khả năng đặc biệt cả về thẩm âm lẫn trình diễn các loại nhạc cụ. Trong đó, phải kể đến cồng chiêng và

âm nhạc cồng chiêng. Cồng chiêng Êđê cũng như các dân tộc khác trên cao nguyên này đã làm nên Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên, được UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể thế giới. Không chỉ vậy, các nhạc cụ dân gian của vùng đất này cũng tạo nên một “mảng âm nhạc rất độc đáo”. Nhạc cụ dân gian Êđê với nguyên lý cấu tạo đơn sơ, mộc mạc, mang lại bản sắc rất riêng từ những vật liệu như: tre, nứa, vỏ bầu, sừng trâu… nhưng lại gắn bó mật thiết với đời sống sinh hoạt cũng như thế giới tâm linh của dân tộc mình.

Hầu hết các nghi lễ theo vòng đời người như lễ thổi tai – đặt tên, lễ cúng sức khoẻ, lễ cưới, lễ tang, lễ bỏ mả,… cũng như các nghi lễ nông nghiệp như:

Lễ động rừng, lễ phát rẫy, trỉa lúa, đưa lúa về kho,…

thì âm nhạc cũng như các nhạc cụ dân gian đều đóng góp một vị trí quan trọng.

2. Nội dung nghiên cứu

2.1. Đặc trưng của các nhạc cụ truyền thống của người Êđê

Nổi bật và độc đáo nhất trong các nhạc cụ truyền thống của người Êđê là các bộ chiêng. Người Êđê lưu giữ bộ chiêng cổ truyền thống của mình như báu vật nhưng không thể chế tác chiêng được nữa, họ phải đi mua từ những vùng miền khác. Chiêng mua về được gọi theo nguồn gốc xuất xứ thành tên của từng loại

chiêng như: Čing Lao, Čing Juăn, Čing Kao Trang để chỉ rõ chiêng đó mua từ Lào, người Việt, người Chăm,… Hầu hết các nhánh Êđê đều gọi bộ chiêng của mình là Čing K’nah bên cạnh đó mỗi chiếc chiêng lại có tên riêng của mình như: Čhar (chiêng lớn nhất), Ana čing (chiêng núm lớn nhất, Mđuh čing (chiêng núm nhỡ),… và biểu thị từng thành viên trong gia đình ứng với từng chiếc chiêng như: Čhar (người ông), Ana (người mẹ), Mđuh (người bố),…

Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể thế giới nên đồng bào Êđê cũng như các đồng bào khác đã chú tâm gìn giữ văn hoá của mình đặc biệt là

các giàn chiêng. Từ đó tình trạng “chảy máu” cồng chiêng được khắc phục phần nào. Tuy nhiên, không gian diễn xướng của cồng chiêng thì đang dần bị thu hẹp, bị sân khấu hoá và theo nhu cầu thưởng thức của du khách thập phương khi đến với Đắk Nông cũng như Tây Nguyên. Phải chăng đây là một đời sống khác của cồng chiêng trong quá trình gìn giữ và bảo tồn nét văn hoá này của đồng bào Êđê?

2.2. Các nhạc cụ dân gian khác phục vụ nhu cầu tinh thần của người Êđê

Ngoài sự độc đáo đã được công nhận của các bộ cồng chiêng thì trong đời sống của đồng bào Êđê còn có các nhạc cụ dân gian khác phục vụ nhu cầu tinh thần khác nhau của người dân như:

- Đinh Năm (Khèn bầu 6 ống), là nhạc cụ gồm sáu ống nứa dài ngắn khác nhau có đường kính từ 1,5-2,2cm tuỳ theo kích thước kèn loại lớn hay một đầu

NGHIÊN CỨU NHẠC CỤ DÂN GIAN TRONG ĐỜI SỐNG

ống nứa có mắt bịt kín, đầu kia để hở, được cắm vào vỏ trái bầu khô, hàn kín bằng sáp ong ruồi. Ở đầu ống có mắt cần khoan lỗ thoát âm. Lỗ khoét lớn hay nhỏ đều ảnh hưởng đến chất lượng âm thanh. Trên thân ống kèn còn dùi một lỗ nhỏ, đây không phải là

lỗ phát âm như các nhạc cụ sáo, kèn khác mà là lỗ ngắt âm. Lỗ dùi này chỉ khi gắn xong các ống kèn vào quả bầu định vị thật chuẩn xác rồi căn cứ vào thế bấm của các ngón tay mới dùi lỗ tạo vị trí bấm thuận lợi nhất cho các ngón tay. Đây là loại nhạc cụ có cấu tạo phức tạp nhất, có khả năng diễn tấu phong phú nhưng bị cấm thổi trong nhà vì loại nhạc cụ này chuyên dùng cho đệm hát Ayray khi nhà có tang.

- Čing Kram (chiêng tre), là nhạc cụ thuộc bộ tự thân vang kết hợp với sự cộng hưởng của cột hơi.

Cấu tạo của một Čing kram gồm 1 ống tre khô dài khoảng 30cm, đường kính từ 7-9cm; một thanh tre già có độ dài khoảng 40cm, rộng 7cm và một cái dùi bằng gỗ có quấn vải. Theo quan niệm của đồng bào Ê đê, số lẻ là số của sự may mắn nên mỗi bộ Čing kram thường có 5, 7, 9 chiếc, hợp lại thành một dàn chiêng. Čing kram là nhạc cụ thường xuyên được sử dụng trong các dịp lễ hội của đồng bào.

- Čing Kok, (được làm từ hai loại làm bằng gỗ và tre nứa với hai loại âm khác nhau: làm bằng gỗ tiếng chắc, vang to, cộc tiếng; làm từ tre nứa do có thêm phần ống dàn cộng hưởng nằm ngay tại thanh đàn mà tiếng đàn kêu mềm dịu hơn) đây là loại nhạc cụ khá cổ xưa, khi con người chưa biết lấy các đặc trưng cấu tạo, vật liệu chế tác, hình dáng cây đàn để đặt tên. Khi mỗi người diễn tấu một ống, nhạc cụ này mang tên Čing Kok. Nhưng khi treo buộc các ống đàn ấy thành dàn liền kề nhau để một hoặc hai người diễn tấu, nhạc cụ ấy lại mang tên là Đinh Grơng.

- Gông Kram (đàn ống tre), là loại đàn mà các dây đàn được lật từ cật của ống tre thân đàn lên. Loại đàn này hiện vẫn đang được sử dụng tuy nhiên số người biết chế tác và sử dụng loại đàn này thường là

những nghệ nhân tuổi đã xế chiều.

- Kni (Vĩ cầm, vòm miệng là hộp cộng hưởng), Là một loại đàn tạo âm thanh đặc biệt vừa bằng vỉ kéo là một cật nứa, vừa bằng âm thanh phát ra từ một miếng nối với sợi dây đàn bằng một sợi dây và

một miếng tròn nhỏ, cứng thường được làm bằng vảy con Tê Tê. Đàn có một dây và ba phím, thân là

một ống nứa nhỏ dài đường kính 2,8cm. Khoá đàn dài khoảng 17cm, vi kéo dài khoảng 46cm, rộng gần

1cm.- Đinh Tăk Ta (Kèn bầu), là một loại nhạc cụ khá cổ sơ. Được làm từ một ống nứa nhỏ có khoét lỗ tạo nốt nhạc, một đầu có lưỡi gà được gắn vào vỏ bầu (loại nhỏ). Đinh tăk ta là loại nhạc cụ được dùng khá phổ biến, có thể thổi lúc nào cũng được vì tiếng của nó rất rộn ràng thôi thúc nên Đĭng tăk ta thường thổi vào buổi sáng sớm để đánh thức bà con trong buôn dậy đi làm.

- Đĭng Tŭt (Bộ sáo 6 ống), gồm có 6 ống nứa có 1 đầu đốt có kích thước khác nhau tạo nên 6 âm tương ứng với 6 chiếc chiêng bằng của bộ chiêng Knah.

Nhạc cụ này chuyên dùng cho phụ nữ thổi trong lễ bỏ mả nên bị cấm thổi trong nhà.

- Đĭng Buôt (Tiêu), Là một loại sáo dọc dùng để đệm và gây không khí cho hát Muynh của đồng bào dân tộc Êđê. Đĭng buôt thường được sử dụng sau lễ cúng thần hoặc trai gái tỏ tình.

- Đĭng Rĭng (Sáo bè 5 ống), Là loại nhạc cụ gồm nhiều ống nứa dài, ngắn khác nhau kết hợp lại thành bè, được cố định bằng sợi mây đan kết với nhau.

Ống dài nhất khoảng 81cm, ngắn nhất khoảng 49cm, đường kính các ống khoảng 3cm. Cách sử dụng loại nhạc cụ này giống như việc thổi kèn Acmônica. Hai nhánh tộc người Êđê Mdhur và Êđê A Dham thường sử dụng nhạc cụ này. Ở các nhóm Êđê khác ít gặp hơn.- Đinh Gốt, là một loại nhạc cụ độc đáo loại nhỏ, vừa thổi vừa kết hợp với rung bật 1 bộ phận được tách ra giữa thân, giống như bộ phận lưỡi gà ở 1 số nhạc cụ khác.

- Đinh Hi, có cấu tạo giống chiếc ky pah nhưng dài hơn và được tạo từ 2 nửa gỗ tròn sau đó ráp với nhau bằng mây sợi và nhựa cây rừng.

- Đinh Lơng Khơng: là cách gọi của đồng bào dân tộc Êđê chỉ một loại đàn cho 2 người diễn tấu, có cấu tạo tương tự một loại sáo dọc, thường được dùng để độc tấu giải bày tâm tình hoặc phụ hoạ cho hát kưứt hoặc hát ayray là 2 lối hát dân gian của dân tộc Êđê.

- Đàn Brố: là một loại nhạc cụ dây gảy có hai dây bằng kim loại và 5 quàng phím có bầu cộng hưởng bằng vỏ bầu. Cần đàn thường làm bằng thân cây lồ ô. Âm sắc có những nét gần với cậy đàn Tính của đồng bào dân tộc Tày - Thái là một loại nhạc cụ rất được thanh niên ưa thích.

- Guat (kèn môi): là một thanh nứa mỏng hai đầu hơi nhọn, tách phần giữa thành một mảnh nhỏ, một

TẠP CHÍ THIẾT BỊ GIÁO DỤC - SỐ ĐẶC BIỆT THÁNG 8/2021

179

bên rời ra khỏi thân. Khi diễn tấu, nghệ nhân ngậm ngang toàn bộ thanh nứa trong miệng. Tay trái cầm gốc kèn, tay phải gảy phần còn lại, dùng vòm miệng làm hộp cộng hưởng. Âm lượng nhỏ, âm thanh đục.

- Ky Pah (Đinh Ky) Tù và, là một loại tù và thổi ngang có lưỡi gà và có vỗ bật mở 2 đầu để tạo âm, âm lượng lớn chói tai với chức năng chính là để thông tin. Ky pah bị cấm thổi trong nhà. Hiện nay do sừng trâu ngày càng hiếm bởi buôn làng chỉ “năm thì mười họa” mới đâm trâu nên ở Tây Nguyên bây giờ thường làm nhạc cụ này bằng rễ cây muồng đen.

Trong các nghi lễ truyền thống, nhạc cụ dân gian đã tạo nên không khí rất trang nghiêm, hùng tráng, lúc rộn ràng, sôi nổi, khi êm dịu trữ tình, khi ưu tư, trầm lắng,… Có thể nói nhạc cụ dân gian đã gắn bó mật thiết với đời sống đồng bào Êđê, là một lĩnh vực thể hiện rõ nét bản sắc văn hoá, sức sống và thế giới tâm linh của họ. Nhạc cụ dân gian Êđê được ra đời từ trong cuộc sống lao động và sinh hoạt văn hoá tinh thần của cộng đồng. Từ những công cụ đuổi chim, thú giữ rẫy (như đing kyal ching koóc, chinh Kram…); những công cụ giải trí sau một ngày lao động vất vả (như đinh puốt, đing pâng, goong ring…

đến những phương tiện chia buồn với gia đình người quá cố (như đinh năm, đĭng tŭt…) và những công cụ dùng để đi săn hoặc hiệu lệnh xung phong trong chiến trận (như ky pah, trống H’gơr) đã trở thành nhạc cụ dân gian của dân tộc Êđê. Nó là một trong những phương tiện nghệ thuật âm thanh có nhiều khả năng để biểu đạt tâm hồn, tư tưởng tình cảm của con người. Thực tế nó đã trải qua một quá trình sáng tạo lâu đời. Có loại do thế hệ ông bà sáng tạo nên. Có loại được hình thành từ cuộc sống lao động

và trả lại phục vụ cuộc sống lao động, sinh hoạt văn hoá của cộng đồng.

3. Kết luận

Âm nhạc dân gian Êđê đã gắn bó với nghi lễ vòng đời người và vòng cây trồng cùng với các lễ hội truyền thống của cộng đồng. Nó là linh hồn, là sức mạnh tinh thần và bản sắc văn hoá của người Êđê.

Tuy nhiên trong những năm gần đây, do ảnh hưởng sự xâm nhập của “văn hoá hiện đại” bằng nhiều con đường khác nhau vào đời sống đồng bào trong đó có âm nhạc. Giới trẻ ngày càng thích âm thanh phát ra từ những nhạc cụ hiện đại, nhạc cụ điện tử...Đây chính là những lý do cơ bản khiến nhạc cụ dân gian ngày càng mai một dần và có nguy cơ mất hẳn. Còn lại chăng chỉ là những nhạc cụ được sân khấu hoá nhưng không thể sử dụng cùng các nghệ nhân biết chế tác, sử dụng nhạc cụ dân gian ngày càng ít đi, đó là niềm trăn trở về một nền văn hoá truyền thống đang biến đổi dữ dội.

Tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Thị Ái (2021, Rèn luyện kỹ thuật thanh 1th7.2021, tr89-91

2. Đoàn Thị Hạnh (2021), Nâng cao chất lượng đào tạo kỹ năng dạy học âm nhạc cho sinh viên ngành giáo dục mầm non. Tạp chí Thiết bị giáo dục số 245 kỳ 2th7.2021, tr78-80

3. Phạm Thị Hòa (2005), Giáo dục âm nhac tập II. NXB ĐHSP Hà Nội.

4. Ngô Thị Nam (1994), Âm nhạc và phương pháp giáo dục âm nhạc tập 1, tập 2. NXB Hà Nội.

5. Nguyễn Hải Phượng (2006), Phương pháp dạy học âm nhạc. NXB Giáo dục. Hà Nội.

3. Kết luận

Khi học môn Xác suất thống kê, SV nên học cách sử dụng máy tính bỏ túi để giải bài tập. Trên cơ sở nắm rõ kiến thức lý thuyết đã được thầy cô cung cấp, việc sử dụng thành thạo máy tính bỏ túi sẽ giúp SV tiết kiệm thời gian làm bài tập, hỗ trợ đắc lực cho các em trong quá trình học và hoàn thành tốt môn học này.

Tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Đình Hiền (2004). Giáo trình Xác suất

thống kê. NXB Đại học Sư phạm.

2. Nguyễn Bá Kim (2011). Phương pháp dạy học môn Toán. NXB Đại học Sư phạm.

3. Ngô Thị Thoa (2012). Ứng dụng công nghệ thông tin để dạy học Xác suất thống kê tại Trường Đại học Hải Phòng. Luận án tiến sĩ Giáo dục học, Trường Đại học Giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội.

4. Trần Trung, Nguyễn Tiến Mạnh (2019). Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học thống kê gắn với thực tiễn ở trường phổ thông. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt kì 2 tháng 5, tr 165-169.

SỬ DỤNG MÁY TÍNH CẦM TAY HỖ TRỢ HỌC TẬP...

(tiếp theo trang 14)

1. Đặt vấn đề

Sân khấu Dù Kê Khmer Nam bộ có sức sống và

vị thế quan trọng trong đời sống tinh thần của con người Khmer. Nghệ thuật sân khấu Dù Kê được hình thành qua sự giao lưu văn hóa giữa cộng đồng các dân tộc, được Dù Kê hóa một cách nhuần nhuyễn, đầy tính sáng tạo và hấp dẫn. Nghệ thuật sân khấu Dù kê vừa phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí, vừa giúp người xem cảm nhận được điều hay lẽ phải, nhận thức được thiện - ác, chính - tà, định hướng cho con người tự hoàn thiện mình và tiến tới xã hội lành mạnh, tiến bộ. Đó là món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống của cộng đồng người Khmer.

Với những giá trị đặc biệt của loại hình nghệ thuật này, bài biết nghiên cứu dựa theo lý thuyết giao lưu và tiếp biến văn hóa, để đưa ra nhận định về sân khấu Dù Kê của người Khmer đặt trong bối cảnh không gian văn hóa Nam bộ với nhiều tộc người cùng sinh sống, nhằm giải đáp cho câu hỏi: sân khấu Dù Kê có sự giao lưu với các loại hình nghệ thuật sân khấu của các tộc người khác hay không, hay chỉ đơn thuần là sự kế thừa từ loại hình nghệ thuật sân khấu đã có từ trước đó của người Khmer. Bên cạnh đó, bài viết cũng đưa ra được các nhận định về các giá trị và sân khấu Dù Kê mang lại.

2. Nội dung nghiên cứu

2.1. Nguồn gốc ra đời của sân khấu Dù Kê Có rất nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc ra đời sân khấu Dù Kê của người Khmer Nam Bộ.

Theo như một số nghệ sĩ tại Sóc Trăng: người khởi xướng nên sân khấu Dù Kê là ông Lý Cọn hay còn gọi là Lý Cuôn. Ông là một người Khmer lai, cư ngụ tại huyện Mỹ Tú tỉnh Sóc Trăng. Lý Cọn là một người giàu có, nhưng do thua lỗ bài bạc nên phải bán hết ruộng đất. Đến năm 1921, ông được sự giúp đỡ

và góp vốn nên đã thành lập gánh hát Dù Kê lấy tên gọi là Tự Lập Ban, mời thầy soạn kịch và biên đạo múa là ông Sua từ Trà Vinh về cộng tác [1]. Một số ý kiến khác cho rằng: người sáng tạo ra loại hình sân khấu Dù Kê chính là vị sải cả của chùa Ksách Kandan ở tỉnh Trà Vinh tên gọi là thầy Sua. Ông là

một người rất có năng khiếu về ca múa hát và đam mê nghệ thuật, thế nên ông đã xin hoàn tục để theo đuổi, xây dựng và phát triển loại hình sân khấu này [2]. Bên cạnh đó, theo một thời gian dài tổng hợp các nghiên cứu, nguyên Phó giám đốc Đài truyền hình Trà Vinh - ông Thạch Sết cho rằng: Vào những năm đầu thế kỷ 20 ở xã Hiếu Tử, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà

Vinh xuất hiện một đứa trẻ tên là Kê hát múa rất hay, nên dân làng thường hay kéo nhau đến xem “à” Kê hát (người Khmer họ hay sử dụng “à” để chỉ những nghệ sĩ trên sân khấu). Dần dần tiếng lành đồn xa, nhiều người Kinh cũng đến để xem À Kê hát và đọc thành Vũ Kê (nghĩa là múa của Kê). Do người dân ở vùng đất Nam Bộ hay phát âm “v” thành “d” nên Vũ Kê đã dần thành Dũ Kê và theo thời gian trở thành Dù Kê [3]. Nhìn chung có rất nhiều câu chuyện nói về nguồn gốc ra đời của sân khấu Dù Kê, đòi hỏi cần phải có thêm thời gian nghiên cứu và tìm hiểu.

Về hình thức biểu diễn, sân khấu lúc ban đầu vẫn còn rất đơn sơ, hầu hết các vai diễn đều là nam. Sau cách mạng tháng tám diễn ra, các đoàn hát Dù Kê lánh sang Cam-pu-chia, tại đây các đoàn hát Dù Kê tiếp thu thêm một số yếu tố nghệ thuật mới, làm cho nội dung của sân khấu này có thêm sự sáng tạo và

phong phú, góp phần phát triển thêm về loại hình nghệ thuật sân khấu Dù Kê.

2.2. Biểu hiện của sự giao lưu và tiếp biến văn hóa trong sân khấu Dù Kê

Sân khấu Dù Kê cho thấy được hòa hợp dân tộc và

sự dung hòa của các thể loại nghệ thuật. Ở sân khấu

Đề cương

Tài liệu liên quan